Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giám sát ngân hàng thương mại tại cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hệ thống ngân hàng thương mại với vai trò trung gian tài chính quan trọng của nền kinh tế đã có những đóng góp lớn lao đối với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, góp phần thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế – xã hội của quốc gia. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển mạnh mẽ làm cho các ngân hàng thương mại (sau đây gọi tắt là NHTM) đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng tổ chức kinh tế và cá nhân nói riêng. Thực tiễn cho thấy, hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn đi kèm với việc có rủi ro có thể xảy ra (rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng,..). Do vậy, việc NHTM mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng luôn đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự xuất hiện thêm các loại rủi ro có thể xảy ra. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các NHTM có thể chấp nhận mức độ rủi ro cao để đạt được mục tiêu đề ra của mình. Tuy nhiên, khi rủi ro xảy ra thì cũng đồng nghĩa với việc NHTM phải đối mặt với những hậu quả và tổn thất lớn thậm chí phá sản hay đóng cửa hoạt động. Việc một ngân hàng mất khả năng thanh khoản hay phá sản mang lại hậu quả cho nền kinh tế là rất nghiêm trọng, nên mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng phải cần được giám sát chặt chẽ bởi các cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng để ngăn chặn các nguy cơ đổ vỡ, đảm bảo sự an toàn lành mạnh cho toàn hệ thống. Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Thực tiễn cho thấy, các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra với tần suất ngày càng nhiều và để lại những hậu quả nặng nề cho các nền kinh tế. Gần nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009 đã gây nên sự đổ vỡ của hàng loạt hệ thống ngân hàng, mất giá chứng khoán và mất giá tiền tệ trên quy mô lớn tại nhiều nước trên thế giới mà nguyên nhân của nó bắt đầu từ hiện tượng bong bóng nhà ở cùng với sự giám sát thiếu hoàn thiện ở Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 đã tạo ra mối quan tâm mới về rủi ro hệ thống (hay rủi ro thị trường) đối với các NHTM. Rủi ro hệ thống tạo ra các cú sốc và phản ứng dây chuyền với tốc độ rất nhanh (Kaufman 1994). Điều này đòi hỏi cần phải tăng cường hoạt động giám sát của các cơ quan chức năng đối với các NHTM để hạn chế các rủi ro hệ thống.

Trong thập kỷ vừa qua, đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện lộ trình cam kết mở cửa thị trường tài chính, hoạt động ngân hàng đã có những biến chuyển sâu sắc cả về lượng và chất: số lượng chi nhánh, quy mô vốn, các giao dịch liên kết chứng khoán – ngân hàng, bảo hiểm – ngân hàng, các giao dịch quốc tế ngày càng tăng, mạng lưới các ngân hàng ngày càng rộng khắp trong cả nước phục vụ nhu cầu về dịch vụ ngân hàng cho mọi tầng lớp dân cư. Mặc dù sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009, những cải cách đã giúp hệ thống ngân hàng toàn cầu hoạt động tốt hơn. Tuy nhiên, “sức khỏe” của các hệ thống ngân hàng đang ngày càng đáng lo ngại bởi bị bào mòn bởi tác động tiêu cực từ đại dịch Covid-19. Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến 19/6/2020, tăng trưởng tín dụng ở mức 2,45% so với đầu năm, mức thấp so với cùng kỳ các năm trước (6 tháng năm 2019 tăng 7,36%, 6 tháng 2018 tăng 7,82%) do dịch Covid-19 đã làm suy giảm tổng cầu của nền kinh tế và nhu cầu vay vốn. Cùng với đó nợ xấu của hệ thống ngân hàng tăng đáng kể. Dự kiến nợ xấu nội bảng toàn hệ thống ngân hàng dự báo có thể tăng lên 4%, cao hơn so với mức 1,89% cuối năm 2019 do tăng trưởng tín dụng ở mức thấp, hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn trong bối cảnh kinh tế tăng trưởng thấp.

Để hạn chế tác động tiêu cực của nó, Việt Nam cần tăng cường giám sát thị trường tài chính, trong đó có hệ thống ngân hàng nhằm phòng ngừa việc mất khả năng thanh toán, phá sản dẫn đến đổ vỡ hệ thống ngân hàng.

Từ lý do trên, Tác giả lựa chọn Đề tài “Giám sát ngân hàng thương mại tại cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ nhằm nghiên cứu về hoạt động giám sát NHTM của ngân hàng nhà nước, từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp đổi mới hoạt động giám sát ngân hàng thương mại để giám sát hiệu quả hơn và phù hợp hơn với tình hình thực tế hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hang tại Ngân hang Nhà nước Việt Nam, diễn biến kinh tế vĩ mô, qua đó góp phần đảm bảo sự phát triển lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời gian tới. Trong đó, cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở đây được hiểu là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Tài Chính – Ngân Hàng

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Đã có một số nghiên cứu về hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam được một số tác giả trong nước đề cập trên các góc độ khác nhau. Tác giả Nguyễn Quan Thép và Trịnh Quang Anh (2010) trong bài viết: “Bàn về hoạt động giám sát khu vực ngân hàng tài chính Việt Nam trong thời kỳ mới” đã đánh giá thực trạng hệ thống ngân hàng tài chính Việt Nam và sự cần thiết phải củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra, giám sát trong khu vực này; đưa ra một vài mô hình giám sát ngân hàng tài chính điển hình của các nước trên thế giới và một số khuyến nghị về việc lựa chọn mô hình giám sát mới phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, bài viết chưa đi sâu phân tích về thực trạng hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam, chưa đưa ra các giải pháp đổi mới hoạt động giám sát ngân hàng thương mại mà chỉ đưa ra một vài khuyến nghị về việc lựa chọn mô hình giám sát.

Nguyễn Chí Đức (2012) trong bài viết “Xây dựng hệ thống GSNH thương mại Việt Nam” cho rằng một hệ thống GSNH gồm các yếu tố cấu thành sau: cơ quan giám sát của nhà nước, cơ chế kiểm soát nội bộ, kỷ luật thị trường (KLTT – market discipline), và các thành phần khác (như: tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG), hiệp hội ngân hàng…). Muốn phát huy tác dụng của hệ thống giám sát ngân hàng thì các yếu tố cấu thành trên đều phải hoạt động và phối hợp với nhau một cách có hiệu quả. Trên cơ sở kết quả phân tích thực trạng các yếu tố cấu thành của hệ thống giám sát ngân hàng Việt Nam, tác giả đưa ra một số vấn đề tồn tại trong hệ thống giám sát ngân hàng đang gặp phải, từ đó đưa ra một số kết luận và kiến nghị. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả chủ yếu đánh giá về mô hình hệ thống giám sát ngân hàng, về vai trò, phạm vi của các yếu tố cấu thành của hệ thống giám sát ngân hàng từ đó đưa ra mô hình giám sát tài chính Việt Nam trong tương lai, vai trò, vị trí pháp lý của các yếu tố cấu thành trong hệ thống giám sát ngân hàng. Bài viết chưa đi sâu nghiên cứu về hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam, do đó cũng chưa đưa ra những khuyến nghị đổi mới hoạt động giám sát ngân hàng thương mại thương mại ở Việt Nam.

Tác giả Lý Thị Thơ (2005) trong Luận văn Thạc sỹ Nâng cao chất lượng công tác giám sát của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam đã đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giám sát đối với các tổ chức tín dụng của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Tác giả nhấn mạnh vai trò của công tác giám sát. Hoạt động theo dõi và giám sát các TCTD trong đó có các NHTM Việt Nam thường chỉ chú trọng thanh tra tại chỗ. Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng cũng như hệ thống công nghệ thông tin hiện nay, hoạt động giám sát cần được chú trọng hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước. Năm 2008, tác giả Nguyễn Hà Thanh đã có nghiên cứu trong Luận văn Thạc sỹ về Tăng cường giám sát hoạt động NHTM tại NHNN Việt Nam. Tác giả đã tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát và thanh tra tại chỗ cũng như sự phối hợp hoạt động của hai hoạt động này. Tác giả đã đưa ra một khái niệm rộng hơn về thanh tra giám sát ngân hàng, theo đó hoạt động giám sát ngân hàng thương mại mới là hoạt động đúng nghĩa mà một cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng tiến hành bên cạnh hoạt động thanh tra trực tiếp tại các NHTM. Tác giả cũng đã đề xuất các giải pháp liên quan đến hoàn thiện tổ chức nhiệm vụ của Thanh tra Ngân hàng Nhà nước, hoàn thiện nội dung và phương pháp giám sát, nâng cao chất lượng cán bộ…Các giải pháp này trực tiếp tăng cường giám sát hoạt động NHTM của NHNN Việt Nam.

Tuy nhiên, trên cơ sở các nghiên cứu của một số tác giả trong nước, liên quan đến hoạt động giám sát của NHNN Việt Nam đối với các NHTM, tác giả nhận thấy các nghiên cứu chủ yếu tiếp cận dưới góc độ giám sát ngân vĩ mô tổng thể nền kinh tế mà chưa đi sâu vào các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng, chưa cập nhật với những thay đổi về cơ chế, chính sách hay mô hình tổ chức hoạt động của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Giám sát ngân hàng không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện các kỹ năng giám sát mà phải được thể hiện ở hệ thống các bước trong quy trình, thủ tục giám sát, hệ thống các báo cáo định kỳ có chất lượng, phản ánh được đầy đủ hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng trong quá khứ, hiện tại và dự đoán tương lai.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ cơ sở lý luận cơ bản về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại và vận dụng lý luận về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại; trên cơ sở đó phân tích, đáng giá thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của NHNN Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm đổi mới hoạt động giám sát ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

  • Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại.
  • Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
  • Đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó bao gồm hệ thống các bước trong quy trình, tủ tục giám sát, hệ thống các báo cáo định kỳ có chất lượng, phản ánh được đầy đủ hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng trong quá khứ, hiện tại và dự đoán tương lai.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động giám sát ngân hàng thương mại (bao gồm các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần) tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:

Dữ liệu nghiên cứu được sử dụng trong giai đoạn 2016-2020 tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Giải pháp cho giai đoạn 2021-2030.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về mối liên lệ giữa lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát ngân hàng thương mại. Xuất phát từ lý thuyết về quy trình và nội dung giám sát NHTM, luận văn tập trung đánh giá thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, một số tồn tại, hạn chế cũng như bối cảnh kinh tế Việt Nam thời gian qua để đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng thương mại. Các phương pháp cụ thể được sử dụng là:

  • Phương pháp thống kê: Luận văn sử dụng các số liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho việc phân tích thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của NHNN Việt Nam.
  • Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này sử dụng để đánh giá các nghiên cứu hiện có trong và ngoài nước, từ đó hình thành khung lý thuyết cho luận văn; đánh giá về thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của NHNN Việt Nam.
  • Phương pháp đối chiếu, so sánh: hoạt động giám sát các ngân hàng của NHNN Việt Nam so sánh với một số mô hình giám sát đang được ứng dụng tại một số nước trên thế giới về khả năng áp dụng phù hợp thực tiễn tại Việt Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

  • Về mặt khoa học, luận văn góp phần hệ thống hóa lý luận cơ bản về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại làm cơ sở để phát triển các công trình nghiên cứu có liên quan.
  • Phân tích, đánh giá làm rõ thực trạng về hoạt động giám sát ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
  • Đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát ngân hàng thương mại trong những năm tiếp theo.

Việc nghiên cứu này không chỉ có ý nghĩa với Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mà còn ý nghĩa với cả hệ thống tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước trong việc đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài nghiên cứu được cấu trúc thành 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát ngân hàng thương mại của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Chương 3: Giải pháp đổi mới hoạt động giám sát ngân hàng thương mại tại Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Hoạt động giám sát của Ngân hàng Nhà nước đối với ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

1.1.1. Khái niệm

Theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 (đã được sửa đổi bổ sung): Ngân hàng thương mại (NHTM) là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động ngân hàng ngày càng mở rộng và phát triển mạnh mẽ làm cho NHTM đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng tổ chức kinh tế và cá nhân nói riêng. Thực tiễn cho thấy, hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn đi kèm với việc có rủi ro có thể xảy ra (rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng,..). Do vậy, việc NHTM mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng luôn đồng nghĩa với việc phải chấp nhận sự xuất hiện thêm các loại rủi ro có thể xảy ra. Việc một ngân hàng mất khả năng thanh khoản hay phá sản mang lại hậu quả cho nền kinh tế là rất nghiêm trọng. Theo đó, tại Việt Nam, để ngăn chặn các nguy cơ đổ vỡ, đảm bảo sự an toàn lành mạnh cho toàn nền kinh tế, hoạt động giám sát ngân hàng thương mại được thực hiện chặt chẽ bởi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng là đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao nhiệm vụ thực hiện chức năng tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quản lý nhà nước đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.

Thuật ngữ giám sát ngân hàng theo nghĩa rộng, được hiểu là tất cả các hoạt động nhằm bảo đảm cho sự an toàn và lành mạnh của hệ thống các tổ chức tài chính, bao gồm: định chế, cấp phép, giám sát, thanh tra tại chỗ và cưỡng chế thực thi các hành động chỉnh sửa kịp thời (thực hiện các quyền năng thanh tra giám sát). Trong một số trường hợp, thuật ngữ này cũng bao hàm cả các hoạt động như: thu thập và xử lý thông tin tín dụng, đánh giá và xếp hạng TCTD, bảo hiểm tiền gửi, bảo vệ người sử dụng dịch vụ tài chính ngân hàng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố, …

Theo nghĩa hẹp, giám sát ngân hàng có thể chỉ được hiểu là hoạt động giám sát của cơ quan Nhà nước có chức năng thực hiện giám sát, nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Trong nghiên cứu này, thuật ngữ giám sát NHTM của Ngân hàng Nhà nước được hiểu theo quy định tại Khoản 12 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010: giám sát ngân hàng là hoạt động của NHNN trong việc thu thập, tổng hợp phân tích thông tin về đối tượng giám sát ngân hàng thông qua hệ thống thông tin, báo cáo nhằm phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời rủi ro gây mất an toàn hoạt động ngân hàng, vi phạm quy định an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

1.1.2. Mục đích của hoạt động giám sát ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Mặc dù với mô hình tổ chức hoạt động giám sát không thống nhất giữa các quốc gia nhưng hoạt động giám sát ngân hàng nhìn chung đều có cùng mục đích:

Thứ nhất, hoạt động giám sát ngân hàng nhằm đảm bảo sự an toàn và lành mạnh, tránh sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Thông qua hoạt động giám sát hoạt động của các NHTM, cơ quan giám sát phát hiện, đánh giá được những rủi ro, vi phạm trong hoạt động ngân hàng từ đó đưa ra những cảnh bảo, quy định về giới hạn, tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng; khuyến nghị, yêu cầu ngân hàng thực hiện các biện pháp hạn chế rủi ro, xử lý phạm trong hoạt động ngân hàng từ đó đảm bảo hoạt động của các ngân hàng an toàn, lành mạnh

Thứ hai, thông qua hoạt động giám sát, Cơ quan giám sát ngân hàng duy trì sự ổn định và lòng tin của các bên đối với hệ thống tài chính, nhờ đó giảm được rủi ro cho bên gửi tiền và các bên cho vay khác.

1.1.3. Vai trò của hoạt động giám sát ngân hàng thương mại

Dựa trên bản chất hoạt động NHTM cũng như vai trò của các NHTM đối với nền kinh tế, đặc biệt tính nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước các cuộc khủng hoảng tài chính, có thể nhận thấy, hoạt động giám sát của NHNN đối với các NHTM có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự ổn định của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, bởi lẽ:

Thứ nhất, ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Hoạt động ngân hàng có vai trò hết sức cần thiết đối với các thành phần kinh tế, thực tiễn cho thấy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các hoạt động ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển với nhiều tiện ích, đáp ứng yêu cầu của người dân và doanh nghiệp. Nhiều nhà kinh tế còn quan niệm “ngân hàng là người bạn đồng hành trong cuộc sống của người dân và các tổ chức kinh tế”, tuy nhiên, việc mở rộng quy mô cũng như đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ của mình, các NHTM luôn phải đối mặt với rủi ro. Việc chấp nhận mở rộng và phát triển kinh doanh của các NHTM cũng đồng nghĩa với việc xuất hiện các rủi ro trong kinh doanh. Vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các NHTM sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao để đạt được mục tiêu của mình. Nếu rủi ro xảy ra, cũng đồng nghĩa với việc các NHTM phải đối mặt với nguy cơ sụt giảm uy tín, mất khả năng thanh khoản, và thậm chí là đi tới phá sản hay đóng cửa. Điều này đòi hỏi hoạt động ngân hàng phải được sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý để tránh các nguy cơ đổ vỡ, đảm bảo sự an toàn lành mạnh cho hệ thống nói chung và từng NHTM nói riêng. Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Việc giám sát chặt chẽ các NHTM sẽ giúp cho các NHTM giảm thiểu được rủi ro đối với từng ngân hàng và giúp cho các NHTM hoạt động an toàn, đảm bảo được khả năng chi trả cũng như nghĩa vụ thanh toán của nó tại những thời điểm xác định. Hơn thế nữa, việc giám sát các NHTM bởi các cơ quan quản lý cũng sẽ đảm bảo rằng các NHTM có đủ mức vốn để trụ vững trước những tác động bất lợi từ môi trường bên ngoài cũng như bên trong của NHTM (Lingdgren 1996). Ngoài ra, việc giám sát chặt chẽ các NHTM còn có vai trò tích cực tới nâng cao trách nhiệm của các NHTM trong việc tăng cường năng lực quản trị rủi ro trong các NHTM, đảm bảo ứng phó tốt nhất đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh.

Theo Sluijs (2006), việc giám sát các NHTM không chỉ đơn thuần là đảm bảo cho từng NHTM hoạt động an toàn mà còn đảm bảo sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Việc giám sát các NHTM sẽ giúp cơ quan chức năng sớm xác định những nguy cơ tiềm tàng có thể làm tổn thương đến hệ thống ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp nhằm ngăn chặn sớm sự bất ổn của hệ thống. Hơn thế nữa, việc giám sát còn giúp cho hệ thống ngân hàng phát triển an toàn, ổn định, thực hiện tốt và hiệu quả việc phân bổ nguồn lực tài chính từ khu vực tiết kiệm đến khu vực đầu tư, các loại rủi ro tài chính được giám sát, đánh giá và quản lý một cách hiệu quả để đảm bảo hệ thống tránh được sự đổ vỡ hàng loạt với số lượng lớn các định chế tài chính.

Thứ hai, bảo vệ quyền lợi người gửi tiền

Ngân hàng thương mại là nơi tích trữ tiền tiết kiệm hàng đầu của công chúng, đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình, việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá sản sẽ trở thành thảm họa cho nhiều cá nhân và hộ gia đình. Trong khi đó, người gửi tiền lại thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính và thiếu thông tin cần thiết để đánh giá chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng, do đó, việc giám sát hoạt động của các NHTM sẽ giúp cho cơ quan quản lý có được những thông tin cần thiết để xác định tình trạng tài chính của ngân hàng để từ đó có những giải pháp phù hợp bảo vệ quyền lợi người gửi tiền.

Thực tế cho thấy, khi ngân hàng đổ vỡ và lây lan đến cả hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng và tác động tiêu cực tới công chúng và toàn xã hội là rất lớn. Do đó, các Chính phủ thường phải bỏ tiền để ngăn chặn và khắc phục hậu quả, thống kê của các tổ chức quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) thì chi phí bỏ ra để ngăn ngừa sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền lợi người gửi tiền không dưới 20% GDP.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ

Các NHTM cần được quản lý chặt chẽ bởi khả năng tạo tiền từ những khoản tiền gửi từ các cá nhân và tổ chức kinh tế thông qua hoạt động cho vay và đầu tư. Sự thay đổi trong khối lượng tiền tệ do hệ thống ngân hàng tạo ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới công tác điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) cũng như các mục tiêu kinh tế vĩ mô đặt ra. Bên cạnh đó, các rủi ro liên quan đến ngân hàng như nợ xấu cao, mất vốn, mất khả năng chi trả… cũng ảnh hưởng đến ổn định xã hội và gây ra tình trạng bất ổn kinh tế vĩ mô như lạm phát hay cản trở tăng trưởng kinh tế. Do vậy, việc giám sát chặt chẽ các NHTM sẽ giúp cho Chính phủ và NHNN có thể thực thi CSTT một cách hiệu quả và đạt được các mục tiêu đề ra trong ngắn hạn cũng như trung và dài hạn. Hơn nữa, việc giám sát hoạt động ngân hàng thương mại còn làm tăng niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính, đảm bảo các khoản tiết kiệm được tập trung cho đầu tư sản xuất và đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế.

Thứ tư, đảm bảo cạnh tranh bình đẳng

Rose (2001), Huệ (2011) và các nhà kinh tế học chỉ ra rằng, các ngân hàng cần chịu sự quản lý và giám sát của các cơ quan chức năng bởi lẽ chúng cung cấp cho cá nhân và doanh nghiệp những khoản vay, tài trợ tiêu dùng hoặc tài trợ đầu tư. Xã hội sẽ thu được những lợi ích to lớn nếu như hệ thống ngân hàng cung cấp một lượng tín dụng thích hợp và đúng địa chỉ. Tuy nhiên, khi có sự phân biệt đối xử trong việc cấp tín dụng, các cá nhân, doanh nghiệp bị phân biệt đối xử sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, điều này có thể ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh và nền kinh tế nói chung. Do vậy, việc giám sát các NHTM sẽ giúp cơ quản quản lý hạn chế và từng bước loại bỏ tình trạng phân biệt đối xử trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính. Ngoài ra, việc giám sát cũng giúp cho Chính phủ và NHNN ngăn chặn việc tập trung tiềm lực tài chính và tay một số ít cá nhân hay tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế và thị trường cạnh tranh.

1.1.4. Đặc điểm hoạt động giám sát ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Hoạt động giám sát NHTM có những đặc trưng sau:

Gắn liền với quản lý Nhà nước

Hoạt động quản lý Nhà nước được thực hiện theo chu trình từ ban hành chính sách, văn bản pháp luật đến việc thực hiện các quy định của pháp luật và tiến hành kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện. Cũng như các hoạt động giám sát khác, với tư cách là chức năng, là giai đoạn của chu trình quản lý Nhà nước, hoạt động giám sát ngân hàng gắn liền với quản lý Nhà nước. Hoạt động giám sát ngân hàng được thực hiện bởi Cơ quan Nhà nước có chức năng và thẩm quyền thực hiện giám sát, có thể là Ngân hàng trung ương, Bộ Tài chính hoặc Cơ quan giám sát chuyên biệt. Cơ quan giám sát ngân hàng giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật của các NHTM là thực hiện một khâu trong chu trình quản lý Nhà nước.

Mang tính quyền lực Nhà nước

Chức năng, quyền hạn của Cơ quan giám sát ngân hàng được quy định tại các văn bản pháp luật. Khi thực hiện hoạt động giám sát, Cơ quan giám sát ngân hàng nhân danh quyền lực Nhà nước có quyền bắt buộc NHTM thực hiện báo cáo tình hình hoạt động của đơn vị mình. Qua kết quả giám sát, khi phát hiện sai sót, gian lận hoặc vi phạm pháp luật về hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật, Cơ quan giám sát ngân hàng có quyền xử phạt vi phạm, yêu cầu ngân hàng thực hiện các biện pháp chỉnh sửa hoặc chuyển cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật.

Mang tính thường xuyên, liên tục

Diễn biến nền kinh tế ở mỗi quốc gia cũng như toàn cầu liên tục thay đổi, theo đó hệ thống ngân hàng năng động và phát triển không ngừng để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế. Các dịch vụ ngân hàng mới hình thành có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể tạo ra những cú sốc đối với hệ thống ngân hàng, tài chính, dẫn chứng cụ thể là dịch vụ cho vay dưới chuẩn bắt nguồn từ Mỹ không những dẫn tới sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng lớn tại nước này mà còn gây ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu . Hơn nữa, với sự phát triển của kinh tế – tài chính trong nền kinh tế thị trường, những biến động tài chính xảy ra nhiều hơn, với quy mô ngày càng lớn hơn, phức tạp và khó dự đoán hơn. Do đó, để có thể kịp thời phát hiện những rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng như rủi ro trong hệ thống ngân hàng tài chính, hoạt động GSNH phải được thực hiện thường xuyên, liên tục.

1.2. Nguyên tắc giám sát ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Hiện nay, nhiều quốc gia định hướng áp dụng các nguyên tắc giám sát NHTM của Basel II1 để nâng cao chất lượng hệ thống giám sát.Theo đó, các nguyên tắc của công tác rà soát giám sát được nhấn mạnh bao gồm:

  • Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó.
  • Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình này.
  • Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
  • Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
  • Các nguyên tắc của đánh giá giám sát
  • Một là, quản lý thông tin và đưa ra báo cáo đánh giá về tình hình đủ vốn liên quan đến tình hình rủi ro và chiến lược duy trì các mức vốn của ngân hàng. Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước
  • Hai là, giúp Cơ quan thanh tra giám sát xem xét và đánh giá các quá trình đánh giá và chiến lược liên quan đến tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng, đồng thời xem xét khả năng theo dõi và bảo đảm sự chấp hành các tỷ lệ vốn pháp định. Từ đó cơ quan thanh tra giám sát có những hành động giám sát phù hợp trong trường hợp không thấy hài lòng với kết quả
  • Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel Committee on Banking supervision – BCBS) được thành lập vào năm 1974 bởi một nhóm các Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển (G10) nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Ủy ban Basel chỉ xây dựng và công bố những tiêu chuẩn và những hướng dẫn giám sát rộng rãi, đồng thời giới thiệu các báo cáo thực tiễn tốt nhất trong kỳ vọng rằng các tổ chức riêng lẻ sẽ áp dụng rộng rãi thông qua những sắp xếp chi tiết phù hợp nhất cho hệ thống quốc gia của chính họ của quá trình này.
  • Ba là, cơ quan thanh tra giám sát yêu cầu các ngân hàng hoạt động trên mức tỷ lệ vốn pháp định tối thiểu và có thể yêu cầu các ngân hàng phải có số vốn vượt mức tối thiểu.
  • Bốn là, thực hiện cánh báo sớm, từ đó cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng tìm cách can thiệp sớm để phòng ngừa vốn bị thiếu so với mức qui định tối thiểu để hỗ trợ những đặc điểm rủi ro của một ngân hàng nhất định và yêu cầu ngân hàng có những hành động khắc phục kịp thời nếu vốn không được duy trì hoặc khôi phục.
  • Nguyên tắc về những vấn đề cụ thể cần được giải quyết trong quá trình xem xét, đánh giá giám sát: Các vấn đề cụ thể cần phải được chỉ ra sau mỗi quá trình xem xét, đánh giá ngân hàng và đều được lưu lại trong hệ thống, làm cơ sở cho việc theo dõi sám sát sau thanh tra.
  • Các nguyên tắc về minh bạch và trách nhiệm của quá trình giám sát:
  • Một là, kết quả thanh tra giám sát được quản lý minh bạch, trưởng đoàn thanh tra và cán bộ quản lý cấp cao có thể theo dõi công việc của các thanh tra viên.
  • Hai là, hệ thống thông tin hỗ trợ việc trao đổi thông tin xuyên suốt, kịp thời giữa các thành viên trong đoàn thanh tra và các cán bộ quản lý.

Điều kiện tiền đề cho thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả

1.3. Nội dung, quy trình giám sát ngân hàng thương mại

1.3.1. Nội dung giám sát Ngân hàng thương mại

Nội dung giám sát NHTM bao gồm:

  • Thu thập, tổng hợp và xử lý tài liệu, thông tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng theo yêu cầu giám sát;
  • Xem xét, theo dõi tình hình chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và các quy định khác của pháp luật có liên quan; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng của đối tượng giám sát ngân hàng;
  • Phân tích, đánh giá thường xuyên tình hình tài chính, hoạt động, quản trị, điều hành và mức độ rủi ro đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và toàn bộ hệ thống các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thực hiện xếp hạng các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
  • Phát hiện, cảnh báo các yếu tố tác động, xu hướng biến động tiêu cực, rủi ro gây mất an toàn hoạt động, các rủi ro, nguy cơ dẫn đến vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng đối với từng tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và hệ thống các tổ chức tín dụng;
  • Kiến nghị, đề xuất biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro, vi phạm pháp luật của đối tượng giám sát ngân hàng theo quy định của pháp luật.

1.3.2. Quy trình giám sát NHTM: Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Hoạt động giám sát NHTM được thực hiện theo các bước như sau:

Bước 1: Thu thập, tổng hợp, xử lý và lưu trữ tài liệu, thông tin, dữ liệu: Đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng tiến hành thu thập tài liệu, thông

tin, dữ liệu của đối tượng giám sát ngân hàng từ các nguồn như báo cáo thống kê, báo cáo tài chính, báo cáo khác. Tài liệu, thông tin, dữ liệu về đối tượng giám sát ngân hàng, sau khi được thu thập từ các nguồn khác nhau, được kiểm tra, so sánh, đối chiếu và tổng hợp để sử dụng trong việc đánh giá, phân tích về đối tượng giám sát ngân hàng.

Tài liệu, thông tin, dữ liệu phải được lưu trữ một cách khoa học, đầy đủ theo từng hồ sơ của từng đối tượng giám sát ngân hàng và toàn hệ thống;

Bước 2: Phân tích, đánh giá về đối tượng giám sát ngân hàng:

Sau khi có đầy đủ thông tin, dữ liệu và kiểm tra tính chính xác của thông tin, cán bộ giám sát thực hiện phân tích, đánh giá tình hình hoạt động và việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng của các NHTM. Trong đó, bao gồm cả nội dung đánh giá tuân thủ và đánh giá rủi ro.

Bước 3: Đề xuất các hành động can thiệp, chỉnh sửa bao gồm các biện pháp xử lý trong giám sát ngân hàng, bao gồm:

  • Khuyến nghị, cảnh báo.
  • Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.
  • Áp dụng can thiệp sớm.
  • Kiến nghị cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý giám sát ngân hàng khác theo quy định của pháp luật.

Bước 4: Giám sát sau thanh tra khi nhận được kết luận thanh tra về đối tượng giám sát ngân hàng từ đơn vị thực hiện thanh tra ngân hàng.

Việc giám sát sau thanh tra bao gồm việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra của đối tượng giám sát ngân hàng. Trên cơ sở đề xuất biện pháp xử lý phù hợp nhằm đảm bảo kết luận thanh tra được thực hiện đúng quy định.

1.4. Hình thức và phương pháp giám sát ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

1.4.1. Hình thức giám sát ngân hàng thương mại

Về hình thức, giám sát ngân hàng được tiến hành thông qua hai hình thức: (i) giám sát an toàn vi mô và (ii) giám sát an toàn vĩ mô. Trong đó giám sát an toàn vi mô được hiểu là hình thức giám sát an toàn đối với từng đối tượng giám sát riêng lẻ và giám sát an toàn vĩ mô là hình thức giám sát an toàn toàn bộ hệ thống các NHTM, chi nhánh NHNNg (giám sát an toàn hệ thống).

Sự khác nhau giữa hai hình thức giám sát ngân hàng trên còn được thể hiện qua mục đích của chúng. Giám sát an toàn vĩ mô nhằm đảm bảo sự an toàn cho toàn hệ thống NHTM, tránh những bất ổn định tài chính, tránh tác động tiêu cực đến tăng trưởng của nền kinh tế; theo đó giám sát sự tương tác giữa các NHTM và thị trường; tập trung vào các rủi ro chung của hệ thống của NHTM (top-down) theo các biến động kinh tế gây nên sự mất an toàn, đổ vỡ đối với toàn hệ thống NHTM.

Giám sát an toàn vi mô nhằm đảm bảo an toàn cho sự an toàn trong hoạt động của từng NHTM, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng (gồm người gửi tiền, nhà đầu tư vào NHTM) trên cơ sở kết hợp thanh tra trên cơ sở rủi ro và thanh tra tuân thủ; tập trung vào các rủi ro của từng NHTM (bottom-up).

Đây là hai hình thức giám sát không thể tách rời nhau: sẽ là không đầy đủ nếu chỉ xem xét, đánh giá mức độ an toàn, lành mạnh của toàn bộ hệ thống NHTM theo các phân tích tổng hợp mà không xem xét tới từng NHTM riêng lẻ do đặc điểm lan truyền rủi ro trong hoạt động ngân hàng (một NHTM mất an toàn hoạt động thể ảnh hưởng gây mất an toàn hoạt động của nhiều NHTM khác). Ở chiều ngược lại, việc chỉ xem xét, đánh giá từng NHTM sẽ không có được cái nhìn hệ thống, phân tích tác động của hoạt động ngân hàng lên nền kinh tế để từ đó có các quyết sách đúng đắn vừa thúc đẩy, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo an toàn hệ thống.

1.4.2. Phương pháp giám sát ngân hàng thương mại

Căn cứ vào tính chất đặc thù hoạt động cũng như trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng mà mỗi Ngân hàng Trung ương (NHTW), Cơ quan Giám sát Tài chính có các phương pháp giám sát khác nhau (Phương pháp giám sát là phương pháp định hướng cho hoạt động giám sát của NHTW đối với các TCTD), tuy nhiên, về cơ bản thì hiện nay các nước trên thế giới có 02 phương pháp phổ biến: (i) Phương pháp giám sát tuân thủ và (ii) Phương pháp giám sát rủi ro.

Phương pháp giám sát tuân thủ: là phương pháp giám sát ngân hàng mà theo đó đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thực hiện giám sát hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng thông qua việc theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, các quy định khác của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; các chỉ đạo, yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước; việc thực hiện kết luận thanh tra và khuyến nghị, cảnh báo về giám sát ngân hàng. Theo đánh giá của các chuyên gia của Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức (GIZ) thì Phương pháp tuân thủ thường được dùng ở những giai đoạn mà hoạt động ngân hàng đơn thuần là những hoạt động truyền thống, các dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phát triển, số lượng ngân hàng chưa nhiều.

Phương pháp giám sát rủi ro: phương pháp giám sát ngân hàng mà theo đó đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng thực hiện giám sát hoạt động của đối tượng giám sát ngân hàng thông qua việc đánh giá các loại rủi ro của từng đối tượng giám sát ngân hàng đang và sẽ gặp phải, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động và các loại rủi ro khác; đánh giá rủi ro hệ thống của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhằm phân bổ nguồn lực giám sát và đưa ra các biện pháp xử lý thích hợp. Phương pháp giám sát rủi ro thường được áp dụng tại các quốc gia mà hoạt động ngân hàng tương đối phát triển, hoạt động ngân hàng không chỉ bao gồm các hoạt động truyền thống mà còn mở rộng các loại hoạt động và dịch vụ ngân hàng hiện đại. Theo các chuyên gia ngân hàng, phương pháp này đòi hỏi phải có một sự phát triển đồng bộ về hệ thống cơ sở pháp lý, về hệ thống quản lý thông tin, các công cụ định lượng và trình độ của cán bộ giám sát ngân hàng, đặc biệt là khả năng phân tích và sử dụng các công cụ định lượng.

Khác với giám sát tuân thủ, giám sát rủi ro rủi ro tập trung vào đánh giá các vấn đề bằng cách xác định những lỗ hổng hệ thống và các hoạt động quản lý yếu kém tại đối tượng giám sát ngân hàng mà phát sinh các vấn đề hiện tại và tiềm ẩn. Trong trường hợp các vấn đề nghiêm trọng, đơn vị thực hiện giám sát ngân hàng có thể thực hiện tiếp xúc đối tượng giám sát ngân hàng để xác định các vấn đề nhằm đánh giá chính xác về mức độ rủi ro, trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp can thiệp kịp thời.

Bảng 1.1. Sự khác nhau giữa giám sát tuân thủ và giám sát rủi ro

1.5. Mô hình tổ chức giám sát ngân hàng thương mại Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Hiện tại chưa có một mô hình thống nhất giám sát hệ thống NHTM đối với các quốc gia trên thế giới. Các nhân tố mang tính lịch sử, truyền thống, thể chế chính trị, đặc thù hệ thống tài chính – ngân hàng trong nước là những lý do chủ yếu dẫn tới mô hình giám sát ngân hàng nào được lựa chọn. Theo tác giả, để phân chia mô hình giám sát ngân hàng có thể dựa trên các tiêu chí: vị trí của NHTW trong việc thực hiện giám sát hoặc phạm vi giám sát của cơ quan giám sát.

Theo vị trí của NHTW trong việc thực hiện giám sát

Theo vị trí của NHTW trong việc thực hiện giám sát, có thể chia Mô hình giám sát NHTM thành 2 nhóm: (1) nhóm những nước mà NHTW đóng vai nhà độc quyền về giám sát ngân hàng; và (2) nhóm các nước còn lại, nơi NHTW không có trách nhiệm hoặc không phải là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm về giám sát ngân hàng.

Mô hình giám sát mà NHTW đóng vai nhà độc quyền về giám sát ngân hàng. Đây là mô hình giám sát ngân hàng trong đó trách nhiệm, quyền hạn trong việc giám sát ngân hàng được giao cho duy nhất NHTW thực hiện, trong đó bộ máy giám sát ngân hàng được đặt trong NHTW như là một Vụ hoặc nâng tầm đơn vị GSNH lên thành đơn vị bán độc lập và vẫn đặt trong NHTW. Mô hình này có một số ưu và nhược điểm sau:

Ưu điểm: (i) NHTW có thông tin chính xác và kịp thời về tình trạng và hiệu quả hoạt động của các ngân hàng tạo điều kiện cho việc xây dựng chính sách tiền tệ.; (ii) Các thông tin mật trong lĩnh vực giám sát ngân hàng sẽ dễ dàng được các NHTW chia sẻ cho nhau một cách nhanh chóng, tin cậy và an toàn do các NHTW đã có bề dày lịch sử quan hệ chặt chẽ với nhau thông qua các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS). Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Nhược điểm: (i) Xung đột lợi ích giữa việc điều hành chính sách tiền tệ và việc thực thi chức năng giám sát; (ii) Tập trung nhiều quyền lực thường dễ đe dọa tính độc lập của nó bởi sự can thiệp chính trị.

Mô hình giám sát ngân hàng mà NHTW không có trách nhiệm hoặc không phải là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm giám sát. Đây là mô hình mà NHTW không có trách nhiệm giám sát ngân hàng hoặc không phải là do quan duy nhất chịu trách nhiệm về giám sát ngân hàng mà trách nhiệm giám sát ngân hàng được giao cho đơn vị khác thực hiện hoặc cùng thực hiện, có thể là một Cơ quan giám sát độc lập hoặc Bộ Tài chính.

Trong các cách lựa chọn trên, mô hình Bộ Tài chính rõ ràng là ít được ưa chuộng nhất, vì cho tới nay các tiêu chuẩn khắt khe về thu – chi ngân sách có thể dẫn tới sự điều hành thái quá về một số hoạt động giám sát ngân hàng. Hơn nữa, Cơ quan giám sát ngân hàng nếu trực thuộc Bộ Tài chính, có lẽ sẽ cực kỳ khó khăn để giành được cùng một mức độ tự chủ và tránh được các áp lực chính trị hay hạn chế ngân sách như là trực thuộc NHTW.

Theo phạm vi giám sát

Căn cứ theo phạm vi giám sát có thể chia mô hình tổ chức giám sát NHTM thành 04 nhóm: (1) Mô hình giám sát hợp nhất; (2) Mô hình giám sát theo định chế; (3) Mô hình giám sát theo chức năng; (4) Mô hình giám sát lưỡng đỉnh.

Mô hình giám sát hợp nhất: là mô hình chỉ bao gồm một cơ quan giám sát duy nhất chịu trách nhiệm giám sát toàn bộ các trung gian và thị trường thuộc lĩnh vực ngân hàng, tài chính và bảo hiểm.

Mô hình này có ưu điểm là ngăn ngừa những mâu thuẫn và khoảng cách trong việc giám sát các ngành thuộc lĩnh vực tài chính; tạo ra một “sân chơi” thống nhất cho các ngành thuộc lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, điểm bất lợi lớn nhất của mô hình này là sự cồng kềnh, thiếu linh hoạt và độc quyền cũng như sự kém hiệu quả về chi phí khi triển khai áp dụng. Cơ quan giám sát cũng sẽ gặp những hạn chế nếu thực hiện giám sát một số lượng lớn các tổ chức với cùng một phương pháp mà không cần quan tâm đến những khác biệt ngành nghề của các tổ chức này cũng những khác biệt khác liên quan đến chuẩn mực kế toán. Việc áp dụng mô hình cũng đồng thời làm giảm sự cân bằng hợp lý giữa ba mục tiêu của hoạt động giám sát, hướng ưu tiên nhiều hơn vào mục tiêu giám sát hoạt động kinh doanh thay vì mục tiêu bảo vệ khách hàng.

Mô hình giám sát thể chế: Đối với mô hình giám sát theo định chế, tư cách pháp nhân của định chế tài chính sẽ quyết định cơ quan giám sát. Mô hình này thường là lựa chọn của các quốc gia khi xây dựng cơ chế giám sát tài chính ở giai đoạn đầu, tức là khi các định chế trung gian tài chính có sự phân định rõ ràng thuộc ngành ngân hàng, chứng khoán hay bảo hiểm. Theo đó, NHTW vừa điều hành chính sách tiền tệ, vừa thực hiện chức năng giám sát các NHTM. Cơ quan quản lý bảo hiểm giám sát công ty bảo hiểm và Cơ quan quản lý chứng khoán giám sát công ty chứng khoán.

Ưu điểm: nhờ sự chuyên môn hóa, các cơ quan giám sát có thể nắm bắt được một cách sâu sắc nhất các đặc điểm về hoạt động của đối tượng giám sát, do đó, việc giám sát các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm tỏ ra hiệu quả hơn một cơ quan giám sát hai hay nhiều lĩnh vực trên thị trường tài chính. Việc giám sát cũng sẽ diễn ra thường xuyên hơn bởi hoạt động giám sát gắn liền với việc tổ chức hoạt động kinh doanh và được thực hiện bởi cùng một bộ chủ quản; yêu cầu giám sát cũng thường gắn liền với hoạt động nghiệp vụ của từng lĩnh vực nhằm đảm bảo an toàn cho từng định chế và hệ thống. Vì vậy, mô hình thể chế sẽ phát huy hiệu quả cao khi các cơ quan giám sát có phương pháp, quy trình và hệ thống chỉ tiêu giám sát đầy đủ, tuân theo thông lệ, chuẩn mực quốc tế tốt nhất; đặc biệt là việc đảm bảo một cơ sở hạ tầng tốt (bao gồm hệ thống máy tính để thu thập, xử lý thông tin và kho dữ liệu tập trung).

Nhược điểm: (1) Không tạo được cơ chế độc lập cho hoạt động giám sát (cho phép cơ quan quản lý chuyên ngành vừa thực hiện chức năng quản lý hoạt động kinh doanh lại vừa quản lý hoạt động giám sát an toàn). Đây là trường hợp khi ngân hàng trung ương (NHTW) cùng lúc đóng hai vai, vừa xây dựng, ban hành cơ chế hoạt động cho các ngân hàng, vừa chính là cơ quan thanh tra giám sát các hoạt động đó, khiến việc phát hiện, xử lý sai phạm không thể thực hiện một cách minh bạch; (2) Khó khăn cho cơ quan giám sát trong việc xác định trách nhiệm giám sát đối với các sản phẩm liên kết đa lĩnh vực (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm); (3) Việc giám sát toàn hệ thống sẽ bị hạn chế do thiếu thông tin giám sát nếu không có cơ chế hiệu quả trong việc chia sẻ thông tin, phối hợp giữa các cơ quan giám sát thị trường.

Mô hình giám sát theo chức năng: Mô hình giám sát chức năng là mô hình giám sát mà việc giám sát được xác định bởi hoạt động kinh doanh của các thực thể, không quan tâm đến hình thức pháp lý của các thực thể đó. Điểm khác nhau giữa mô hình này với mô hình giám sát thể chế là ở chỗ, mỗi loại hoạt động kinh doanh có thể có một cơ quan giám sát riêng biệt, do đó một tổ chức có thể chịu sự giám sát của nhiều cơ quan khác nhau (ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm). Nếu cung cấp dịch vụ trên càng nhiều lĩnh vực, tổ chức này sẽ càng chịu sự giám sát của nhiều cơ quan. Do đó, ở mô hình này, đòi hỏi có sự phân định rõ ràng trách nhiệm trong việc giám sát của các cơ quan tham gia giám sát đối với các hoạt động cụ thể như ngân hàng, chứng khoán hay bảo hiểm. Với đặc điểm trên, mô hình giám sát chức năng thường được áp dụng tại các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển, với sự ra đời của nhiều sản phẩm tài chính phức tạp, kết hợp nhiều lĩnh vực.

Ưu điểm của mô hình này là loại trừ được các khe hở giám sát do tránh được tình trạng nhiều cơ quan giám sát giải thích và thực hiện cùng một quy định theo những hướng khác nhau, hoặc thậm chí là mâu thuẫn; và cho phép xác định và giám sát một cách đầy đủ các tổ chức chỉ cung cấp một số lượng hạn chế các dịch vụ tài chính, hoặc các tổ chức quá nhỏ để có thể giám sát thận trọng và không nhất thiết phải chịu sự giám sát theo cách truyền thống. Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Tuy nhiên, do tính đa dạng và đổi mới của sản phẩm đặc biệt trong bối cảnh thị trường tài chính ngày càng phát triển như hiện nay, sẽ khó khăn trong việc phân biệt một hoạt động kinh doanh thuộc về cơ quan giám sát nào quản lý. Các tổ chức tài chính cũng sẽ có những bất lợi nhất định khi cùng lúc chịu sự giám sát của nhiều cơ quan. Đặc biệt, việc giám sát rủi ro hệ thống cũng sẽ bị hạn chế do thiếu thông tin đầy đủ, xuyên suốt về toàn bộ hoạt động của một tổ chức tài chính. Theo đó, việc xây dựng hệ thống thông tin tập trung, chia sẻ kho dữ liệu chung để giảm bớt quy trình và thời gian báo cáo cho các tổ chức tài chính, hỗ trợ tích cực cho việc tiến hành giám sát rủi ro toàn hệ thống được nhiều quốc gia áp dụng để giảm thiểu những bất lợi của mô hình.

Mô hình giám sát lưỡng đỉnh:Mô hình giám sát lưỡng đỉnh tạo sự phân biệt trong cơ quan quản lý, theo đó, một cơ quan chuyên về giám sát độ an toàn và khả năng tài chính, một cơ quan giám sát hành vi kinh doanh và bảo vệ người tiêu dùng. Mô hình này có ưu điểm là tách được chức năng ổn định tài chính và chứng năng bảo vệ người tiêu dùng cho hai cơ quan giám sát khác nhau. Đây được coi là mô hình tối ưu trong việc đảm bảo sự minh bạch, toàn vẹn thị trường và bảo vệ người tiêu dùng. Hạn chế của mô hình là làm nảy sinh mâu thuẫn khi cơ quan giám sát an toàn phải lựa chọn giữa sự an toàn hệ thống và bảo vệ người tiêu dùng vì cơ quan này thường sẽ ưu tiên mục tiêu an toàn hệ thống hơn và người tiêu dùng có thể bị thiệt hại khi một định chế tài chính nào đó phá sản.

Rõ ràng, việc lựa chọn mô hình giám sát ngân hàng nào hoàn toàn có thể dựa trên những chuẩn mực pháp lý có sẵn. Mỗi quốc gia khác nhau có thể chế chính trị khác nhau, cư xử văn hoá hành chính khác nhau, và đặc biệt là có cấu trúc hệ thống tài chính – ngân hàng đặc thù của mình, dẫn tới mô hình giám sát ngân hàng được chọn lựa cũng khác nhau. Việt Nam hiện đang áp dụng mô hình giám sát thể chế, theo đó, mỗi cơ quan quản lý phụ trách giám sát một lĩnh vực riêng biệt. Hoạt động ngân hàng chịu sự giám sát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước mà đơn vị đầu mối, chủ chốt là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng. Trong khi đó, hoạt động bảo hiểm chịu sự giám sát trực tiếp của Cục Quản lý và Giám sát Bảo hiểm; thị trường chứng khoán chịu sự giám sát trực tiếp của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động giám sát ngân hàng thương mại

1.6.1. Nhân tố khách quan

1.6.1.1. Đặc điểm hoạt động của ngân hàng thương mại

Đặc điểm hoạt động của hệ thống NHTM tác động đến việc lựa chọn mô hình, phương pháp, nội dung và phạm vi giám sát. Một khi hệ thống NHTM phát triển, hoạt động và dịch vụ ngân hàng đa dạng, phức tạp thì mô hình giám sát ngân hàng lựa chọn là mô hình mà nhiều cơ quan thực hiện giám sát, chuyển từ giám sát tuân thủ sang giám sát trên cơ sở rủi ro. Ngoài ra, khi hệ thống NHTM phát triển, xây dựng được hệ thống quản lý thông tin đảm bảo chất lượng, hiệu quả cũng tác động tích cực đến hoạt động giám sát của NHTW. Thông tin do NHTM cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác vì đây là cơ sở để giúp cho NHTW có những đánh giá ban đầu đúng đắn về hoạt động ngân hàng.

1.6.1.2. Đặc điểm kinh tế của quốc gia Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Đặc điểm kinh tế của mỗi quốc gia ảnh hưởng đến mô hình giám sát và phương thức giám sát được lựa chọn. Quốc gia có nền kinh tế phát triển, hoạt động hệ thống NHTM đa dạng, phức tạp với nhiều loại hình và cấp độ thì hệ thống GSNH cũng đòi hỏi được tổ chức chặt chẽ, nhiều cơ quan phối hợp thực hiện giám sát. Trong khi đó, ở các nước có nền kinh tế đang phát triển, hệ thống NHTM đã có những hội nhập nhất định nhưng số lượng và loại hình NHTM còn hạn chế, các hoạt động kinh doanh và dịch vụ ngân hàng còn ở mức đơn giản tương đối so với các nước phát triển thì mô hình tổ chức thực hiện giám sát NHTM thường do một cơ quan chuyên trách, chủ yếu do NHTW đảm nhiệm. Ngoài ra, khi nền kinh tế phát triển, dịch vụ ngân hàng phức tạp hơn đòi hỏi phương pháp giám sát, cách thức giám sát và nội dung GSNH cũng phải thay đổi phù hợp, chuyển từ giám sát tuân thủ sang giám sát trên cơ sở rủi ro nhằm phát hiện những rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra đối với ngân hàng, từ đó có biện pháp hạn chế và xử lý rủi ro, tránh đổ vỡ hệ thống ngân hàng.

1.6.1.3. Đặc điểm chính trị

Đặc điểm chính trị của mỗi quốc gia cũng tác động không nhỏ tới hoạt động giám sát NHTM. Việc chính trị hóa các quy trình quản lý có thể gây khó khăn cho Cơ quan giám sát thực hiện chức năng GSNH một cách hiệu quả. Ngoài ra, sự thay đổi về chính trị dẫn tới thay đổi về chính sách tác động gián tiếp và tác động trực tiếp tới hoạt động giám sát của Cơ quan giám sát. Cụ thể, khi có những biến động về chính trị hoạt động của NHTM sẽ bị ảnh hưởng, từ đó hoạt động của Cơ quan GSNH cũng cần thay đổi phù hợp.

1.6.1.4. Các quy định pháp luật

Quy định của pháp luật đối với hoạt động giám sát của NHTW đối với NHTM cần chặt chẽ và rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của NHTW trong hoạt động giám sát đối với NHTM. Cụ thể:

  • Luật pháp cần quy định thống nhất, khả thi và rõ ràng trách nhiệm của NHTW và các cơ quan giám sát khác có liên quan trong hoạt động giám sát đối với các NHTM. NHTW cần độc lập trong hoạt động, không phải chịu các áp lực về chính trị và có khả năng thực hiện được các mục tiêu của mình.
  • Luật pháp về ngân hàng cũng cần quy định các tiêu chuẩn tối thiểu mà các ngân hàng phải đáp ứng; cho phép NHTW có thể linh hoạt để ấn định các quy tắc đảm bảo an toàn theo hình thức bắt buộc hành chính khi cần thiết, trao quyền hạn cho NHTW có thể phạt trong phạm vi nhất định trong trường hợp ngân hàng không tuân thủ những yêu cầu đảm bào an toàn.
  • Pháp luật cần bảo vệ các hoạt động giám sát của NHTW theo đúng chức năng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giám sát.
  • Xây dựng hệ thống hợp tác giữa NHTW và các cơ quan giám sát có liên quan, cả trong và ngoài nước, phân định rõ trách nhiệm của các bên trong hoạt động giám sát đối với các NHTM; sự hợp tác này cần được đảm bảo bởi cơ chế bảo mật và bảo đảm các thông tin này chỉ được sử dụng cho các mục đích có liên quan tới việc giám sát.

1.6.2. Nhân tố chủ quan Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

1.6.2.1. Mô hình giám sát và cơ chế phối hợp giữa các đơn vị

Như đã phân tích tại phần trên, không có một mô hình giám sát ngân hàng nào được coi là tuyệt đối, mỗi một mô hình có những ưu và nhược điểm. Sự phù hợp của mô hình giám sát ngân hàng được lựa chọn tác động không nhỏ tới hiệu lực, hiệu quả của hoạt động giám sát. Trường hợp hệ thống ngân hàng vẫn còn phát triển ở trình độ thấp, quy mô hoạt động nhỏ, dịch vụ ngân hàng còn đơn giản, các ngân hàng chưa phát triển hoạt động ra nước ngoài thì mô hình giám sát ngân hàng lựa chọn phải gọn nhẹ và thường là do một cơ quan chuyên trách thực hiện giám sát để đảm bảo tính hiệu quả, tránh lãng phí nguồn lực. Tuy nhiên, nếu hệ thống ngân hàng đã phát triển, dịch vụ ngân hàng đa dạng và phức tạp hơn, xuất hiện các tập đoàn tài chính – ngân hàng hoạt động trên cả lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm đòi hỏi nhiều tổ chức nhiều thực hiện giám sát, đồng thời phân định rõ vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức thực hiện giám sát cũng như cơ chế phối hợp phải hài hòa, việc chia sẻ thông tin giữa các tổ chức này phải liên tục, chặt chẽ hoặc cơ quan giám sát phải đảm bảo có đầy đủ chức năng giám sát hợp nhất đối với hoạt động của các tập đoàn này. Mô hình giám sát cần phải có sự phối hợp tốt giữa giám sát và thanh tra tại chỗ để phát huy tốt nhất ưu thế của mỗi công cụ giám sát, đồng thời giải quyết hài hòa quyền lợi của các bên tham gia. Việc xây dựng mô hình giám sát mà cơ chế trao đổi thông tin giữa các đơn vị không chặt chẽ, quyền lợi của các bên không được giải quyết hài hòa có thề dẫn đến xung đột lợi ích từ đó ảnh hưởng tới hiệu lực của hoạt động giám sát.

1.6.2.2. Năng lực của cán bộ thực hiện giám sát Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

Yếu tố con người luôn là yếu tố đặc biệt quan trọng, đặc biệt đối với hoạt động giám sát ngân hàng. Lĩnh vực ngân hàng không chỉ là lĩnh vực hoạt động phức tạp, chứa nhiều rủi ro mà hoạt động ngân hàng còn ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế. Trình độ của cán bộ giám sát được thể hiện không chỉ là trình độ của từng cán bộ mà là trình độ chung của toàn bộ đội ngũ cán bộ giám sát. Do hoạt động giám sát của NHTW đối với NHTM là hoạt động dàn trải trên nhiều lĩnh vực hoạt động của ngân ngân hàng nên mỗi cán bộ giám sát vừa phải có kiến thức rộng về các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, tiền tệ, vừa phải có chuyên môn sâu về một hoạt động cụ thể. Trình độ của cán bộ giám sát bên cạnh tính chính xác trong các báo cáo giám sát, chỉ ra những nguy cơ chung trong hoạt động ngân hàng. Do vậy, cán bộ giám sát phải có khả năng tổng hợp thông tin tốt, linh hoạt trong thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau, sàng lọc thông tin và đưa ra những phân tích khách quan, chính xác. Bên cạnh đó, cán bộ giám sát cần phối hợp với các cán bộ thanh tra tại chỗ để kiểm chứng thêm thông tin về các NHTM có những dấu hiệu bất thường, xây dựng danh sách các ngân hàng cần chú ý trong báo cáo cảnh báo sớm.

1.6.2.3. Hạ tầng công nghệ thông tin

Hệ thống công nghệ thông tin ngân hàng ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của ngân hàng và dịch vụ ngân hàng. Để có thể nắm bắt thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về đối tượng giám sát, đơn vị thực hiện chức năng giám sát cần được trang cấp hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin phù hợp. Hạ tầng công nghệ lạc hậu có thể dẫn tới việc chậm trễ, sai lệch thông tin từ đó ảnh hưởng tới việc ra các quyết định quản lý, thậm chí có thể ảnh hưởng tới hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.

Tóm tắt chương 1

Chương 1 tác giả đã hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về hoạt động giám sát ngân hàng, nội dung giám sát và các phương pháp giám sát ngân hàng. Đồng thời, đã phân tích đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giám sát. Những lý luận trên làm cơ sở để luận giải những vấn đề thực tế trong hoạt động giám sát NHTM thời gian qua tại CQTTGSNH. Từ đó tác giả đánh giá những thành tựu và hạn chế trong công tác giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020. Luận văn: Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Luận văn: Tổng quan về giám sát Ngân hàng Nhà nước

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x