Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tham nhũng đã bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính hoặc thông qua công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới các mối quan hệ để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân, cho những người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm những hành vi sai phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu vực tư do các quan hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra.

Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh phòng chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan điểm rõ ràng “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Thực tiễn đã cho thấy Việt Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên các chủ thể đại diện cho xã hội tham gia Phòng, chống tham nhũng. Theo Chương V, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân.

Đây là những chủ thể xã hội quan trọng được pháp luật trao quyền để thực hiện Phòng, chống tham nhũng, nhờ sự trao quyền đó các chủ thể này đã tạo nên một thế “ Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham nhũng góp phần quan trọng thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng”. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài Khoá luận tốt nghiệp cử nhân ngành Luật học với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu rõ hơn nữa về pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam; cũng như làm rõ vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay; để có những đánh giá, kết quả khách quan về công tác phòng chống tham nhũng của các chủ thể xã hội, từ đó chỉ ra những hạn chế và có đề xuất phù hợp trong bối cảnh pháp luật của nước ta hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Từ trước đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu khoa học, các bài viết có đề cập các vấn đề liên quan đến nội dung này một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như:

 -Về sách và giáo trình: Chu Hồng Thanh, Vũ Công Giao, Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, đồng chủ biên (2013), Giáo trình lý luận và pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Công Giao, Nguyễn Quốc Văn (2017), Phát huy vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Hồng Đức; TS Trần Hậu Thành, TS Nguyễn Thế Huấn (2006), Tìm hiểu Luật phòng, chống tham nhũng và một số quy định của Bộ Luật Hình Sự hiện hành về xử lý tội tham nhũng (dưới dạng hỏi và đáp), Nhà xuất bản lý luận chính trị;

Về các đề tài, công trình nghiên cứu khoá học: Phan Thị Hiền (2008), Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Thị Kim Ngân (2013), Phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bùi Quang Huy (2008), Tham nhũng và vấn đề phòng, chống tham nhũng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội…

Về các bài viết đăng trên: Tạp chí Nội Chính, Nghiên cứu lập pháp, Báo nhân dân, Báo lao động…

Những nghiên cứu trên đã củng cố kiến thức, cung cấp một lượng thông tin lớn về cả lý luận và thực tiễn về Vai trò, trách nhiệm  của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Đó là cơ sở quan trọng để giúp chúng ta nhìn nhận kết quả phòng chống tham nhũng trong thời gian gần đây, để từ đó đưa ra một số giải pháp về nâng cao vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Khoá luận này sẽ đề cập đến khía cạnh pháp lý cho việc thúc đẩy vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam. Với mục đích đem lại nét tổng quan của pháp luật Viêt Nam về phòng, chống tham nhũng. Đồng thời đưa ra tổng kết và một vài giải pháp cụ thể, trong việc bảo đảm và nâng cao chất lượng thực hiện quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể xã hội. Giúp thúc đẩy tinh thần phòng, chống tham nhũng ở mỗi cá nhân và nhấn mạnh nêu cao trách nhiệm của các chủ thể xã hội trong công cuộc phòng, chống tham nhũng đầy gian nan hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, những chỉ đạo đường lối, chính sách của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam được thể hiện trong pháp luật của nhà nước. Phân tích thực trạng, đánh giá tình hình tham gia của xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, những ưu điểm, bất cập còn tồn tại, đề xuất giải pháp.

Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản:

  • 1.Đưa ra tầm quan trọng, sự cần thiết của các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
  • 2.Phân tích cơ sở, điều kiện pháp lý bảo đảm quyền, nghĩa vụ cho các chủ thể xã hội trong việc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
  • 3.Đánh giá thực tiễn công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam, trong thời gian gần đây.

Từ đó đưa ra ưu điểm, hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm đảm bảo và nâng cao vai trò xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, tác giả sử dụng chủ yếu các biện pháp nghiên cứu bao gồm:

  • Tổng hợp – đánh giá.
  • So sánh – đánh giá.
  • Phân tích – đánh giá.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Khoá luận là công trình khoa học tốt nghiệp ở cấp độ Cử nhân đề cập đến vấn đề “Vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. Cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm, kết quả và đề xuất có giá trị tham khảo với các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật phòng, chống tham nhũng nói riêng để tiếp tục phòng, chống tham nhũng có hiệu quả hơn nữa trong những thời gian tiếp theo.

7. Cơ cấu của Khoá luận tốt nghiệp Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Khoá luận này ngoài phần mở đầu, được chia thành 3 chương với nội dung cơ bản như sau:

Chương 1. Khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

  • Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng
  • Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam

Chương 2. Đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc phòng chống tham nhũng ở Viêt Nam.

  • Quan điểm của Đảng và Nhà nước       
  • Khung pháp luật cơ bản

Chương 3. Đánh giá thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam.

  • Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng từ 2013 – 2018
  • Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VAI TRÒ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1 Nhận thức chung về phòng, chống tham nhũng

1.1.1. Khái niệm tham nhũng

Tham nhũng vấn nạn hiện hữu của nhiều quốc gia trên thế giới, ở mỗi quốc gia đều có biểu hiện riêng biệt theo nghĩa hẹp: Nước Đức tham nhũng là hiện tượng mất phẩm chất, hối lộ, đút lót, thường xảy ra đối với công chức có quyền hành; Nước áo tham nhũng là hiện tượng lừa đảo, hối lộ, bóc lột; Thụy Sỹ tham nhũng là hậu quả nghiêm trọng của sự vô tổ chức của tầng lớp có trách nhiệm trong bộ máy Nhà nước, đó là hành vi phạm pháp để phục vụ lợi ích cá nhân (Từ điển Bách Khoa của Thụy Sỹ). Nước Pháp tham nhũng bao gồm những hành vi lạm dụng quyền hạn để thu vén lợi ích vật chất (Từ điển bách khoa) .

Còn ở Việt Nam nhìn nhận ở nghĩa hẹp và khái niệm được pháp luật quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi và bổ sung một số điều vào các năm 2007 và 2012): “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (Khoản 2, Điều 1). Theo Luật người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Được thể hiện bao gồm các quy định ở ( Khoản 2, Khoản 3, Điều 1): a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.

Từ đó bao quát theo nghĩa rộng, tham nhũng không phải là một khái niệm trừu tượng mà biểu hiện thông qua hành vi cụ thể mà theo pháp luật các quốc gia, theo xác định Công ước phòng, chống tham nhũng sẽ bị coi là biểu hiện tham nhũng. Tham nhũng là: bóp méo đi sự thật phá hoại liêm chính hoặc thông qua công cụ là vật chất, lợi ích ban tặng để tác động tinh thần, tới các mối quan hệ để làm lợi, làm giàu bất chính hoặc bất hợp pháp cho bản thân, cho những người thân cận hoặc để tạo cơ hội cho những kẻ khác làm những hành vi sai phạm. Tham nhũng có thể diễn ra ở khu vực công và khu vực tư do các quan hệ lợi ích của các chủ thể có quyền lực tạo ra. Khái niệm rộng này cho chúng ta thấy bản chất, biểu hiện dù tham nhũng có phân loại “Tham nhũng lớn hay tham nhũng nhỏ” thì nó luôn mang đậm bản chất phi nghĩa, phi pháp. Đó là những hành vi bị lên án được thể hiện ngay tại Luật ở các quốc gia và Công ước quốc tế.

1.1.1 Khái niệm phòng chống tham nhũng

Tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Nó xảy ra ở các quốc gia không phân biệt kinh tế giữa các vùng lãnh thổ, không phân biệt chế độ chính trị, tôn giáo. Hành vi tham nhũng đang len lỏi hàng ngày, hàng giờ thể hiện ở tất cả các lĩnh vực công việc và cuộc sống của con người trên khắp hành tinh để pháp vỡ trật tự công bằng trong xã hội. Sự mất kiểm soát, buông lỏng để cho hành vi tham nhũng “ hoá phép” là vô cùng nghiêm trọng, vì vậy phòng chống tham nhũng là quốc sách hàng đầu của tất cả các quốc gia. Để xây dựng, bảo vệ pháp quyền và phát triển sự công bằng lợi ích trong xã hội giữa các chủ thể. “Tham nhũng là hậu quả của sự thiếu hụt ba yếu tốt gồm trách nhiệm giải trình, sự liêm chính và tính minh bạch trong bối cảnh tồn tại sự chuyên quyền độc đoán và tuỳ ý hành động do thiếu sự kiểm soát của các cơ quan và công chức nhà nước”.

 Do tính chất phổ biến và có xu hướng phát triển của nó, đấu tranh phòng chống tham nhũng từ lâu đã là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới và trong đó có Việt Nam. Việt Nam với tâm thế quan điểm rõ ràng “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đoàn thể và quần chúng nhân dân”. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Chính vì vậy, “PCTN được hiểu là tổng thể các biện pháp của các cơ quan có thẩm quyền tham gia vào quá trình phòng ngừa ngăn chặn, đấu tranh đẩy lùi và xoá bỏ các chủ thể được cho là có các hành vi tham nhũng”.

Vấn đề phòng chống tham nhũng của Việt Nam được thể hiện thông qua hợp tác quốc tế và thực thi cụ thể hoá pháp luật ở trong quốc gia.

Ở trong nước không thể không nhắc đến những chỉ đạo trực tiếp trong chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các giai đoạn và trong Hiến pháp. Từ đó được luật hoá đi sâu vào thực tiễn của đời sống với nhiều văn bản pháp luật như: Luật phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi bổ sung các năm 2007 và 2012), Luật phòng chống tham nhũng 2018 sắp có hiệu lực T7/2018), Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí 2013, Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi bổ dung năm 2017)…vv. Các chủ thể đại diện tham gia phòng, chống tham nhũng được pháp luật trao quyền và được pháp luật bảo vệ. Từ đó thông qua hoạt động tiến hành các biện pháp để ngăn chặn và đấu tranh mầm mống phát sinh tham nhũng, các hành vi của người có chức vụ, quyền hạn nhằm chiếm đoạt bất hợp pháp lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác cho mình hoặc người thân cận.

1.2 Sự tham gia của các chủ thể trong việc phòng chống tham nhũng ở Việt Nam 

1.2.1 Cơ sở xã hội

Là một căn bệnh xuất phát từ lợi ích và gắn liền với quyền lực công, tham nhũng xuất hiện từ rất sớm trong xã hội loài người. Nó đặc biệt trở thành vấn nạn khi các nhà nước ra đời; Lịch sử Việt Nam cho thấy không phải đợi đến thời kỳ hiện đại, tham nhũng xuất hiện ngay trong các nhà nước chủ nô và phong kiến.

Cho dù còn bị hạn chế nhiều tư tưởng phong kiến song nhìn chung các triều đại đã có cách thức để phòng ngừa tham nhũng. Từ lịch sử nhìn ra chúng ta càng khẳng định thêm vai trò của xã hội trong phòng chống tham nhũng qua các giai đoạn lịch sử. Lịch sử còn cho thấy các triều đại phong kiến Việt Nam cũng đã có những biện pháp quan trọng để phòng ngừa tham nhũng. Pháp luật phong kiến Việt Nam xưa cũng quy định khá đầy đủ về xây dựng bộ máy phong kiến tập quyền, không thể bỏ qua bộ luật tiêu biểu là luật Hồng Đức đã có nhiều cải cách mạnh mẽ như giám sát lẫn nhau giữa các quan lại. Bộ luật Hồng Đức còn phân công mỗi bộ phận phụ trách một việc, các bộ phải chịu giám sát của các khoa, công việc của các Đạo do các hiến ty giám sát, các quan lại chịu sự giám sát lẫn nhau, quan trên giám sát quan dưới. Dưới thời đó họ còn phát huy vai trò xã hội, trong đó có nhân dân, đặc biệt coi trọng vai trò của nhân dân trong việc tố cáo hành vi tham nhũng. Các triều đại còn tạo ra cơ chế khuyến khích và bảo vệ người tố giác hành vi tham nhũng, như tố giác việc biển thủ tiền thuế sẽ được miễn lao dịch 3 năm, rồi trọng thưởng biểu dương. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Còn ở Việt Nam hiện nay, khái niệm “xã hội” được hiểu theo rất nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa đơn giản nhất đó là một tập thể hay một nhóm người được phân biệt với các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng, chia sẻ cùng một thể chế và có cùng văn hoá. Chủ nghĩa Mác – Lênin nhìn nhận xã hội không phải là tập hợp giản đơn các cá nhân, mà là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau.Theo nghĩa rộng, “xã hội” là toàn bộ các hình thức hoạt động chung của con người đã hình thành trong lịch sử. “xã hội” thường được dùng để chỉ một tập đoàn người được hiểu như một hiện thực của các thành viên của nó, hoặc là chỉ một môi trường của con người mà cá nhân được hoà nhập vào, môi trường đó được xem như là toàn bộ các lực lượng có tổ chức và có hệ thống tôn ti trật tự tác động lên cá nhân.

Các lý thuyết về sự kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội đã và đang ảnh hưởng tích cực đến nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo đó, trong Phòng, chống tham nhũng, sự giám sát từ phía xã hội có vai trò hạn chế tối đa sự lạm dụng quyền lực nhà nước vì mục đích cá nhân. Theo triết lý Phật giáo về bản ngã nhân sinh thì con người có bản tính tham, sân, si. Một trong những biểu hiện của nó là tham lam, đam mê quyền lực. Điều này dẫn đến khó kiểm soát, gây nên tổn thất cho người khác và cho xã hội.

Từ những nhận định trên ta thấy việc tổ chức vận hành bộ máy quyền lực quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phượng nếu không có “Kiếm soát quyền lực” thì sẽ bị thao túng. Vì vậy kiểm soát quyền lực nhà nước là một việc làm luôn được đặt song song, gắn với nó là xây dựng xã hội dân chủ. Khi nhà nước vận hành mọi hoạt động của nhà nước đều phải công khai và nằm trong tầm kiểm soát của xã hội, mọi lạm quyền, tuỳ tiện của những người thực thi công vụ sẽ ít có cơ hội diễn ra và do đó, tham nhũng khó nảy sinh. Từ góc độ này cho thấy rằng tất cả các quốc gia trong đó có việt nam, sự giám sát nhà nước từ phái xã hội là đương nhiên, tất yếu, xuất phát từ chính nguồn gốc tạo lập cho sự ra đời và hoàn thiện của nhà nước.

Từ lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Người đã nhấn mạnh “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ những tư tưởng về một xã hội bình đẳng đã tạo ra sự nghiệp“Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” kế thừa của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phát triển qua từng năm tháng. Tới nay tư tưởng nhà nước pháp quyền trong hiện đại ngày nay được ghi nhận ở Điều 2 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Qua đó, chúng ta càng khẳng định vai trò xã hội trong đấu tranh và Phòng, chống tham nhũng theo dòng lịch sử. Phòng, chống tham nhũng không chỉ xuất phát từ lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía xã hội mà còn xuất phát từ bản chất của Nhà nước Việt Nam theo ghi nhận của Hiến pháp “Là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. PTCN là nhiệm vụ của toàn xã hội, khoản 2, Điều 8 Hiến pháp 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tuỵ phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch cửa quyền”. Có một cơ sở xã hội khá toàn diện với các chủ thể từ Trung ương tới địa phương. Các chủ thể này đại diện cho quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong PTCN.

1.2.2 Cơ sở pháp lý Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Thực tiễn đã cho thấy Việt Nam đã có một cơ sở pháp lý tốt để tạo nên các chủ thể đại diện cho xã hội tham gia Phòng, chống tham nhũng. Theo Chương V, Luật phòng, chống tham nhũng 2005, các chủ thể xã hội trong phòng, chống tham nhũng bao gồm: Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Báo chí và truyền thông; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng; Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; Người dân. Đây là những chủ thể xã hội quan trọng được pháp luật trao quyền để thực hiện Phòng, chống tham nhũng, nhờ sự trao quyền đó các chủ thể này đã tạo nên một thế “Vững mạnh” trên mặt trận phòng chống tham nhũng góp phần quan trọng thực hiện “Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng”.

  • Mặt trận Tổ quốc Việt Nam:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có trách nhiệm vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng là tham gia vào cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và gian khổ; đòi hỏi phải có quyết tâm cao, bản lĩnh vững vàng, có giải pháp phù hợp, thực hiện kiên trì bền bỉ và lâu dài” (theo Hội nghị lần thứ 3, Uỷ ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt nam tham gia thực hiện Luật PTCN và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí).

Với việc ban hành Luật Mặt trận Tổ quốc Việt nam 2015 với căn cứ theo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với 8 chương và 41 điều đã củng cố và thể hiện rõ chức năng nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt nam.

Điều 23, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt nam 2015 nêu rõ sự tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí

  1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí với các nội dung sau đây:
  2. Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
  3. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, lãng phí; xác minh vụ việc tham nhũng, lãng phí; xử lý người có hành vi tham nhũng, lãng phí;
  4. Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng, lãng phí.
  5. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, trả lời yêu cầu, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với 44 tổ chức thành viên của Mặt trận và 7 Hội đồng tư vấn đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan chính quyền nhà nước để tăng cường đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao đạo đức trong xã hội, trách nhiệm công vụ với những người làm công tác nhà nước, nhất là giáo dục đông đảo thanh thiếu niên, đoàn viên, đảng viên… để học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyên truyền phát huy các tầng lớp nhân dân về Luật Phòng, chống tham nhũng, tạo nên một thế trân mạnh mẽ trong xã hội, để kiên quyết đấu tranh đẩy lùi tư tưởng xấu và lên án phòng, chống hành vi tham nhũng trong xã hội. Nhân dân tham gia Mặt trận Tổ quốc Việt nam thông qua các tổ chức thành viên; thông qua tổ chức thành viên có thể tham gia ý kiến, phản ánh, kiến nghị Mặt trận Tổ quốc Việt nam để phản ánh và kiến nghị với Đảng, Nhà nước.

Với mạng lưới tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt nam ở TW, ở địa phương (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), đã góp phần thực hiện giám sát và phản biện xã hội, thực hiện tốt công tác giám sát Phòng, chống tham nhũng ở các cấp trên địa bàn. Từ đó động viên “phong trào” thúc đẩy các tầng lớp nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ; phát hiện tố cáo những hành vi tham nhũng, có biện pháp bảo vệ và hình thức khen thưởng xứng đáng đối với những người đã có hành động dũng cảm phát hiện và tố giác tham nhũng. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các thành viên tuân thủ khuân khổ Hiến pháp, pháp luật, phối hợp, hành động hiệu quả và phải nghiêm chỉnh thực hiện kiểm điểm, kiểm tra công việc nội bộ, trong đó có hoạt động các ban, đơn vị kinh tế, các quỹ, các chương trình dự án do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức thành viên quản lý và công tác tài sản, tài chính các cơ quan. Không được để xảy ra tham nhũng trong nội bộ, tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận. Người đứng đầu Mặt trận Tổ quốc hoặc tổ chức Mặt trận phải có trách nhiệm nếu để xảy ra vi phạm tham nhũng nơi mình quản lý điều hành.

Độc lập hoặc phối hợp có hiệu quả với các cơ quan Đảng, Nhà nước; thúc đẩy minh bạch “Phát huy dân chủ, sáng tạo”. Trong thời gian vừa qua Trung ương Mặt trận Tổ quốc đã phối hợp hiệu quả với Ban chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng đã ban hành văn bản và tuyên truyền, giáo dục nhân dân và các tổ chức thành viên Mặt trận Tổ quốc khắp mọi nơi. Hành động hiệu quả với Chính phủ, điển hình như: (Thông qua Chương trình hành động Quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010. Chương trình đã cụ thể 4 đề án (i) Đưa thông tin pháp luật đến cán bộ, nhân dân thông qua phương tiện thông tin đại chúng và các thiết chế văn hoá thông tin ở xã, phường, thị trấn; (ii) Xây dựng và đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động chấp hành pháp luật trong cộng đồng dân cư; (iii) Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại tố cáo ở xã, phường, thị trấn; (iv) Phát huy vai trò của cơ quan và cán bộ tư pháp trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn). Mặt trận Tổ quốc đã thực hiện giám sát, phát hiện, tố cáo tham nhũng và phản biện xã hội. Mặt trận Tổ quốc thực hiện qua 03 hình thức nền tảng:

  • Thực hiện giám sát thông qua việc giải quyết đơn thư kiếu nại, tố cáo của công dân, công khai độc lập không lệ thuộc về nhân sự và thủ tục vào các cơ quan Nhà nước.
  • Động viên, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền giám sát, qua đó, tổng hợp phản ánh, kiến nghị của nhân dân và có ý kiến chính thức với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
  • Tham gia một số hoạt động của cơ quan nhà nước để qua đó giám sát hoạt động của cơ quan này.

Báo chí và truyền thông Việt Nam Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Báo chí là sản phẩm thông tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử (khoản 1, Điều 3 Luật Báo chí 2016). Báo chí là người bạn đồng hành cùng xã hội mọi lúc mọi nơi trong mọi vấn đề, báo chí cơ quan ngôn luận và phản biện cho toàn xã hội thúc đẩy nỗ lực vào công cuộc thay đổi cuộc sống. Cùng với đó truyền thông sẽ làm lan toả hoạt động chia sẻ, truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định thái độ… thông qua các phương tiện khác như thông qua điện tử, cử chỉ ngôn ngữ và hành vi; truyền thông giúp lan tỏa thông tin một cách nhanh tróng, thuận lợi mà không bị trở ngại về địa lý.

Báo chí và truyền thông Việt Nam trong thời gian vừa qua đã phát triển mạnh mẽ và song hành cùng toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị trong công tác phòng chống tham nhũng. Thông qua báo cáo đánh giá công tác báo chí năm 2018; tính đến tháng 11/2018, cả nước có khoảng 19.000 nhà báo được cấp Thẻ Nhà báo; số lượng Hội viên Hội Nhà báo là 23.893. Cả nước hiện có 844 cơ quan báo chí in với 184 báo in, 660 tạp chí và 24 cơ quan báo chí điện tử độc lập. Nhờ sự chuyển biến đó mà nhiều vụ án tham nhũng đã bị phát hiện và đưa ra xét xử công khai, thu hút sự chú ý của đông đảo dư luận xã hội. Theo chiến lược Quốc gia về Phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã chỉ rõ một trong những phương pháp nhầm nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong Phòng, chống tham nhũng là: Đẩy mạnh và đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho nhân dân về biểu hiện, tác hại của tham nhũng; phát huy vai trò của báo chí trong công tác Phòng, chống tham nhũng; bảo đảm việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về các vụ việc tham nhũng cho các cơ quan báo chí. Luật Phòng, chống tham nhũng đã cụ thể hoá quy định về vai trò trách nhiệm của báo chí trong công tác Phòng, chống tham nhũng tại Điều 75 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018: (i) Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng; (ii) Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến hành vi tham nhũng; (iii) Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật về báo chí và quy định khác của pháp luật có liên quan; (iv) Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động phòng, chống tham nhũng và vụ việc tham nhũng.

Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của Xã hội trong Phòng, chống tham nhũng đã quy định cụ thể tại chương 3, trách nhiệm của báo chí:

Một là, Tuyên truyền, động viên nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng; Cơ quan báo chí, nhà báo thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình có trách nhiệm: Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

  • Tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng; tuyên truyền về công tác phòng, chống tham nhũng của các cơ quan, tổ chức.
  • Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội, động viên nhân dân tích cực tham gia đấu tranh chống tham những.
  • Biểu dương tinh thần và những việc làm tích cực của tập thể, cá nhân trong công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng.
  • Lên án, đấu tranh với người có hành vi tham nhũng.

Hai là, Việc thu thập, cung cấp thông tin về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng:

Khi nhận được kiến nghị, phản ánh, tin, bài của công dân về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng hoặc thông qua hoạt động nghề nghiệp của mình phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo có quyền: Thu thập thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật để làm rõ về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc có dấu hiệu tham nhũng theo quy định của pháp luật.

Khi nhận được yêu cầu của cơ quan báo chí, nhà báo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm cung cấp thông tin, tài liệu cho cơ quan báo chí, nhà báo, giúp cho báo chí thông tin chính xác, kịp thời. Việc yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan báo chí, nhà báo về vụ việc tham nhũng và trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được thực hiện theo quy định tại Điều31 Luật Phòng, chống tham nhũng và Nghị định số 120/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20 tháng 10 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng và các quy định khác của pháp luật.

Ba là, Việc đưa tin của cơ quan báo chí, nhà báo về phòng, chống tham nhũng:

(i) Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền đưa tin phản ánh về vụ việc tham nhũng và hoạt động phòng, chống tham nhũng. Khi đưa tin về vụ việc tham nhũng, người có hành vi tham nhũng, cơ quan báo chí, nhà báo phải đưa tin trung thực, khách quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó. Cơ quan báo chí phát hiện hoặc nhận dược tố cáo của công dân về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thì phải báo ngay cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát nhân dân bằng văn bản. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thụ lý và trả lời cho báo chí cách giải quyết. Cơ quan báo chí có quyền đưa tin về vụ việc có dấu hiệu tham những từ các thông tin, tài liệu mà mình có được và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực của thông tin được đăng tải trên báo chí. Trường hợp có căn cứ cho rằng kiến nghị, phản ánh, tin, bài, tố cáo của công dân về vụ việc tham nhũng không có cơ sở thì cơ quan báo chí thông báo cho công dân về việc không đưa tin và nêu rõ lý do.

(ii). Tổng biên tập, nhà báo chịu trách nhiệm về việc đưa tin và chấp hành pháp luật về báo chí, đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động báo chí. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

(iii). Cơ quan báo chí, nhà báo không được đưa tin về những vụ việc không có căn cứ rõ ràng; đưa tin sai sự thật; phương hại đến lợi ích quốc gia, lợi ích của tổ chức, cá nhân, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của công dân; không được tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và các thông tin khác theo quy định của pháp luật.

(iv). Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền và nghĩa vụ từ chối tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo, người cung cấp thông tin về vụ việc tham những, về người có hành vi tham nhũng nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử.

(v). Khi đưa tin trên báo chí về vụ việc có dấu hiệu tham những, cơ quan báo chí, nhà báo đưa tin sai sự thật phải cải chính, xin lỗi theo quy định của pháp luật về báo chí. Nếu lợi dụng quyền thông tin báo chí để xuyên tạc, vu khống thì tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà bị xử lý theo quy định của pháp luật; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.

Trong đó trách nhiệm của Hội Nhà báo Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội Nhà báo các cấp có trách nhiệm:

  • Tuyên truyền, động viên cơ quan báo chí, nhà báo là hội viên của mình tham gia phòng, chống tham nhũng.
  • Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định của pháp luật để hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhằm phòng, chống tham nhũng.
  • Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan báo chí, nhà báo là hội viên của mình bị đe doạ trả thù, trù dập khi đưa tin về phòng, chống tham nhũng;
  • Phối hợp với Bộ Văn hoá – Thông tin xây đựng quy định về đạo đức, quy tắc nghề nghiệp của nhà báo.
  • Trong quá trình tác nghiệp, khi có căn cứ cho rằng việc thông tin về vụ việc tham nhũng có thể dẫn đến nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mình, nhà báo có quyền đề nghị cơ quan báo chí và cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ mình.
  • Khi nhận được đề nghị được bảo vệ của nhà báo, cơ quan báo chí có trách nhiệm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết bảo vệ nhà báo đó. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm áp dụng ngay các biện pháp cần thiết để bảo vệ cơ quan báo chí, nhà báo.

Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng là những cánh tay nối dài giám sát tại xã, phường, thị trấn, trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nước trong pham vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát thiệt thực hiện các quy định pháp luật về Phòng, chống tham nhũng. Theo Thông tư hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn, năm 2017:

Ban thanh tra nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau: (i) Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện chính sách, pháp luật; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc thực hiện dân chủ ở cơ sở. Khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thì kiến nghị người có thẩm quyền xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó; (ii) xác minh những vụ việc do Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân cấp xã giao; (iii) tham gia việc thanh tra, kiểm tra tại xã, phường, thị trấn theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp thông tin, tài liệu, cử người tham gia khi được yêu cầu; (iv) kiến nghị Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân cấp xã xử lý vi phạm theo thẩm quyền và khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát hiện qua hoạt động giám sát, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị; (v) kiến nghị Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã các hình thức động viên, biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân phát hiện sai phạm và có thành tích trong công tác;

(vi) tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan đến phạm vi giám sát của Ban Thanh tra nhân dân;(vii) thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do pháp luật quy định.

Ban giám sát đầu tư của cộng đồng tại xã, phường, thị trấn có nhiệm vụ:

(i) Trong quá trình giám sát, nếu Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng phát hiện thấy dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện dự án gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất, an ninh, văn hóa-xã hội, môi trường sinh sống của cộng đồng; không công khai thông tin về chương trình, dự án đầu tư theo quy định của pháp luật thì kiến nghị các cấp có thẩm quyền đình chỉ thực hiện đầu tư, vận hành dự án; (ii) phản ánh với các cơ quan quản lý nhà nước về kết quả giám sát và kiến nghị biện pháp xử lý.

(Theo Nghị định số 47 – 2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng được nêu rõ): (i) Việc giám sát của Ban thanh tra nhân dân thông qua tiếp nhận các ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, người lao động về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; trực tiếp thu thập các thông tin, tài liệu trong việc thực hiện các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, của cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước; (ii) phát hiện hành vi tham nhũng, vụ việc tham nhũng của cơ quan, tổ chức, cá nhân ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước; (iii) trực tiếp hoặc thông qua Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn, Ban chấp hành công đoàn cơ sở kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, hành vi tham nhũng và giám sát việc giải quyết đó. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Quyền hạn của Ban thanh tra nhân dân trong quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng: (i) Trong quá trình giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Ban Thanh tra nhân dân có quyền đề nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến việc giám sát. (ii) Trường hợp phát hiện vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, người có hành vi tham nhũng thì Ban Thanh tra nhân dân kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết. (iii) Trong thời hạn mười lăm (15) ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho Ban Thanh tra nhân dân. Trường hợp kiến nghị không được xem xét, giải quyết hoặc thực hiện không đầy đủ thì Ban Thanh tra nhân dân có quyền kiến nghị Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân huyện, quận, thị xã thuộc tỉnh hoặc kiến nghị cấp trên trực tiếp của Người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khác xem xét, giải quyết.

Các Ban công tác Mặt trận, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng các tổ chức đoàn thể đã phối hợp hiệu quả. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, pháp luật về khiếu nại, tố cáo, các ban thanh tra nhân dân qua giám sat đã phát hiện nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực; đã đề xuất Đảng, chính quyền giải quyết kịp thời những bức xúc nảy sinh, xử lý sai phạm của cán bộ, đảng viên khi thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương

Người dân 

Người dân có vai trò quan trọng trong việc phát triển đất nước nói chung và Phòng, chống tham nhũng nói riêng. Suy cho cùng theo Hiến pháp Việt Nam 2013 “Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân – Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân.

Nhắc lại phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác phòng chống tham nhũng (PCTN), là muốn thành công, hiệu quả cao, phải có sự tham gia tích cực của nhân dân; trong những năm vừa qua pháp luật nước ta đã có hướng thay đổi và hoàn thiện hơn nữa để thúc đẩy phát huy vai trò của người dân trong Phòng, chống tham nhũng. Như cụ thể hoá lợi ích của nhân dân trong các Bộ luật, luật…; đặc biệt đó là Pháp lệnh khiếu nại tố cáo của công dân năm 1991; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 ( sửa đổi, bổ sung các năm 2004 và 2005) kế thừa là Luật tố cáo năm 2018…Trong những năm gần đây đặc biệt khi Quốc hội đã thông qua và thay đổi Luật tố cáo năm 2018, Luật tiếp công dân năm 2013, Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 mới thay đổi và sắp có hiệu lực vào 1/7/2019. Có thể thấy rằng trong những thời gian qua pháp luật Việt Nam đã nâng cao vị thế vai trò của người dân, chủ thể quan trọng trong tố cáo và phát hiện hành vi tham nhũng, người dân sống và làm việc theo pháp luật trong cuộc sống hoạt động hàng ngày, vì vậy họ sẽ rất dễ để phát hiện và bắt gặp những hành vi lệch chuẩn của cán bộ, công chức viên chức nhà nước trong việc thực nhiệm nhiệm vụ. Chính vì vậy người dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; người dân được bảo vệ và pháp luật nghiêm cấm trả thù người khiếu nại tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Ngoài những luật cơ sở trên các bộ ban ngành, cơ quan ngang bộ còn ban hành nhiều văn bản pháp luật khác để hướng dẫn thực hiện luật giúp người dân có thể tiếp cận một cách dễ dàng và những người thực thi công quyền nhà nước hiểu rõ hơn để làm đúng trách nhiệm của mình trước công dân và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân một cách thuận lợi và đúng nhất. Như ngày 31/10/2014, Thanh tra Chính phủ đã ban hành Thông tư 07/2014/TT-TTCP quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh; người gửi khiếu nại, tố cáo, khiến nghị tới các quan: hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Luật tiếp công dân năm 2013, nêu rõ quy định trách nhiệm tiếp công dân và nghĩa vũ của người đến khiếu nại, tố cáo, khiến nghị, phản ánh, quy định tổ chức hoạt động tiếp công dân tại Trự sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân, tổ chức hoạt động tiếp công dân. Luật cũng nên rõ trách nhiệm tiếp công dân từ các cơ quan TW tới các cơ quan địa phương, cơ quan hành chính các cấp và cơ quan dân cử đại diện các cấp. Việc tiếp công dân tuân thủ Điều 3, nguyên tắc tiếp công dân: (i) việc tiếp công dân phải được tiến hành tại nơi tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị; (ii) việc tiếp công dân phải bảo đảm công khai, dân chủ, kịp thời; thủ tục đơn giản, thuận tiện; giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo theo quy định của pháp luật; bảo đảm khách quan, bình đẳng, không phân biệt đối xử trong khi tiếp công dân; (iii) tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo quy định của pháp luật. Công dân có thể đề đạt, uỷ quyền thông qua các cơ quan đại diện dân cử như: Mặt trận Tổ quốc xã, phường, Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. Điều 77, Luật phòng chống tham nhũng: Công dân tự mình hoặc thông qua Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng hoặc thông qua tổ chức mà mình là thành viên tham gia phòng, chống tham nhũng; Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Còn về bảo vệ người tố cáo, Luật tố cáo năm 2018 đã dành chương VI bảo vệ người tố cáo. Trong đó nghi nhận trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo vệ người tố cáo, nhằm đảm bảo và kêu gọi tinh thần tố cáo phát huy trong nhân dân và toàn xã hội. ( Điều 47. Người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ); (i) bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ); (ii) người tố cáo được bảo vệ bí mật thông tin cá nhân, trừ trường hợp người tố cáo tự tiết lộ.

Bên cạnh việc thúc đẩy tham gia Phòng, chống tham nhũng thì người dân cũng cần phải nâng cao tinh thần để nhận biết đúng sai trước những biểu hiện hành vi tham nhũng, tránh tình trạng người dân bị kẻ xấu lợi dụng, dẫn tới “hoả mù đơn thư” bằng những thủ đoạn đơn, thư, tố cáo nặc danh không đủ bằng chứng dẫn tới thực hiện sai quyền và nghĩa vụ tố cáo của công dân và có thể dẫn tới hành vi, vi phạm pháp luật cho cá nhân mình.

Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề 

Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp là nạn nhân của tệ tham nhũng, sách nhiễu từ những người có chức vụ, quyền hạn, nhưng không ít doanh nghiệp đã tìm cách móc nối với những kẻ thoái hoá, biến chất trong bộ máy nhà nước, tiếp tay cho hành vi tham nhũng để mưu lợi; điều đó ảnh hưởng đến những doanh nghiệp làm ăn đứng đắn, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, làm xấu đi môi trường kinh doanh và tạo xa sự bất bình đẳng trong xã hội; Chính vì vậy, tham gia Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm tất yếu của doanh nghiệp và những người tham gia hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Pháp luật nói chung và Pháp luật Phòng, chống tham nhũng nói riêng đã quy định: Điều 87, doanh nghiệp có trách nhiệm thông báo về hành vi tham nhũng và phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh, kết luận về hành vi tham nhũng; trong bản thân mỗi doanh nghiệp cần có cơ chế kiểm soát nội bộ nhằm ngăn ngừa tham ô, đưa hối lộ; các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức, động viên, khuyến khích hội viên cuả mình xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng và kiến nghị với nhà nước hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nhằm Phòng, chống tham nhũng.

Từ Pháp luật Phòng, chống tham nhũng đã cụ thể hoá các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng, tại Nghị định 47/2007:

Doanh nghiệp có trách nhiệm tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp; vận động cán bộ, người lao động thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng; tổ chức các hình thức động viên, giáo dục cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp thực hiện quy tắc ứng xử trong hoạt động của doanh nghiệp để phòng ngừa tham nhũng; Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

Hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng cho các hội viên của hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; vận động hội viên thực hiện các quy định của Luật Phòng, chống tham những; động viên, khuyến khích các hội viên xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng; xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp để phòng ngừa tham nhũng;

Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề thực hiện áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng thông qua việc thực hiện cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của doanh nghiệp đối với Nhà nước và người lao động trong doanh nghiệp; thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật; thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch trong hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng và thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ nhằm phòng, chống tham nhũng; khuyến khích việc phát hiện, tố cáo các hành vi tham nhũng. Nghiêm cấm đưa hối lộ cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền dưới mọi hình thức;

Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, ngành nghề có trách nhiệm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp nhằm phòng ngừa tham nhũng, kịp thời phát hiện và xử lý theo thẩm quyền các hành vi tham nhũng phát sinh trong nội bộ hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý;

Khi phát hiện có hành vi tham những thì doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi tham nhũng đó; khi nhận được yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm cung cấp thông tin mà mình có được về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, đồng thời áp dựng các biện pháp cần thiết trong phạm vi quyền và trách nhiệm của mình để phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xác minh, làm rõ vụ việc tham nhũng, người có hành vi tham nhũng;

Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp, làm phát sinh tham nhũng, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu quả công tác đấu tranh chống tham nhũng.

Tiểu kết chương 1

Qua chương 1, khái quát về vai trò trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, đã giúp chúng ta có thêm nhận thức, hiểu rõ được hiện tượng “tham nhũng” dưới một vài góc nhìn ở Việt Nam. Từ nhiều cách nhìn nhận để thấy được sự phi nghĩa của “tham nhũng” và tính cấp bách phải phòng ngừa. Xác định giải pháp phòng chống tham nhũng toàn diện nhất ở Việt Nam hiện nay là có sự tham gia đồng thuận của các chủ thể trong xã hội. Từ cơ sở xã hội, cơ sở pháp lý đã chỉ ra những điều kiện tiên quyết cho các chủ thể xã hội tham gia phòng chống tham nhũng tại Việt Nam. Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Pháp luật nhà nước về việc phòng chống tham nhũng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x