Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Đánh giá thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1 Hoạt động Ban chỉ đạo tw về phòng chống tham nhũng  từ 2013 – 2018

Trước tình hình tham nhũng ngày càng ra tăng từ trung ương tới địa phương, gây nhũng nhiễu và bức xúc trong nhân dân cả nước. Bối cảnh đó ngày 1/2/2013, Bộ Chính trị ban hành Quyết định 162-QĐ/TW thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng phạm vi cả nước.

Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng có quyền hạn (theo Điều 3 Chương 1 tại Quy định số 163-QĐ/TW): (i) Yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương, cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền báo cáo về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và kết quả thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng; việc xử lý một số vụ, việc tham nhũng; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý thông tin về hành vi tham nhũng; thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng tại cơ quan, tổ chức, đơn vị; (ii) Yêu cầu các đảng đoàn, ban cán sự đảng, tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra làm rõ các vụ, việc có dấu hiệu tiêu cực, tham nhũng; chỉ đạo việc phúc tra khi cần thiết; (iii) Chỉ đạo, phối hợp các cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ, việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp hoặc dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Trong trường hợp cần thiết, trực tiếp chỉ đạo về chủ trương xử lý đối với một số vụ, việc cụ thể hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức và người có thẩm quyền giải quyết lại nhằm bảo đảm việc xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật; (iv) Kiến nghị với Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét, quyết định hoặc trực tiếp chỉ đạo các cơ quan có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác, sinh hoạt đảng, sinh hoạt cấp ủy theo phân cấp quản lý khi cán bộ, đảng viên có dấu hiệu tham nhũng hoặc có hành vi cản trở, gây khó khăn đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng; (v) Chỉ đạo Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cấp ủy các cấp xem xét, xử lý kỷ luật đối với đảng viên thuộc phạm vi quản lý; yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có thẩm quyền xử lý kỷ luật về chính quyền đối với cán bộ, công chức có hành vi tham nhũng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự; (vi) Được sử dụng bộ máy tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan, tổ chức có liên quan để phục vụ nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng khi cần thiết. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Nhìn lại sau 5 năm Ban Chỉ đạo được thành lập (ngày 1-2-2013), nhất là từ Đại hội XII của Đảng đến nay, cuộc đấu tranh Phòng, chống tham nhũng đã có một bước tiến mạnh, đạt được nhiều kết quả toàn diện, tích cực, rõ rệt, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Công tác Phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã trở thành phong trào, xu thế” được nhân dân đồng tình, đánh giá cao, được các tổ chức quốc tế ghi nhận. Tham nhũng đang từng bước được kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

3.1.1. Thuận lợi

Một là, quyết liệt chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử nghiêm minh, kịp thời nhiều vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, với mức án nghiêm khắc và nhân văn; thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng và đồng chí Tổng Bí thư “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai”, tạo bước đột phá trong công tác Phòng, chống tham nhũng. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo đã lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết; xử lý nghiêm minh, có lý, có tình một số cán bộ cao cấp cả đương chức và đã nghỉ hưu, có vi phạm liên quan các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Từ khi thành lập đến nay, Ban Chỉ đạo đã đưa 68 vụ án, 57 vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp vào diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, đến nay đã kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm 40 vụ án với 500 bị cáo với các mức án (10 bị cáo với 11 án tử hình, 19 bị cáo với 20 án tù chung thân, 459 bị cáo tù có thời hạn từ 12 tháng đến 30 năm,…). Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 31%; việc kê biên, thu giữ tài sản trong các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đạt hơn 35 nghìn tỷ đồng, điển hình như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Tín hơn 10.000 tỷ đồng, vụ án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng (giai đoạn I) hơn 6.000 tỷ đồng, vụ AVG hơn 8.500 tỷ đồng, vụ án đánh bạc, tổ chức đánh bạc xảy ra tại Phú Thọ hơn 1.400 tỷ đồng… Một số vụ án, vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, mà lâu nay được cho là “vùng cấm, nhạy cảm”, và nhiều vụ, việc kéo dài từ những năm trước đã được chỉ đạo xử lý dứt điểm, nghiêm minh, có tác dụng cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả. Đây là điểm sáng trong cuộc đấu tranh Phòng, chống tham nhũng, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước cũng như hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo trong cuộc đấu tranh Phòng, chống tham nhũng vừa qua, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Hai là, chỉ đạo tăng cường kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương góp phần đắc lực nâng cao hiệu quả công tác Phòng, chống tham nhũng. Trong 5 năm qua, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật Đảng 77.662 đảng viên vi phạm, trong đó hơn 4.300 cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay đã thi hành kỷ luật hơn 500 tổ chức đảng và 35 nghìn đảng viên vi phạm, trong đó 1.300 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái; nhất là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 56 cán bộ, đảng viên thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 11 đồng chí là Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, khai trừ Đảng 1 đồng chí Ủy viên Trung ương – nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nhiều đồng chí là tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Các cơ quan thanh tra, kiểm toán tăng cường thanh tra, kiểm toán các lĩnh vực có nhiều dư luận tiêu cực, tham nhũng; các dự án gây thất thoát, thua lỗ lớn, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm để phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm. Từ năm 2013 đến nay, qua thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị thu hồi, xử lý hơn 400 nghìn tỷ đồng và 18.525 ha đất, chuyển 515 vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự sang cơ quan có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Ba là, công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế về kinh tế – xã hội và PCTN từng bước nâng cao “lấy lại công bằng trong xã hội”, từng bước hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”. Nhiều quy định Đảng, Pháp luật được nêu cao, đi đôi với đó là giáo dục, phòng ngừa, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm, tham nhũng.

Bốn là, công tác cán bộ; cải cách hành chính, công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều đổi mới, nhất quán, rõ ràng, chỉ đạo giải quyết được nhiều vấn đề tồn đọng trước đây trong công tác cán bộ, nhiều vụ việc bổ nhiệm không đúng tiêu chuẩn, không đúng quy trình bị xử lý nghiêm; Các cấp uỷ, chính quyền  đã có sự quan tâm, giải quyết nhiều bức xúc và vướng mắc trong thủ tục hành chính, tăng cường công khai minh bạch (tăng cường hành chính điện tử), loại bỏ “giấy phép con”, cắt giảm nhiều thủ tục phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, phòng ngừa tiêu cực.

Năm là, tăng cường công tác thông tin tuyên truyền xã hội, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và báo chí trong Phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan thông tấn, báo chí hợp tác, đồng hành cùng các cơ quan chức năng trong Phòng, chống tham nhũng để có những tin bài kịp thời và khách quan nhất, đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về công tác Phòng, chống tham nhũng của Đảng và chính quyền nhân dân.

Tăng cường thông tin truyền thông, giáo dục về Phòng, chống tham nhũng tới đông đảo tầng lớp trong xã hội để nâng cao nhận thức và phát huy hiệu quả vai trò của toàn xã hội. Truyền thông phải định hướng tốt dư luận, song song với đó phải công khai kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế; chủ động cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm.  

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên tăng cường giám sát các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, gây nhiều bức xúc trong nhân dân; tích cực tham gia phản biện xã hội, góp ý xây dựng đảng, xây dựng chính quyền; phối hợp tổ chức thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của các Ban Thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư cộng đồng góp phần hạn chế tiêu cực, tham nhũng ở cơ sở.

3.1.2. Thách thức Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Một là, tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng; các cơ quan từ Trung ương đến địa phương phải thực hành đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, đẩy lùi tham nhũng; bám sát nhân dân, làm gương cho nhân dân, mẫu mực tiên phong thực hành văn hoá tiết kiệm, chống lãng phí. Tuyên truyền giáo dục nhận thức cho cán bộ, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Phòng, chống tham nhũng trong nội bộ Đảng, bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, khắc phục những sơ hở trong quản lý kinh tế – xã hội và Phòng, chống tham nhũng. Các quy định về Đảng ban hành phải tăng cường tính nghiêm minh, kỷ luật, hình thành hệ thống các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên để xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trong sạch vững mạnh. Cùng với đó là Định hướng xây dựng hoàn thiện pháp luật của nhà nước khắc phục sơ hở trong quản lý kinh tế – xã hội và Phòng, chống tham nhũng, nhất là các lĩnh vực “nóng” dễ xảy ra tham nhũng như: đầu tư công, xây dựng cơ sở hạ tầng…, tăng cường những giải pháp Phòng, chống tham nhũng mới có hiệu quả cao.

Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy Nhà nước; tăng cường và nâng  cao hiệu quả công tác giám sát, kiểm soát quyền lực để Phòng, chống tham nhũng; Đổi mới bộ máy tổ chức, nhất là người đứng đầu, chọn bộ phận tham mưu đủ phẩm chất năng lực; Các cấp uỷ, tổ chức Đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nêu gương đi đầu, quản lý, giảm sát để kịp thời phát hiện, có biện pháp ngăn chặn kịp thời các biểu hiện suy thoái trong cán bộ, công chức, đảng viên. Xử lý nghiêm minh đúng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đối với các trường hợp cụ thể, công khai minh bạch “không có vùng cấm – không có ngoại lệ”; Khuyến khích toàn thể Đảng viên trong từng chi bộ của từng đơn vị phát huy dân chủ bài chừ tham nhũng, có chính sách khuyến khích, bảo vệ người tố giác tham nhũng hiệu quả, nhanh chóng và kịp thời.

Bốn là, thực hiện đúng các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, hoàn thiện quy định để kiểm soát có hiệu quả tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, nhất là quản lý, kiểm tra, giám sát, xác minh bản kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Năm là, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện sớm, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc, vụ án tham nhũng; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bảo vệ tư pháp, cơ quan chuyên môn Phòng, chống tham nhũng… đẩy nhanh hơn nữa tiến độ điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án các vụ án tham nhũng. Thực hiện áp dụng có hiệu quả các biện pháp phong toả tài sản và thu hồi tài sản từ các vụ án tham nhũng, kinh tế.

Sáu là, tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán bộ nâng cao hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong Phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan bộ máy Nhà nước thực hiện có hiệu quả tinh giảm bộ máy nhà nước, chọn lọc con người có đầy đủ phẩm chất (có đức, có tài) tham gia làm việc ở các cơ quan bộ máy nhà nước. Xây dựng cán bộ có chiến lược theo đúng tiêu chuẩn. Tăng cường kiểm soát quyền lực, thực hiện liêm chính ở cơ quan, đơn vị công tác.

3.2 Thúc đẩy “Xã hội” nhân tố quan trọng trong phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam 

3.2.1 Thành công

Một là, Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế Phòng, chống tham nhũng:

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành tăng cường xây dựng, trình Quốc hội ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công tác Phòng, chống tham nhũng, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn để Phòng, chống tham nhũng có hiệu quả như: Luật Tố cáo (sửa đổi), Luật Quy hoạch, Luật Quản lý nợ công… khẩn trương hoàn thiện và đi vào áp dụng Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi), Luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công; rà soát, đề xuất sửa đổi các luật liên quan đến đất đai, xây dựng, đầu tư, kiểm tra chuyên ngành; xây dựng chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường ngăn chặn, xử lý có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các bộ, ngành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về điều kiện đầu tư kinh doanh trong đó tập trung cải cách toàn diện hoạt động kiểm tra chuyên ngành, bảo đảm cắt giảm, đơn giản hóa 50% danh mục hàng hóa, sản phẩm và thủ tục kiểm tra chuyên ngành; cắt giảm, đơn giản hóa 50% điều kiện đầu tư kinh doanh giúp giảm chi phí không chính thức, hạn chế nhũng nhiễu doanh nghiệp; góp phần làm tăng niềm tin của doanh nghiệp vào bộ máy chính quyền, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; các bộ, cơ quan ngang bộ và các địa phương đã ban hành kế hoạch để triển khai các nhiệm vụ rà soát, ban hành hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm khắc phục những bất cập, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; sắp xếp, tinh gọn và giảm đầu mối tổ chức bên trong; giảm tối đa các tổ chức liên ngành; giảm số lượng cấp phó của các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã triển khai tích cực như: Bộ Công an (giảm 6 tổng cục và 60 đơn vị cấp cục), Bộ Tài chính (giải thể 43 phòng giao dịch của Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh), Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ, Bộ Thông tin và Truyền thông và nhiều bộ, ngành khác (thực hiện giảm đơn vị đầu mối, giảm cấp phòng trong các vụ, cục); các tỉnh Thái Nguyên,  Bắc Kạn… Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Hai là, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ tạo điều kiện cho “xã hội” tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức nhà nước. Công khai minh bạch sẽ tạo điều kiện cho người dân cũng như toàn xã hội tham gia giám sát hoạt động của nhà nước một cách hiệu quả; công khai minh bách có nhiều hình thức như: công bố tại cuộc họp của đơn vị, niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở làm việc, thông báo bằng văn bản tới cá nhân và tổ chức liên quan, phát hành ấn phẩm, thông báo bằng phương tiện thông tin đại chúng, đưa thông tin lên trang điện tử, cung cấp thông tin yêu cầu theo quy định pháp luật. Trong thời gian vừa qua không thể không nhắc tới cải cách hành chính công khai, minh bạch hoạt động làm việc tiếp công dân, giải quyết giấy tờ cho công dân của các cơ quan ban ngành khiến cho sự hài lòng của người dân tăng lên khi đến trụ sở tiếp công nhân; nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số địa phương còn thiếu sự công khai minh bạch khiến cho sự hài lòng của người dân còn thấp.

Bảng 2: Điểm thành phần chỉ số nội dung “Công khai, minh bạch” năm 2018;

Ba là, Phát huy việc tố cáo của công dân trên mọi “mặt trận” đấu tranh tham nhũng. Công dân với vai trò là chủ thể của quyền lực nhà nước, công dân uỷ quyền cho các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình thì sẽ luôn quan tâm và chủ động giám sát thực hiện nhiệm vụ, quyền han của cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước đó. Trong xã hội hiện đại để xây dựng nhà nước pháp quyền thì việc nâng cao nhận thức của công dân đối với việc kiểm soát quyền lực nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động phòng, chống tham nhũng. Thực tế vừa qua cho thấy nhiều vụ việc tham nhũng đất đai được các cấp quản lý địa phương buông lỏng nhưng chính từ tố cáo của công dân đến các cơ quan giải quyết có thẩm quyền mà vụ việc đã bị phát giác, bị xử lý (hàng năm các vụ việc khiếu nại tham nhũng đất đai chiếm tới gần 80% tổng số khiếu nại tố cáo) và các vụ việc tố cáo của công dân đều được bảo vệ giữ kín theo đúng quy định của pháp.

Chất lượng các vụ khiếu nại đạt được kết quả tốt có sở luôn đạt 50- 60%, qua đó tạo tiền đề cho phần xử lý hành vi tham nhũng đúng người đúng tội và thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả. Năm 2013, cơ quan nhà nước đã kiến nghị thu hồi cho nhà nước 95 tỷ đồng; 89 hd đất; trả lại cho tập thể, công dân 1.083 tỷ đồng, 93ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 675 người; chuyển cơ quan điều tra trách nhiệm hình sự 28 vụ việc với 89 người; Năm 2014, kiến nghị thu hồi cho nhà nước 41 tỷ đồng; 182,7 ha đất; trả lại cho tập thể, công dân 198,8 tỷ đồng, 85,3ha; kiến nghị xử lý hành chính 552 người; chuyển cơ quan điều tra trách nhiệm hình sự 39 vụ việc 36 người. Điều đáng lưu ý là nội dung tố cáo đúng của công dân cũng ngày một tăng, cho thấy người dân ngày càng có ý thức và trách nhiệm trong việc đưa ra nội dung tố cáo của mình.

Việc thúc đẩy người dân phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng góp phần quan trọng vào việc giải quyết, xử lý hành vi tham nhũng; Công dân có thể lên án, đấu tranh với các hành vi tham nhũng bằng nhiều phương thức, cách thức phù hợp với chuẩn mực về pháp lý và đạo lý. Như vậy, vai trò xã hội của công dân trong phòng, chống tham nhũng chỉ có thể trở thành hiện thực khi và chỉ khi thông qua quan hệ pháp luật. Chỉ có thông qua hành vi pháp luật mà quan hệ pháp luật được hình thành và đến lượt mình nó trở thành phương tiện để chuyển hóa, làm cho quyền và nghĩa vụ pháp lý trở thành hiện thực. Vì vậy bản thân người dân cần chủ động nâng cao ý thức làm chủ của mình, tích cực tìm hiểu quy định pháp luật để xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật, hành động trên cơ sở tuân thủ pháp luật (hành xử hành vi pháp luật không cấm) tích cực tố giác hành vi sai trái, tuyệt đối không tiếp tay cho những hành vi có biểu hiện tham nhũng. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Bốn là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về Phòng, chống tham nhũng:

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức, chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, các cơ quan truyền thông tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về Phòng, chống tham nhũng và đưa nội dung Phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Quy định số 65- QĐ/TW ngày 03/02/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chỉ đạo, định hướng cung cấp thông tin tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, Hướng dẫn số 27-HD/BTGTW ngày 20/02/2017 của ban Tuyên giáo Trung ương về hướng dẫn công tác tuyên truyền về Phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

Kết quả năm 2018, hơn 3,7 triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức, người dân được phổ biến, giới thiệu, giáo dục pháp luật về Phòng, chống tham nhũng với hơn 74 nghìn lớp tuyên truyền, quán triệt pháp luật về Phòng, chống tham nhũng được tổ chức và trên 277 nghìn cuốn sách, tài liệu về Phòng, chống tham nhũng được phát hành. Nhiều hình thức tuyên truyền phong phú được triển khai, gắn với tuyên truyền thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng; Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các ngành, các cấp đã chủ động thông tin, công khai cho báo chí về kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý các vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; những vấn đề dư luận xã hội quan tâm trong xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng, giúp định hướng tốt dư luận xã hội để người dân hiểu rõ hơn về những khó khăn, phức tạp, cũng như khẳng định quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong Phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan thông tấn, báo chí đã đưa nhiều tin, bài phản ánh về công tác Phòng, chống tham nhũng; đấu tranh phản bác luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc những nỗ lực trong Phòng, chống tham nhũng. Nội dung thông tin về PCTN đảm bảo khách quan, chính xác, khắc phục cơ bản tình trạng đưa thông tin thiếu kiểm chứng, góp phần quan trọng trong công tác Phòng, chống tham nhũng.

Chính phủ đã phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện các góp ý, phản biện xã hội, góp phần hoàn thiện cơ chế, pháp luật về Phòng, chống tham nhũng; tích cực thực hiện các chương trình phối hợp giám sát, chú trọng những nội dung, lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tham nhũng, lãng phí, gây sách nhiễu, phiền hà đối với người dân và doanh nghiệp. Các bộ, ngành, cơ quan của Chính phủ cũng đã phối hợp tiếp nhận, xử lý các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc các cấp, các đoàn thể, cơ quan báo chí, truyền thông; phối hợp triển khai Quy trình tiếp nhận và xử lý thông tin phản ánh, tố cáo về tham nhũng, lãng phí, Quy chế dân chủ ở cơ sở; phổ biến, giáo dục pháp luật về Phòng, chống tham nhũng; hưởng ứng Cuộc thi báo chí toàn quốc “Báo chí với công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp tổ chức; tham gia hội thảo “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện công tác Phòng, chống tham nhũng, lãng phí” do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức… Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Năm là, hợp tác quốc tế trong phòng chống tham nhũng;

Hợp tác quốc tế về Phòng, chống tham nhũng tiếp tục được đẩy mạnh; thực hiện đầy đủ trách nhiệm của Việt Nam trong việc thực thi Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng; cơ bản hoàn thành việc xây dựng Báo cáo quốc gia đánh giá việc thực thi Công ước và triển khai các bước chuẩn bị cho hoạt động đánh giá theo Chu trình 2. Các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức của Việt Nam đã tham gia nhiều diễn đàn, làm việc, trao đổi với nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế về Phòng, chống tham nhũng. Qua đó đã thể hiện được quyết tâm chính trị và nỗ lực thực tế của Việt Nam trong Phòng, chống tham nhũng; chọn lọc, tiếp thu được nhiều kinh nghiệm tốt của các quốc gia, tổ chức quốc tế; tranh thủ sự hỗ trợ cho công tác Phòng, chống tham nhũng; góp phần nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác Phòng, chống tham nhũng giữa Việt Nam với các nước và tăng cường vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Sáu là, vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng từng bước đạt hiệu quả hơn: 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật về Phòng, chống tham nhũng thông qua các tổ chức thành viên của Mặt trận với nhiều phương thức đa dạng. Từ đó Hoạt động có hiệu quả trong việc giám sát thực hiện pháp luật về Phòng, chống tham nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo và giám sát việc xử lý các vụ việc tham nhũng. Mặt trận Tổ quốc Viêt Nam đã phát hiện và kiến nghị nhiều vụ việc tham nhũng với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết.

Báo chí và truyền thông ngày càng chủ động, phát triển về số lượng và chất lượng, kịp thời và ngày càng hiệu quả. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức của công chúng về tầm quan trọng, tính chất khó khăn, phức tạp của cuộc đấu tranh Phòng, chống tham nhũng. Báo chí đã công khai minh bạch theo yêu cầu của Luật Phòng, chống tham nhũng, giúp hỗ trợ hiệu quả cho tầng lớp nhân dân thực hiện quyền tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng, đồng thời hỗ trợ các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội giám sát quá trình thực thi pháp luật về Phòng, chống tham nhũng. Chính vì vậy, báo chí và truyền thông luôn là “thấu kính” của mọi vấn đề xã hội, luôn mang tính thời sự và đang thu hút sự quan tâm và chia sẻ của toàn xã hội.

Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề đã và đang đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế đất nước, song hành với đó là đã từng bước khẳng định vai trò quan trọng trong Phòng, chống tham nhũng.

Nhiều doanh nghiệp đã nêu gương thực hiện nghiêm các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về Phòng, chống tham nhũng nói riêng, góp phần to lớn vào cải cách thủ tục hành chính, xoá bỏ cơ chế “xin cho” và “giấy phép con”… Từ nhiều việc làm thay đổi từ chính nhận thức các doanh nghiệp, mà nhiều doanh nghiệp đã ngày một phát triển có lợi thế trong kinh doanh và thay đổi trong nhận thức của cộng đồng. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Ban thanh tra nhân dân đã góp phần tích cực trong Phòng, chống tham nhũng, thúc đẩy pháp triển kinh tế – xã hội ở địa phương, khởi dạy tính dân chủ và đoàn kết, phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và trực tiếp tham gia giải quyết kịp thời những bức xúc trong nhân dân. Sau 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng (2005) và hơn 11 năm thực hiện luật thanh tra (2004), Ban thanh tra nhân dân đã được tổ chức tại 100% xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước; hoạt động của các Ban thanh tra nhân dân trên phạm vi cả nước đã đi vào nề nếp; Ở nhiều nơi, Ban thanh tra nhân dân được tổ chức tốt, điều kiện hoạt động được đảm bảo, công tác giám sát và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đạt kết quả tốt đã trở thành chỗ dựa tin cậy của chính quyền và các đoàn thể cơ sở.

Nhận thức về pháp luât Phòng, chống tham nhũng được nâng cao ở đại bộ phận người dân, qua đó làm cơ sở cho hành động chống tham nhũng trong toàn xã hội. Sau 10 năm thi hành  Luật Phòng, chống tham nhũng, hầu hết người dân đã dễ dàng nhận biết các quyền và nghĩa vụ của mình, để chủ động thực hiện. Cùng với sự dân chủ hoá đời sống kinh tế – xã hội, người dân như là trụ cột của xã hội dân sự có những đóng góp quan trọng, lên án đấu tranh hành vi tham nhũng…; Tích cực dân chủ tham gia xây dựng chính sách pháp luật, tạo nên sự đồng thuận trong nhân dân, cử chi cả nước, thúc đẩy tinh thần thượng tôn pháp luật và chung tay cả xã hội Phòng, chống tham nhũng.

3.2.2 Hạn chế, bất cập

Một là, Công tác tuyên truyền, giáo dục và Phòng, chống tham nhũng hiệu quả chưa cao:

Các công tác chưa tạo được sự chuyển biến căn bản về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức và người dân về Phòng, chống tham nhũng; trong một số trường hợp, việc cung cấp thông tin về các vụ án, vụ việc tham nhũng chưa đầy đủ, kịp thời. Công tác xây dựng hoàn thiện thể chế trong một số trường hợp còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế – xã hội trên một số lĩnh vực vẫn còn thiếu chặt chẽ, chưa phù hợp với thực tiễn.

Hai là, Mối quan hệ phối hợp giữa Mặt trận tổ quốc và các cơ quan chuyên trách về Phòng, chống tham nhũng còn hạn chế.

Các quy chế phối hợp chưa được ban hành đầy đủ nhằm tạo cơ chế rõ ràng, công khai giúp cho công tác Phòng, chống tham nhũng đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về Phòng, chống tham nhũng của Mặt trận Tổ quốc còn nặng về hình thức, phương thức chưa phù hợp, hoạt động giám sát còn mang tính hình thức, hầu hết chỉ dừng lại ở việc ban hành văn bản mà chưa chú trọng đến hiệu quả thực tế. Thực tiễn cho thấy, khi được mời tham gia các đoàn giám sát, vai trò của Mặt trận bị hạn chế, tiếng nói của Mặt trận chưa thực sự được lắng nghe, chức năng phản biện xã hội trong những năm qua chưa đạt hiệu quả cao, nội dung phản biện bị bó hẹp, chưa thể hiện được tiếng nói, sự bức xúc của người dân đối với chính quyền, chính sách hay các vấn đề lớn của xã hội liên quan đến Phòng, chống tham nhũng.

Ba là, Công tác báo chí còn nhiều hạn chế: Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Thời gian qua vẫn còn tồn tại trong công tác quản lý báo chí, hiện tượng báo chí phản ánh chưa khách quan, chưa chính xác, thậm chí sai lệch so với bản chất vụ việc, hoặc phản ánh chắp vá, thiếu hệ thống vụ việc. Trong nhiều trường hợp, có báo đã đưa ra những nhận định, bình luận, phán quyết vượt quá phạm vi thẩm quyền của báo chí, trong khi chỉ nên dừng lại ở việc đưa tin, phản ánh. Điều này làm cho dư luận hiểu sai bản chất sự việc, nguy hiểm hơn là làm xâm phạm vào chức năng của các cơ quan tư pháp, làm lộ thông tin, gây ảnh hưởng hoặc thậm chí vô hiệu hoá công tác điều tra.

Trong tác nghiệp, có nhiều cơ quan báo chí, nhiều phóng viên chưa chủ động, độc lập trong việc giám sát, phát hiện và đưa tin, bài về các vụ việc tham nhũng mà tổng hợp từ các nguồn tin báo chí, phương tiện truyền thông khác; Điều này dẫn đến sự sai lệch trong việc đưa tin làm giảm vai trò của báo chí trong công tác này.

Bốn là, Vai trò của doanh nghiệp, hiệp hội, doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong công tác Phòng, chống tham nhũng còn thụ động, chưa thực sự có trách nhiệm với nhà nước, xã hội và chính mình trong Phòng, chống tham nhũng:

Hầu hết các doanh nghiệp vẫn hối lộ trong quan hệ khu vực công để hưởng lợi, các doanh nghiệp coi chi phí bôi trơn như một khoản chi đầu vào tất yếu trong kinh doanh, hoặc làm tăng hiệu quả trong các quan hệ với chủ thể nhà nước. Theo số liệu điều tra từ 9890 doanh nghiệp của VCCI gần đây cho thấy việc chi trả thêm các khoản chi phí không chính thức khá phổ biến, có 59% doanh nghiệp cho biết phải mất “phí bôi trơn”, số doanh nghiệp tin rằng cán bộ tỉnh sử dụng các quy định riêng của địa phương với mục đích trục lợi tăng 37%… và có đến 61,6% số doanh nghiệp được hỏi thừa nhận, phải có “mối quan hệ” với cán bộ tỉnh mới tiếp cận được các tài liệu liên quan đến hoạt động kinh doanh như quy hoạch, sử dụng đất, kết hoạch phát triển hạ tầng… 41% doanh nghiệp thừa nhận phải thương lượng với cán bộ thuế địa phương thì mới làm ăn suôn sẻ, tuy nhiên đáng buồn là nhiều doanh nghiệp coi đó là “mặc định là nghĩa vụ” và không cho rằng điều này không ảnh hưởng, trở ngại lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Năm là, Ban thanh tra nhân dân vẫn còn rất khó thực hiện đúng đắn quyền giám sát: Thực tế cho thấy, do tâm lý “e ngại” cấp trên. Bởi đối tượng chịu giám sát của Ban thanh tra nhân dân chính là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, ban lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước. Hầu hết hoạt động của Ban thanh tra nhân dân ở các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước còn hình thức, kém hiệu quả, mờ nhạt, chưa thể hiện được vai trò giám sát, nhiều trường hợp Ban thanh tra nhân dân còn bị lợi dụng phải đi theo các cơ quan, cá nhân, có thẩm quyền. Nhiều nơi quy chế hoạt động còn lúng túng, chất lượng kém hiệu quả.

3.2.3 Đề xuất Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Một là, Hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm phát huy vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng:

Cần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật để trực tiếp quy định về vai trò của xã hội trong Phòng, chống tham nhũng nhằm tăng tính chủ động của các chủ thể xã hội trong công tác này.

Xoá bỏ mọi rào cản, khơi dạy mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong Phòng, chống tham nhũng, các cơ quan nhà nước cần bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và ban hành những quy định bảo đảm cơ sở pháp lý và điều kiện cần thiết để người dân có thể kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước. Các chính sách, pháp luật cần trao quyền nhiều hơn để đảm bảo tính dân chủ và công bằng giúp người dân có thể tiếp cận, thực thi một cách dễ dàng.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tiếp nhận, giải quyết tố cáo và bảo vệ người tố cáo, làm được như vậy sẽ tạo điều kiện cho người dân tránh được tình trạng không biết gửi ý kiến của mình đến đơn vị nào, cấp nào, tránh tình trạng vượt cấp, trùng lặp, qua đó giúp người dân có lòng tin đối với cơ quan quan nhà nước.

Thu hẹp phạm vi danh mục bí mật nhà nước, đảm bảo quyền được thông tin của người dân trong Phòng, chống tham nhũng. Cần khắc phục tình trạng cơ quan, tổ chức, cá nhân lạm dụng các quy định về danh mục bí mật nhà nước để từ chối việc công khai hoạt động nhằm tránh sự kiểm soát, giám sát của người dân và xã hội. Quyền được tiếp cận thông tin là quyền hiến định, đảm bảo quyền được này là điều kiện tiên quyết để công dân có thể thực hiện quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao tính công khai minh bạch. Do đó, việc sửa đổi theo hướng thu hẹp danh mục bí mật của nhà nước, chỉ nên bó hẹp ở phạm vi tài liệu bí mật an ninh, quốc phòng, bí mật đời tư và thương mại. Còn lại thì cần thu hẹp bí mật nhà nước để tạo ra cơ sở thông tin, phát huy vai trò giám sát của xã hội đối với các cơ quan nhà nước.

Hai là, cần hoàn thiện, mở rộng công nhận vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong việc góp phần tham gia phòng chống tham nhũng ở Việt Nam: Trong thời gian vừa qua các tổ chức phi chính phủ đã có những hoạt động quan trọng trong phòng chống tham nhũng như thông qua các hoạt động truyền thông nâng cáo dân trí, điều tra thông tin, cung cấp thông tin Phòng, chống tham nhũng; không thể không nhắc đến độ chính xác thông tin của các khảo sát Phòng, chống tham nhũng của các tổ chức phi chính phủ, nhiều kết quả điều tra của các tổ chức phi chính phủ rất đúng  bám sát với thực tế ở Việt Nam (ví dụ, kết quả của CODE cũng gần với kết quả khảo sát và điều tra xã hội học các hành vi ẩn chứa nguy cơ tham nhũng trong lĩnh vực khai thác khoáng sản của Cục Phòng, chống tham nhũng – Thanh tra Chính phủ; Trong đó chỉ ra chi phí doanh nghiệp phải trả cho tiếp cận thông tin khá lớn với mức chi phí trung bình là 178 triệu đồng và tối đa 5 tỷ đồng; 91% số cơ sở phải trả chi phí, 25% phải chi từ 100 triệu đồng trở lên). Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Tuy nhiên pháp luật phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện hành chưa quy định về vài trò và trách nhiệm của các tổ chức phi chính phủ trong luật Phòng, chống tham nhũng, vì vẫn còn thiếu khung pháp lý để hoạt động. Cũng có rất nhiều ý kiến cần bổ sung vấn đề này, hiện nay Luật Phòng, chống tham nhũng đang được các cơ quan chức năng nghiên cứu sửa đổi, tuy nhiên chắc phải khá lâu nữa thì vấn đề này mới được xem xét lại vì tháng 7/2019 tới đây Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 sẽ có hiệu lực thi hành mà vấn đề về “vai trò trách nhiệm xã hội của tổ chức phi chính phủ trong phòng trống tham nhũng vẫn bị bỏ ngỏ”. Vì vậy mong rằng các cơ quan chức năng soạn thảo luật sớm luật hoá vai trò của tổ chức Phi chính phủ và thừa nhận vai trò của chủ thể này trong việc góp phần thúc đẩy và giải quyết tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian vừa qua.

Ba, nâng cao vai trò các tổ chức xã hội để phát huy tính dân chủ: Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, cơ quan báo chí, truyền thông và nhân dân tiếp tục thường xuyên phối hợp chặt chẽ cùng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương, cơ quan chức năng để thực hiện tốt công tác Phòng, chống tham nhũng; kiên quyết, kiên trì thực hiện bằng được mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh và phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ của nhân dân.

Bốn là, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về Phòng, chống tham nhũng: Giáo dục hiệu quả, đưa nội dung Phòng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; tích cực phát huy vai trò của báo chí trong phát hiện tham nhũng; chủ động cung cấp, định hướng thông tin tuyên truyền về Phòng, chống tham nhũng theo Quy định số 65-QĐ/TW ngày 03/02/2017 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính: hoàn thiện các quy định xây dựng nền công vụ minh bạch, liêm chính, phục vụ; tăng cường chỉ đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, hiệu quả hơn nữa trong công tác Phòng, chống tham nhũng ở địa phương, cơ sở; tập trung xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tham nhũng vặt”, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc; kiên quyết loại bỏ những cán bộ hư hỏng, tham nhũng ra khỏi bộ máy của Đảng và Nhà nước, trước hết là trong các cơ quan Phòng, chống tham nhũng.

Sáu là, tăng cường hợp tác giữa nhà nước và xã hội trong phòng, chống tham nhũng, từ đó nâng cao năng lực của các tổ chức xã hội trong phòng chống tham nhũng: công cuộc Phòng, chống tham nhũng đòi hỏi phải có sự nỗ lực và tích cực từ cả hai phía, các cơ quan nhà nước và xã hội. Bản thân các cơ quan cần nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của xã hội trong công tác này. Từ đó có nhưng đảm bảo pháp lý cho hoạt động của xã hội, tạo điều kiện để khuyến khích, động viên sự tham gia của xã hội, tạo điều kiện để khuyến khích, động viên sự tham gia của xã hội cũng như trách nhiệm của công dân của các tổ chức, các thành viên trong việc tham gia. Ngược lại, mỗi tổ chức xã hội và người dân cũng cần thấy rõ trách nhiệm, vai trò của mình trong công tác Phòng, chống tham nhũng, thực thi có trách nhiệm với quyền và nghĩa vụ của mình.

Tiểu kết chương 3

Chương 3, đã đánh giá thực tiễn về hoạt động Phòng, chống tham nhũng, trong đó có hoạt động 5 năm trở lại đây của Ban chỉ đạo tw về phòng, chống tham nhũng. Cùng thấy được sự chỉ đạo, đúng đắn, kịp thời trong công tác Phòng, chống tham nhũng của các cấp chính quyền từ tw xuống địa phương và sự vào cuộc của cả xã hội. Từ đó đã để lại những thành công, thuận lợi. Bên cạnh đó cũng thẳng thắn nhìn nhận, chỉ ra những khuyết điểm, thiếu sót và đề xuất những thay đổi để làm tốt hơn nữa công tác phòng, chống tham nhũng trong thời gian tới.

KẾT LUẬN Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Cùng với việc thực thi Luật Phòng, chống tham nhũng, trong những năm qua công tác Phòng, chống tham nhũng đã đạt được nhiều chuyển biến thay đổi, như xử lý nhiều vụ đại án lớn, xử lý vi phạm Đảng viên và kỷ luật nhiều lãnh đạo, các cán bộ cấp cao. Qua đó lấy lại lòng tin cho quần chúng nhân dân và toàn xã hội. Để có được những kết quả to lớn như ngày hôm nay là do có sự quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh Phòng, chống tham nhũng; sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, ráo riết với nhiều quyết sách đúng đắn, kịp thời của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng, chống tham nhũng, Quốc hội, Chính phủ. Sự đồng thuận, sự nỗ lực, cố gắng của các chủ thể xã hội như: Mặt trận tổ quốc Viêt Nam, Báo chí và truyền thông, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề, Ban thanh tra nhân dân và người dân, được trao quyền trong Phòng, chống tham nhũng. Khóa luận: Thực tiễn công tác phòng chống tham nhũng ở VN.

Tuy nhiên chúng cũng cần nhìn lại để có những thay đổi cấp bách trong thời gian tới, khi vẫn còn nhiều khuyết điểm tồn động trong công tác Phòng, chống tham nhũng và tham nhũng vẫn còn diễn ra ở nhiều mặt trong cuộc sống hàng ngày, trong các lĩnh vực liên quan tới kinh tế – xã hội, phạm vi ngày càng rộng, gây ảnh hưởng tới lòng tin của nhân dân.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Vai trò trách nhiệm xã hội về phòng chống tham nhũng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x