Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1, Sự cần thiết của đề tài
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, ngày càng có nhiều vấn đề mới về chính sách thuế cần phải được nghiên cứu một cách có hệ thống. Và cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thu nhập trong dân cư có xu thế tăng đồng thời phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư cũng sâu sắc thêm. Việc sử dụng các công cụ thuế như thế nào và từng sắc thuế mà đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (một trong những sắc thuế trụ cột của hệ thống thuế hiện đại) đã phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế mới hay chưa đang là mối quan tâm của các nhà kinh tế cũng như đông đảo người dân. Việc Luật Thuế thu nhập cá nhân ra đời và có hiệu lực vào ngày 1/1/2009 vừa qua thay thế Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là một bước tiến mới và kèm theo đó là rất nhiều các vấn đề liên quan phát sinh, trong đó đặc biệt là trong khâu triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân vào trong cuộc sống. Thực hiện tốt Luật Thuế thu nhập cá nhân đang là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và cấp bách của Nhà nước ta cũng như ảnh hưởng khá lớn đến đời sống của người dân là đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam” cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống rõ những vấn đề cơ bản về thuế thu nhập cá nhân.
- Thực trạng, những vấn đề gặp phải khi triển khai luật thuế thu nhập cá nhân vào thực tiễn ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm góp phần thực hiện thật hiệu quả Luật Thuế thu nhập cá nhân.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Đối tượng nghiên cứu: phạm trù thu nhập, thu nhập cá nhân, các nội dung xoay quanh thuế thu nhập cá nhân, việc triển khai áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề lý luận, thực tiễn về triển khai áp dụng luật thuế thu nhập trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay. Từ kinh nghiệm về thuế thu nhập cá nhân của một số nước
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp phân tích biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp lý luận thực tiễn và tính hiện thực, phương pháp so sánh đối chiếu với chính sách thuế của một số nước để làm sáng tỏ vấn đề.
5. Kết cấu bài khóa luận
- Chương I: Tổng quan về thuế thu nhập cá nhân và Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.
- Chương II: Thực trạng triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.
- Chương III: Biện pháp nhằm triển khai hiệu quả Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN VÀ LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA VIỆT NAM
1. SƠ LƯỢC VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Lịch sử ra đời của thuế thu nhập cá nhân.
1.1.1. Lịch sử thuế thu nhập cá nhân trên thế giới.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Thuế thu nhập cá nhân ra đời lần đầu tiên ở nước Cộng hòa Hà Lan (Dutch Batavian Republic) vào năm 1797. Sau đó là ở Anh vào tháng 12 năm 1798 thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng như một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến chống lại Napoleon và được chính thức ban hành vào năm 1842. Sau đó thuế thu nhập cá nhân đã nhanh chóng được lan truyền sang các nước công nghiệp khác như: Đức (1808), Nhật (1887), Mỹ (1913 – đánh thuế thu nhập với những thu nhập hơn 800 $), Pháp (1914), Liên Xô (1922). Tại Châu á như Trung Quốc áp dụng năm 1936, Thái Lan năm 1939, Philipin năm 1945, Hàn Quốc năm 1948. Indonesia năm 1949… Cho đến nay đã có 180 quốc gia áp dụng thuế thu nhập cá nhân.
Tuy nhiên có thể nói hình thức sơ khai nhất của thuế thu nhập cá nhân lại xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc. Vào những năm 10 sau Công Nguyên, hoàng đế Minh Mạng của Trung Quốc đã ban hành một sắc thuế mới – thuế thu nhập, những chuyên gia và lao động có tay nghề cao phải nộp cho triều đình 10% lợi nhuận mà họ thu được.
Hiện nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân. Các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều coi thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế có tầm quan trọng đặc biệt trong việc huy động nguồn thu ngân sách, thực hiện phân phối công bằng xã hội và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
1.1.2. Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Thời kỳ phong kiến:
Ở Việt Nam trước đây, trên 90% dân số là nông dân. Hai sắc thuế chủ yếu với người nông dân là thuế ruộng (thuế điền) và thuế thân (thuế đinh). Thuế ruộng đã có từ thời nhà Ngô nhưng đến các thời nhà Lý, Trần, Hồ mới được quy định rõ ràng, chặt chẽ. Thuế thân thực chất là thuế thu nhập đến thời nhà Trần mới ra đời.
Thời nhà Trần: thuế thân mang tính chất là thuế thu nhập cá nhân bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam, được ban hành từ năm 1378. Thuế áp dụng với mọi công dân là nam giới từ 18 tuổi trở lên và còn được gọi là thuế đinh (thuế đánh theo đầu người). Bước đầu thuế thân thu 3 quan tiền/suất đinh, tương đương 54kg thóc. Thuế ruộng tư thu từ 42 đến 459kg thóc/ha theo lũy tiến.
Sau đó là thời nhà Hồ, nhà Lê (năm 1470) và nhà Lê Trịnh (năm 1670) đều áp dụng thuế thân – dạng sơ khai nhất của thuế thu nhập cá nhân ở nước ta, tuy nhiên với những mức thuế suất khác nhau. Và đến năm 1772 thuế thân được điều chỉnh lại là 40kg thóc/suất (khoảng 3,9% sản lượng nông nghiệp/mẫu bắc bộ). Riêng phần thuế ruộng động viên khoảng 7 – 8% sản lượng nông nghiệp
Thời nhà Nguyễn và Pháp đô hộ:
Về cơ bản thời nhà Nguyễn vẫn giữ nguyên các sắc thuế như đã có dưới các triều đại phong kiến trước, trong đó có thuế thân và còn đưa ra thêm các loại thuế khác. Nhìn chung thuế dưới triều Nguyễn là nặng nề phức tạp mang tính vơ vét, bóc lột. Ngoài ra còn do hệ thống quan lại tham nhũng từ trên xuống dưới, thu trực tiếp hoặc qua đấu thầu lạm bổ, sách nhiễu nhân dân, dẫn đến nhiều cuộc nổi dậy chống thuế.
Và dưới thời Pháp thuộc chế độ thuế thân là một chế độ thuế gian lận và tùy tiện, là thuế lũy tiến ngược với tài sản. Tình trạng này gây ra những lời phê bình, ca thán vô cùng thống thiết dưới thời Pháp thuộc.
Tóm lại, chính sách thuế thân dưới các triều đại phong kiến và nhất là dưới thời Pháp thuộc là một mối kinh hoàng của người nông dân Việt Nam, là một thứ thuế bất công đánh đồng loạt vào người giàu lẫn người nghèo, là thứ thuế mà mọi người mong muốn xóa bỏ. Tuy có nhiều nhược điểm nhưng một điểm đáng lưu ý là một dạng của thuế – sơ khai thuế thu nhập cá nhân đã có mặt ở Việt Nam khá lâu dưới cái tên “thuế đinh” và trong điều kiện xã hội có nền kinh tế chưa phát triển cũng có thể đặt ra thuế thu nhập cá nhân.
Thời kỳ đấu tranh thống nhất đất nước. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Ở miền Bắc: Sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh 11- SL, trong đó chế độ thuế thân đánh vào đầu người đã được bãi bỏ, giải phóng nhân dân khỏi tấm thẻ sưu đã bao năm ràng buộc người dân Việt Nam.
Ở miền Nam: Dưới thời chính quyền Sài Gòn trước năm 1975 có thuế lợi tức mang tính chất là một loại thuế đánh vào thu nhập của cả thể nhân và pháp nhân. Trong đó thuế lợi tức đối với thể nhân chính là dạng tương tự của thuế thu nhập cá nhân thể hiện ở: (1) Thu nhập chịu thuế: là thu nhập từ lao động như lao động từ tiền lương, tiền công, thu nhập về bản quyền phát minh, nhãn hiệu hàng hóa, phụ cấp tiền thưởng… (2) Lợi tức chịu thuế (hay thu nhập chịu thuế) cũng được xác định là thu nhập sau khi đã trừ đi một số khoản chi phí hợp lý nhất định. Đó là tổng thu nhập nhận được trừ bớt đi các chi phí tạo ra thu nhập, sau đó thu nhập chịu thuế còn được trừ tiếp một số khoản tùy theo gia cảnh của hộ nộp thuế như chi phí nuôi dưỡng con, cha mẹ và một số khoản có tính chất xã hội khác để xác định thu nhập chịu thuế. (3) Phương pháp đánh thuế theo hộ gia đình: đó là thu nhập thuần tính chung của cả gia đình, cũng quy định mức thuế suất, thủ tục hành thu… (4) Thuế suất, biểu thuế suất: Thuế suất được áp dụng là thuế suất theo tỷ lệ %, biểu thuế lũy tiến theo từng phần gồm 7 bậc từ 10-70% đối với các thể nhân có trụ sở tại Việt Nam. Đối với các thể nhân không có trụ sở tại Việt Nam áp dụng một thuế suất duy nhất là 40%.
Sau khi thống nhất đất nước, nhà nước ta đã bãi bỏ chế độ thuế thu nhập cá nhân của chính quyền Sài Gòn cũ. Tuy nhiên phải đánh giá rằng luật thuế thu nhập cá nhân của chính quyền Sài Gòn cũ là luật thuế thu nhập cá nhân khá chặt chẽ, phù hợp với chế độ thuế thu nhập cá nhân của các nước có nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nhưng mới chỉ đáp ứng được một phần của một luật thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh.
Sau năm 1975
Vào ngày 01/4/1991 Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được ban hành và áp dụng như luật thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh, đầu tiên ở Việt Nam. Pháp lệnh tồn tại khá lâu (có hiệu lực trong thời gian 18 năm từ năm 1991 đến hết năm 2008), đã có sửa đổi bổ sung 7 lần cho hoàn chỉnh hơn vào các năm 1992, 1993, 1994, 1997, 1999, 2001 và 2004. Tuy còn một số điểm bất hợp lý nhưng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong quá trình bước đầu tiến hành áp dụng thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam.
Sau 18 năm tồn tại, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã bị thay thế bởi Luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội khoá 12 thông qua ngày 21/11/2007 và đã có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2009 vừa qua. Đây được đánh giá là Luật về thuế thu nhập cá nhân hoàn chỉnh nhất ở Việt Nam từ trước đến nay, và đưa luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam gần với xu hướng thuế thu nhập cá nhân trên thế giới hơn. Tuy luật thuế thu nhập cá nhân được đánh giá là có nhiều điểm tiến bộ nhưng thực tế quá trình triển khai áp dụng Luật thuế này vẫn gặp khá nhiều vấn đề khó khăn cần được khắc phục.
1.2. Khái niệm thu nhập và thuế thu nhập cá nhân Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Định nghĩa Thuế thu nhập cá nhân.
Về nguyên tắc bất cứ một cá nhân hay pháp nhân nào khi nhận được thu nhập dưới bất cứ hình thái nào (hiện vật hay giá trị) và bất kể từ nguồn nào (do lao động hay đầu tư…) đều phải trích một phần từ thu nhập đó để nộp cho nhà nước dưới dạng thuế thu nhập.
Có thể chia thuế thu nhập thành 2 loại chính đó là: Thuế đánh vào thu nhập của cá nhân, được gọi là thuế thu nhập cá nhân và thuế đánh vào thu nhập của pháp nhân thì được gọi là thuế doanh nghiệp, thuế sự nghiệp, thuế lợi nhuận… Ở Việt Nam hiện nay tồn tại 2 loại thuế thu nhập đó là: thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập của mỗi cá nhân trong xã hội trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu vì người nộp thuế và người phải chi tiền đóng thuế là một (hay không có sự chuyển dịch đối tượng nộp thuế). Ở nhiều nước, bất cứ cá nhân nào cũng phải đóng thuế thu nhập cá nhân. Đứng từ góc độ lý thuyết chuẩn tắc của kinh tế học công cộng thì hễ chủ thể kinh tế nào tiêu dung hàng hóa công cộng thì đều phải nộp thuế bất kể thu nhập của anh ta dù nhiều hay ít (đánh thuế theo lợi ích). Song thực tế việc thu thuế từ những người có thu nhập thấp hơn một ngưỡng nhất định có thể không đem lại nhiều lợi ích so với chi phí kỹ thuật cho việc thu thuế. Do đó theo nguyên tắc về “tính đơn giản” của thuế, nhiều nước áp dụng thuế suất 0% đối với nhóm người này, hay nói cách khác chỉ thu thuế từ những người có thu nhập cao hơn một ngưỡng nhất định. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Cơ sở xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân.
Ở mỗi nước, Luật thuế thu nhập cá nhân được xây dựng khác nhau tùy theo tính đặc thù của từng nước. Bởi vậy, giữa các nước khác nhau sẽ có sự biệt trong việc xác định thu nhập chịu thuế, thuế suất, các trường hợp miễn giảm thuế… Tuy nhiên khi xây dựng chính sách thuế thu nhập cá nhân các quốc gia đều quan tâm giải quyết các vấn đề sau đây:
Xác định thu nhập chịu thuế:
Xác định đúng đắn thu nhập chịu thuế là cơ sở tính thuế thu nhập chính xác. Thu nhập chịu thuế của một cá nhân trong kỳ tính thuế là tổng thu nhập trừ đi tổng các khoản được giảm trừ. Tổng thu nhập của một đối tượng tính thuế sẽ không bao gồm những khoản miễn thuế. Để xác định tổng thu nhập cần phải xác định từng khoản cấu thành tổng thu nhập theo từng loại thu nhập cụ thể, tức là xem xét tổng thu nhập được hình thành từ những nguồn nào. Tuy nhiên không phải mọi khoản thu nhập của người nộp thuế đều đưa vào đối tượng tính thuế. Tùy theo mục đích đánh thuế mà có khoản thu nhập không đưa vào đối tượng đánh thuế.
Muốn xác định thu nhập chịu thuế chính xác cần phải xem xét các vấn đề như
- Nguồn gốc của thu nhập: Thu nhập của cá nhân có thể phân thành các nguồn cơ bản như: Thu nhập từ lao động (giữ vị trí quan trọng và chiếm tỷ trọng khá lớn trong thu nhập chịu thuế ở các nước phát triển: tiền lương, các khoản trợ cấp do người chủ lao động cung cấp phục vụ lợi ích của người làm công, các khoản bồi hoàn…); phúc lợi của người làm công (thông thường như nhà ở, sử dụng phương tiện đi lại do người chủ lao động cung cấp…); thu nhập từ hoạt động kinh doanh; thu nhập từ vốn, tài sản hay gọi là thu nhập từ đầu tư; các khoản thu nhập bất thường khác.
- Đánh thuế trên cơ sở cư trú hay nguồn phát sinh thu nhập: (1) Hệ thống thuế dựa vào tình trạng “cư trú” được sử dụng rộng rãi trên thế giới.
Theo hệ thống này, các cá nhân cư trú ở một nước phải nộp thuế tại nước đó và đánh trên mọi khoản thu nhập từ khắp nơi trên thế giới; còn những cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Khái niệm cư trú được quy định khác nhau ở các nước khác nhau. Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam cũng áp dụng cơ sở đánh thuế là tình trạng “cư trú”. (2) Ngoài ra cơ sở thứ hai được dựa vào để xác định nghĩa vụ nộp thuế là “nguồn phát sinh thu nhập”. Nếu áp dụng theo cơ sở này thì các cá nhân chỉ phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với khoản thu nhập phát sinh tại nước sở tại mà không phải nộp thuế thu nhập đối với những khoản thu nhập phát sinh ở nước ngoài. Cách đánh thuế này thích hợp với những nước có nhiều người nước ngoài đến làm việc và đầu tư còn bản thân công dân của nước đó ít đi làm hoặc đầu tư ở nước ngoài.
Xác định thời gian tính thuế thu nhập: Xác định đúng đắn thời điểm để tính thuế thu nhập là vấn đề vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng và thực thi luật thuế. Bởi vì một đối tượng nộp thuế có thu nhập liên tục thì thời điểm tính thuế được xác định là thời điểm nào. Xác định đúng thời gian tính thuế còn xuất phát từ yêu cầu đảm bảo giá trị đồng tiền nộp thuế trước tình trạng lạm phát, tránh sự lợi dụng chiếm dụng tiền thuế và thực hiện chi tiêu theo kế hoạch của nhà nước. Biện pháp chung nhất là tạm nộp theo hàng tháng, quyết toán hàng năm. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Xác định các khoản thu nhập miễn trừ.
Một trong những đặc điểm quan trọng của thuế thu nhập cá nhân là có tính tới hoàn cảnh của từng cá nhân, đó là các khoản giảm trừ. Các khoản giảm trừ thường được thực hiện dưới 2 dạng: miễn trừ cá nhân và miễn trừ tiêu chuẩn.
Miễn trừ cá nhân được thực hiện theo phương pháp kê khai chi phí thực tế phát sinh đối với các khoản được phép giảm trừ. Thông thường có hai loại giảm trừ cá nhân đó là: giảm trừ có tính chất kinh tế (các khoản giảm trừ mang tính chất chi phí liên quan trực tiếp đến việc tạo ra thu nhập như chi phí đi lại, ăn ở… kể cả các khoản đóng bảo hiểm) và giảm trừ có tính chất xã hội (các khoản giảm trừ mang tính chất chi trợ cấp có tính xã hội như giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, chi nuôi dưỡng, bảo trợ người già, tàn tật…). Phương pháp miễn trừ cá nhân đảm bảo sự công bằng và thường được áp dụng ở những nước có trình độ phát triển kinh tế và dân trí cao, hệ thống lưu trữ và kiểm soát thông tin tốt.
Đối với các nước chậm phát triển thường không đủ điều kiện để áp dụng phương pháp này mà chủ yếu áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn. Phương pháp này thực hiện thông qua việc xác định mức khởi điểm chịu thuế – đó là mức thu nhập trung bình xã hội đảm bảo trang trải đủ những chi phí cần thiết cả về mặt kinh tế và xã hội theo quan niệm và tập quán của từng nước. Phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn tuy không công bằng vì mức chi phí cần thiết bị cào bằng giữa các đối tượng nộp thuế nhưng lại đảm bảo cho thuế thu nhập cá nhân dễ tính toán, đơn giản hơn, do đó tiết kiệm chi phí hành thu và chi phí chấp hành, tuân thủ luật thuế. Việt Nam đang áp dụng phương pháp giảm trừ tiêu chuẩn này.
Thuế suất thuế thu nhập cá nhân.
Đối với thuế thu nhập cá nhân thông thường áp dụng biểu thuế suất lũy tiến (bao gồm thuế suất lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần). Trong đó biểu thuế lũy tiến từng phần được coi là đảm bảo công bằng hơn và không gây ra mâu thuẫn “mức tăng của thuế lớn hơn mức tăng của căn cứ tính thuế” tại điểm tiếp giáp giữa hai bậc thuế.
Khi xây dựng biểu thuế của thuế thu nhập cá nhân, các quốc gia thường sử dụng một số nguyên tắc sau:
- Thứ nhất, đánh thuế cùng một mức vào thu nhập tổng hợp, với số lượng thuế suất vừa phải để có thể quản lý tốt hơn.
- Thứ hai, mức thuế không nên quá cao làm ảnh hưởng đến nỗ lực lao động, tiết kiệm và đầu tư.
- Thứ ba, tùy theo đặc điểm tình hình kinh tế xã hội mà có thể sử dụng thuế suất ưu tiên linh hoạt cho từng loại thu nhập. Theo tập tục truyền thống thì hầu hết các nước sử dụng thuế suất ưu đãi đối với thu nhập từ lao động hơn là thu nhập từ vốn.
Phương pháp quản lý thu nộp. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập có thể được thu theo phương pháp khấu trừ tại nguồn hoặc phương pháp thu trực tiếp.
Phương pháp khấu trừ tại nguồn được áp dụng cho các khoản thu nhập phát sinh có tính chất ổn định như thu nhập từ lương, thu nhập từ bất động sản… Theo phương pháp này người hoặc cơ quan chi trả thu nhập tiến hành khấu trừ trước số thuế phải nộp của cá nhân để nộp cho cơ quan thuế, sau đó mới tiến hành chi trả phần còn lại cho người được hưởng. Phương pháp này thường được áp dụng phổ biến với những nước có khả năng kiểm soát và tổng hợp thu nhập thấp (thường là các nước chậm phát triển). Tuy chi phí thu thuế thấp, quy trình quản lý thu đơn giản nhưng mức độ công bằng lại kém hơn vì thông thường chỉ thu được thuế của những khoản thu nhập rõ ràng, chính thống. Những khoản thu nhập khác dễ bị bỏ qua do không kiểm soát được. Phương pháp thu trực tiếp được thực hiện trên cơ sở người nộp thuế tự kê khai thu nhập và gửi cho cơ quan thuế. Cơ quan thuế xác định số thuế phải nộp dựa trên số liệu kê khai về thu nhập, về các khoản được phép khấu trừ, giảm trừ… kết hợp với sự thẩm tra kiểm soát của cơ quan thuế. Phương pháp này tuy phức tạp nhưng đảm bảo tính chính xác vì khả năng tổng hợp nhiều nguồn thu nhập. Tuy nhiên thực tế phương pháp này chỉ đạt hiệu quả cao trong điều kiện người nộp thuế hiểu rõ nghĩa vụ và trách nhiệm của mình. Nếu trình độ hiểu biết của người nộp thuế còn kém, tính tự giác chưa cao thì không thể vận dụng được phương pháp trực tiếp này được. (Canada, Mĩ áp dụng phương pháp thu trực tiếp này)
Trên thực tế, các nước có nền kinh tế phát triển mặc dù đã xây dựng cho mình chế độ thuế thu nhập cá nhân khá hoàn chỉnh cũng thường chỉ sử dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn mà thôi. ở Việt Nam cũng áp dụng phương pháp khấu trừ tại nguồn.
1.3. Vai trò của thuế thu nhập cá nhân.
Các nước châu Âu coi thuế thu nhập cá nhân là “Nữ hoàng” của các loại thuế, ở châu Á như Nhật Bản lại gọi thuế thu nhập cá nhân là “Vua” của các loại thuế. Sắc thuế này có vị trí quan trọng bậc nhất ở hầu hết các quốc gia trên thế giới do nó có vai trò vô cùng lớn.
1.3.1. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ phân phối đảm bảo công bằng xã hội.
Một trong những khiếm khuyết của kinh tế thị trường là sự phân phối không công bằng và đi liền với nó là quá trình phân hóa giàu nghèo trong xã hội. Trong hệ thống thuế thường áp dụng hai loại thuế: thuế gián thu và thuế trực thu. Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập nhận được của từng cá nhân, điều tiết thu nhập của người nộp thuế theo khả năng của họ. Vì thế, thuế thu nhập cá nhân đảm bảo sự công bằng theo chiều dọc. Nếu chỉ áp dụng các loại thuế gián thu thì mới thực hiện được công bằng theo chiều ngang (tức là tất cả mọi người đều phải nộp thuế như nhau không phân biệt khả năng của họ). Thông qua đánh thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực hiện điều tiết thu nhập của những người có thu nhập cao, nhờ đó san bằng tương đối sự chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội.
Để thấy rõ vai trò đó của thuế thu nhập cá nhân, có thể sử dụng đường cong Lorenz dưới đây:
Hình 1.1 – Ảnh hưởng của thuế đến sự công bằng trong phân phối thu nhập Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Trên đồ thị, đường cong Lorenz càng gần đường 450 thì càng phản ánh sự phân phối công bằng. Điều đó được trợ giúp bởi thuế lũy tiến thông qua thực hiện thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo rút ngắn khoảng cách phân hóa giàu nghèo trong xã hội.
1.3.2. Thuế thu nhập cá nhân là một công cụ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho Ngân sách Nhà nước.
Do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của Nhà nước, sự giảm dần của thuế quan do yêu cầu của tự do hóa thương mại, để phát triển kinh tế các quốc gia phải tăng nguồn thu tài chính nhà nước thông qua các loại thuế khác nhau như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân… Trong đó thuế thu nhập cá nhân là nguồn tài chính lớn cho ngân sách của quốc gia đặc biệt là các nước phát triển, quả thực ngày nay thuế thu nhập cá nhân là một hình thức thu quan trọng của ngân sách Nhà nước ở các nước này. ở Việt Nam trước đây thuế đánh vào thu nhập cá nhân được thể hiện qua 3 sắc thuế (thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp với phần cá nhân nộp thuế và thuế chuyển quyền sử dụng đất) mà hiện tại được thay thế bằng một sắc thuế là thuế thu nhập cá nhân, chỉ đóng góp được 4,1% tổng thu Ngân sách nhà nước trong khi tỷ lệ đó ở một số nước Asean (Thái Lan, Philippines, Malaysia…) khoảng 12-16%, các nước đang phát triển khoảng 13-14%, các nước phát triển (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Đức…) khoảng 30-40% tổng thu nhập ngân sách quốc gia.
Bảng 1.2 – Doanh thu thuế thu nhập cá nhân so với GDP của một số nước trên thế giới
Ở nước ta thuế thu nhập cá nhân tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu ngân sách Nhà nước, song trong điều kiện phát triển kinh tế và toàn cầu hóa ngày nay, thu nhập của cá nhân có xu hướng tăng nhanh, nên tỷ trọng thuế thu nhập cá nhân trong tổng thu ngân sách nhà nước sẽ có khả năng tăng lên.
1.3.3. Thuế thu nhập cá nhân góp phần điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Thuế thu nhập cá nhân không chỉ là công cụ huy động nguồn thu ngân sách Nhà nước, thực hiện công bằng xã hội, mà còn giữ vai trò điều tiết nền kinh tế quốc dân. Thuế thu nhập cá nhân được sử dụng như một công cụ linh hoạt để điều tiết vĩ mô, kích thích tiêu dùng hoặc đầu tư để phát triển kinh tế. Một trong những lý thuyết căn bản của Keynes về tính hữu dụng giảm dần của thu nhập cho rằng mức thu nhập càng cao thì tính hữu dụng của nó càng thấp, con người có xu hướng tăng tiêu dùng của mình theo tốc độ tăng của thu nhập, nhưng không phải tăng theo cùng mức tăng của thu nhập. Cùng với tốc độ tăng của thu nhập thì tốc độ tiết kiệm tăng nhanh hơn bởi vậy cần thiết phải có chính sách thuế đánh vào thu nhập đưa vào tiết kiệm để kích thích tiêu dùng và tăng đầu tư phát triển kinh doanh. Cũng theo Keynes thì khuynh hướng tiêu dùng ở những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn ở những người có thu nhập cao. Do vậy, để tăng phúc lợi xã hội cần thiết phải điều tiết bớt thu nhập của những đối tượng có thu nhập cao và phân phối lại cho những đối tượng có thu nhập thấp hơn.
Bên cạnh đó, thông qua chính sách miễn thuế, ưu đãi… thuế thu nhập cá nhân có thể tác động trực tiếp đến định hướng tiêu dung và đầu tư theo hướng có lợi, thực hiện mục tiêu điều chỉnh kinh tế của nhà nước. Vì vậy, ở mỗi thời kỳ phát triển khinh tế khác nhau, tùy theo yêu cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế mà chính sách thuế thu nhập cá nhân ở mỗi nước được xây dựng phù hợp.
2. LUẬT THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN CỦA VIỆT NAM. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
2.1. Sự ra đời của Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam
Sau hơn ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng với hàng trăm cuộc hội thảo và sau gần một năm công bố rộng rãi để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, ngày 20/11/2007, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hoà XHCH Việt nam khoá XII đã thông qua Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) với hơn 79% số phiếu tán thành. Luật này đã có hiệu lực thi hành vào 1/1/2009.
Ý nghĩa của sự chuyển đổi từ Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao thành Luật thuế thu nhập cá nhân
Mọi người đều nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Thuế thu nhập cá nhân trong giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước hiện nay thay thế các thuế hiện hành đánh vào thu nhập là thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế thu nhập doanh nghiệp (phần cá nhân nộp thuế), thuế chuyển quyền sử dụng đất. Ban hành luật thuế thu nhập cá nhân còn có tác sửa lại những điều chưa hợp lý, chưa nhất quán với tính cách là thuế đánh vào thu nhập cá nhân tồn tại trong 3 luật thuế trên. Đồng thời đưa sắc thuế mới lên tầm bao quát và nhất quán trong việc đánh thuế vào các loại thu nhập cá nhân trong điều kiện nước ta hiện nay, tạo ra mặt bằng mới, thực hiện công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi đối tượng có thu nhập cá nhân ở mức độ và loại thu nhập chịu thuế.
Trước đây cả nước có khoảng 300.000 người nằm trong diện chịu thuế thu nhập theo Pháp lệnh thuế thu nhập cao, với tổng số thu trên 6.000 tỷ đồng một năm; khi Luật thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực sẽ có khoảng 2,3 triệu người nằm trong diện nộp thuế với khoản thu ước đạt 13.000 tỷ đồng. Như vậy mục tiêu tăng thu cho ngân sách nhà nước đã đạt được.
Hơn nữa khi giảm mức khởi điểm chịu thuế xuống còn 4 triệu đồng/tháng tức là mở rộng diện đánh thuế trong tầng lớp dân cư, nâng cao vai trò phân phối công bằng của thuế thu nhập cá nhân và cũng tiến đến gần bản chất của thuế thu nhập cá nhân hơn.
2.2. Nội dung cơ bản của Luật thuế thu nhập cá nhân. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
2.2.1. Về đối tượng nộp thuế.
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định theo Luật Thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam.
Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
- Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam.
- Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.
Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng một trong những điều kiện trên.
2.2.2. Thu nhập chịu thuế.
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây, trừ thu được miễn thuế:
Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm:
- Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ;
- Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.
Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm:
- Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công.
- Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội.
- Tiền thù lao dưới các hình thức. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
- Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức.
- Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền.
- Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm:
- Tiền lãi cho vay;
- Lợi tức cổ phần;
- Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ.
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm:
- Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế;
- Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán;
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm:
- Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất;
- Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở;
- Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước;
- Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm:
- Trúng thưởng xổ số;
- Trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại;
- Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino;
- Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác.
Thu nhập từ bản quyền, bao gồm:
- Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ;
- Thu nhập từ chuyển giao công nghệ. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại.
Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.
2.2.3. Căn cứ tính thuế đối với cá nhân cư trú Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh.
Thu nhập chịu thuế từ kinh doanh được xác định bằng doanh thu trừ các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế.
Doanh thu là toàn bộ tiền bán hàng, tiền gia công, tiền hoa hồng, tiền cung ứng hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong kỳ tính thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Thời điểm xác định doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, hoàn thành dịch vụ hoặc thời điểm lập hoá đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ.
Chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập chịu thuế từ kinh doanh trong kỳ tính thuế bao gồm:
- Tiền lương, tiền công, các khoản thù lao và các chi phí khác trả cho người lao động;
- Chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, năng lượng, hàng hoá sử dụng vào sản xuất, kinh doanh, chi phí dịch vụ mua ngoài;
- Chi phí khấu hao, duy tu, bảo dưỡng tài sản cố định sử dụng vào sản xuất, kinh doanh;
- Chi trả lãi tiền vay;
- Chi phí quản lý;
- Các khoản thuế, phí và lệ phí phải nộp theo quy định của pháp luật được tính vào chi phí;
- Các khoản chi phí khác liên quan đến việc tạo ra thu nhập.
Việc xác định doanh thu, chi phí dựa trên cơ sở định mức, tiêu chuẩn, chế độ và chứng từ, sổ kế toán theo quy định của pháp luật.
Trường hợp nhiều người cùng tham gia kinh doanh trong một đăng ký kinh doanh thì thu nhập chịu thuế của mỗi người được xác định theo một trong các nguyên tắc sau đây:
- Tính theo tỷ lệ vốn góp của từng cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
- Tính theo thoả thuận giữa các cá nhân ghi trong đăng ký kinh doanh;
- Tính bằng số bình quân thu nhập đầu người trong trường hợp đăng ký kinh doanh không xác định tỷ lệ vốn góp hoặc không có thoả thuận về phân chia thu nhập giữa các cá nhân.
Đối với cá nhân kinh doanh chưa tuân thủ đúng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ mà không xác định được doanh thu, chi phí và thu nhập chịu thuế thì cơ quan thuế có thẩm quyền ấn định doanh thu, tỷ lệ thu nhập chịu thuế để xác định thu nhập chịu thuế phù hợp với từng ngành, nghề sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công được xác định bằng tổng số thu nhập từ tiền công, tiền lương như đã quy định mà đối tượng nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
Thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn
Thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn là tổng số các khoản thu nhập từ đầu tư vốn như đã quy định mà đối tượng nộp thuế nhận được trong kỳ tính thuế. Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn là thời điểm tổ chức, cá nhân trả thu nhập cho đối tượng nộp thuế hoặc thời điểm đối tượng nộp thuế nhận được thu nhập.
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn
Thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn được xác định bằng giá bán trừ giá mua và các khoản chi phí hợp lý liên quan đến việc tạo ra thu nhập từ chuyển nhượng vốn.
Trường hợp không xác định được giá mua và chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng chứng khoán thì thu nhập chịu thuế được xác định là giá bán chứng khoán.
Thời điểm xác định thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng vốn là thời điểm giao dịch chuyển nhượng vốn hoàn thành theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra Luật Thuế thu nhập cá nhân cũng quy định cách xác định thu nhập chịu thuế từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản; từ trúng thưởng; thu nhập chịu thuế từ bản quyền; từ nhượng quyền thương mại; từ thừa kế, quà tặng.
Giảm trừ gia cảnh
Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây:
- Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm);
- Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng.
Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm:
- Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động;
- Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.
Giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo
Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú, bao gồm:
Khoản đóng góp vào tổ chức, cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người tàn tật, người già không nơi nương tựa; Khoản đóng góp vào quỹ từ thiện, quỹ nhân đạo, quỹ khuyến học.
Tổ chức, cơ sở và các quỹ quy định trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, khuyến học, không nhằm mục đích lợi nhuận.
2.3. Những điểm tiến bộ của Luật thuế thu nhập cá nhân.
2.3.1. Bổ sung và quy định rõ hơn về đối tượng nộp thuế.
Điểm mới cơ bản nhất liên quan đến quy định về đối tượng nộp thuế là việc đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế thu nhập cá nhân. Theo quy định trước đây, cá nhân kinh doanh thuộc diện chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Sự thay đổi này, trước hết đảm bảo tính công bằng trong điều tiết thu nhập bởi đã là cá nhân có thu nhập chịu thuế thì dù thu nhập từ bất kì nguồn nào cũng đều được đối xử như nhau, tức là đều chịu thuế thu nhập cá nhân. Thêm vào đó, việc điều tiết thu nhập của cá nhân kinh doanh theo Luật thuế thu nhập cá nhân thực hiện theo phương pháp lũy tiến sẽ đảm bảo điều tiết hợp lý thu nhập dân cư. Điều này rất có ý nghĩa đối với các hộ kinh doanh nhỏ ở Việt Nam vì theo quy định trước đây họ phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất chung bằng với các doanh nghiệp là 28% nay là 25% (thông thường là những đơn vị kinh doanh có quy mô lớn). Việc áp dụng thuế suất như với các doanh nghiệp là quá cao đối với cá nhân kinh doanh. Hơn nữa, quy định này cũng đảm bảo tính thông lệ quốc tế, vì hầu hết các nước đều đưa cá nhân kinh doanh vào diện nộp thuế thu nhập cá nhân.
Về đối tượng nộp thuế, còn một điểm mới nữa là việc định nghĩa rõ hơn đối tượng cư trú (đối tượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân cho Việt Nam đối với toàn bộ thu nhập, kể cả thu nhập phát sinh ở Việt Nam và nước ngoài). Nếu như trước đây, đối tượng cư trú chỉ là cá nhân có mặt ở Việt Nam từ 183 ngày trở lên trong năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ khi đến Việt Nam thì Luật thuế thu nhập cá nhân đã bổ sung thêm một điều kiện nữa được coi là cư trú ở Việt Nam, đó là “cá nhân có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở dăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở lại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn”. Bổ sung như vậy làm cho việc xác định đối tượng nộp thuế được thuận lợi hơn, bao quát hết đối tượng nộp thuế và mở rộng đối tượng nộp thuế một cách hợp lý. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
2.3.2. Đổi mới cách phân loại thu nhập chịu thuế để xác định nghĩa vụ thuế.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đây, thu nhập được phân chia thành thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Tuy nhiên, Pháp lệnh không định nghĩa rõ thế nào là thu nhập thường xuyên, thế nào là thu nhập không thường xuyên. Do vậy, trong thực tế, việc tính thuế gặp khá nhiều khó khăn. Đồng thời, việc tính thuế đối với từng loại thu nhập không hợp lý, không phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế thu nhập cá nhân đã khắc phục được hạn chế này với việc phân loại thu nhập chịu thuế theo nguồn phát sinh thu nhập. Theo đó, thu nhập chịu thuế bao gồm:
- Thu nhập từ kinh doanh.
- Thu nhập từ tiền lương, tiền công.
- Thu nhập từ đầu tư vốn.
- Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản
- Thu nhập khác: bao gồm thu nhập từ trúng thưởng, thu nhập từ bản quyền thu nhập từ thừa kế, quà tặng, thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại.
Đây là cơ sở tính để tính thuế phù hợp với từng loại thu nhập. Từ cách phân loại này, việc áp dụng thuế suất được quy định theo hai hướng: đối với thu nhập từ kinh doanh và tiền lương, tiền công thì áp dụng biểu thuế suất lũy tiến từng phần; đối với các khoản thu nhập còn lại thì áp dụng biểu thuế lũy tiến toàn phần.
2.3.3 Mở rộng diện điều tiết một cách hợp lý trên cơ sở bổ sung một số khoản chịu thuế. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Một số khoản thu nhập trước đây không quy định (mặc nhiên được coi là thu nhập không chịu thuế) được quy định trong Luật thu nhập cá nhân gồm: thu nhập từ chuyển nhượng quyền thương mại, thu nhập từ quà tặng là chứng khoán (cổ phiếu thưởng), phần vốn trong các cơ sở kinh doanh, bất động sản hoặc tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc sử dụng (tuy nhiên, thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản của cá nhân chỉ có nhà ở, đất ở duy nhất dược miễn thuế), thu nhập từ casino, thu nhập từ trúng thưởng các cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác (trước đây chỉ tính đối với trúng thưởng xổ số và khuyến mại). Tất nhiên, những khoản thu nhập này chỉ bị đánh thuế khi thu nhập phát sinh lớn (từ trên 10 triệu đồng một hợp đồng hoặc một lần phát sinh). Liên quan đến thu nhập chịu thuế từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng có một quy định đán chú ý là: Luật thuế thu nhập cá nhân quy định miễn trừ thuế đó với thu nhập từ chuyển nhượng, kế thừa, quà tặng giữa vợ với chồng; cha mẹ đẻ; cha mẹ nuôi; mẹ nuôi với con đẻ, con nuôi; cha chồng mẹ chồng với con dâu; cha vợ mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại; anh chị em ruột với nhau.
Một số khoản thu nhập trước đây tạm thời chưa thu thuế như thu nhập từ đầu tư vốn (gồm lãi cho vay, lợi tức cổ phần và thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác); thu nhập từ chuyển nhượng vốn bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán. Tuy nhiên, phần thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (ngân hàng, các quỹ tín dụng và các tổ chức tín dụng khác) và lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Việc miễn thuế này nhằm mục đích thu hút khoản tiền nhàn rỗi nhỏ lẻ trong dân cư vào các kênh tín dụng, để từ đó sử dụng vốn của nền kinh tế vào hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến khích sử dụng có hiệu quả mọi đồng vốn của xã hội.
Mở rộng diện điều tiết như trên sẽ góp phần điều tiết công bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư theo hướng mọi cá nhân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập rất thấp và một số trường hợp đặc biệt) đều phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Do vậy không còn chỉ là thuế thu nhập với người có thu nhập cao nữa mà là thuế thu nhập cá nhân, tức là thuế thu nhập với phần đông dân cư của một đất nước. Đồng thời, bằng quy định mới này, Luật thuế thu nhập cá nhân sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước một cách hợp lí trên cơ sở không bỏ sót nguồn thu của nền kinh tế.
2.3.4 Sử dụng thuật ngữ “thu nhập được miễn thuế” thay cho “thu nhập không chịu thuế” và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế.
Trên cơ sở kế thừa các khoản thu nhập không thuộc diện chịu thuế của Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Luật thuế thu nhập cá nhân đã thay đổi, gọi đúng bản chất là thu nhập được miễn thuế và bổ sung một số khoản thu nhập được miễn thuế khác. Cụ thể là bổ sung các khoản thu nhập sau vào diện miễn thuế: thu nhập từ tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn lương làm việc ban ngày, làm việc trong giờ (tức là vẫn phải đóng thuế thu nhập cá nhân phần lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ không chênh lệch); lương hưu; tiền thưởng cho cá nhân về việc phát hiện, khai báo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật; học bổng nhận từ ngân sách Nhà nước và từ các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Chính phủ; thu nhập từ viện trợ, từ thiện với điều kiện các quỹ từ thiện này phải được Nhà nước cho phép thành lập hoặc công nhận hoạt động vì mục đích nhân đạo không nhằm mục đích thu lợi nhuận; thu nhập từ lãi trái phiếu chính phủ. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Việc bổ sung một số khoản thu nhập miễn thuế nêu trên thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với một số đối tượng được hưởng thu nhập trong những trường hợp gặp khó khăn. Điều này cũng thể hiện chính sách khuyến khích của nhà nước đối với một số hoạt động có lợi cho phát triển kinh tế – xã hội như tố giác tội phạm, tăng cường lao động sản xuất…
2.3.5 Áp dụng giảm trừ gia cảnh khi xác định nghĩa vụ thuế.
Đây chính là vấn đề được ủng hộ của đông đảo nhân dân nhất song cũng là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất khi dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân được đưa ra lấy ý kiến nhân dân Sự ủng hộ xuất phát từ cơ sở là, thay vì áp dụng mức khởi điểm chịu thuế chung cho mọi đối tượng nộp thuế (có tính riêng đối với người Việt Nam và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam) thì chuyển sang áp dụng giảm trừ gia cảnh, tức là có tính đến hoàn cảnh cá nhân của đối tượng nộp thuế. Điều này làm cho việc xác định nghĩa vụ thuế của mỗi đối tượng nộp thuế được công bằng hơn. Tuy nhiên, điểm gây nhiều tranh cãi là ở chỗ, mức giảm trừ nên là bao nhiêu cho bản thân đối tượng nộp thuế và cho người phụ thuộc. Sau khi thảo luận khá sôi nổi và thẳng thắn, Quốc Hội đã biểu quyết thông qua mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng, cho mỗi người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nuôi dưỡng là 1,6 triệu đồng/tháng.
Có ý kiến cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh như thế là thấp. Tuy nhiên, mức giảm trừ gia cảnh như trên là phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam trong những năm tới và phù hợp với quan điểm cải cách hệ thống thuế của Việt Nam. Theo đó, với mức thu nhập bình quân đầu người dự kiến cho năm 2009 là khoảng 1,5 triệu đồng/tháng thì mức giảm trừ cho bản thân đối tượng nộp thuế ở mức 4 triệu đồng/tháng có ý nghĩa rằng, chỉ những người có thu nhập từ trung bình khá trở lên mới phải nộp thuế (và chỉ phải nộp đối với phần thu nhập vượt trên mức giảm trừ này). Những năm sau đó, khi thu nhập tăng lên, mức giảm trừ này sẽ tiến gần tới mức thu nhập trung bình trong xã hội và khi đó những người có thu nhập ở mức trung bình trở lên sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Điều này có nghĩa là Luật sẽ tự động mở rộng diện tích đánh thuế để thực hiện nguyên tắc mọi công dân có thu nhập (trừ trường hợp thu nhập quá thấp) đều có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, từ đó đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của tầng lớp dân cư. Tất nhiên, đến một thời điểm nào đó, khi thu nhập và mức sống của dân cư đã tăng rất cao, Quốc Hội sẽ xem xét điều chỉnh mức giảm trừ này cho phù hợp với định hướng vừa phân tích ở trên.
Việc giảm trừ cho người phụ thuộc được thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. Những người phụ thuộc được giảm trừ khá rộng bao gồm: con chưa thành niên, con đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, con tàn tật không có khả năng lao động, các cá nhân khác không có thu nhập hoặc có thu nhập nhưng thấp hơn mức quy định của Chính phủ hoặc không có nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng (gồm cha, mẹ, vợ, chồng, cô, dì, chú, bác, cháu…) Luật không khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc (trong dự thảo Luật lấy ý kiến nhân dân, dự kiến khống chế mức giảm trừ tối đa cho người phụ thuộc là 10 triệu đồng/tháng).
Ví dụ: Nếu hai vợ chồng đi làm, thu nhập hàng tháng của chồng 10 triệu đồng, vợ 4,5 triệu đồng, hai con trong diện giảm trừ gia cảnh thì nên khai giảm trừ về phía người chồng sẽ có lợi hơn vì sẽ làm giảm thu nhập tính thuế. Cụ thể: người chồng khai 2 con là người phụ thuộc, thu nhập tính thuế của anh ta là 10 – 4 – 1,6 x 2 =2,8 triệu, thu nhập tính thuế của người vợ là: 0,5 triệu đồng; số thuế phải nộp của gia đình đó là: (2,8 + 0,5)x 5% = 165.000. Như vậy có thể thấy rõ so trước đây số thuế phải nộp của gia đình này đã giảm đI (trước đây là 500.000).
Việc mở rộng diện giảm trừ như trên cho những người phụ thuộc đảm bảo thực hiện công bằng trong điều tiết thu nhập và phù hợp với đạo lý xã hội của người Việt Nam, chắc chắn nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo quần chúng.
2.3.6. Áp dụng giảm trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được trừ vào thu nhập trước khi tính thuế nhưng chỉ áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công và thu nhập từ kinh doanh; không áp dụng đối với các khoản thu nhập khác. Đây là điểm mới không chỉ so với Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện hành mà còn mới ngay cả đối với bản dự án Luật lấy ý kiến nhân dân. Nội dung mới này của Luật được Quốc Hội tiếp thu ý kiến nhân dân. Như vậy, Luật đã khuyến khích mọi công dân trong xã hội tham gia các hoạt động từ thiện, nhân đạo. Đồng thời, đấy cũng chính là một khoản “chi tiêu qua thuế” của nhà nước, thể hiện ở chỗ một khoản thu lẽ ra được nộp về ngân sách Nhà nước bây giờ được chuyển sang cho đối tượng thụ hưởng khoản đóng góp từ thiện. Ví dụ một người có thu nhập từ kinh doanh trước thuế của một năm 360 triệu (thu nhập bình quân tháng 30 triệu) thực hiện góp quỹ ủng hộ đồng bào lụt 10 triệu đồng. Khi đó 10 triệu này sẽ được giảm trừ vào thu nhập chịu thuế và số thuế nhà nước giảm thu khi cho cá nhân này giảm trừ vào thu nhập tính thuế là 2 triệu đồng. Có thể hiểu, coi như Nhà nước đã sử dụng ngân góp vào quỹ ủng hộ đồng bào bão lụt 2 triệu đồng, còn cá nhân này thực ra chỉ ủng hộ 8 triệu đồng.
2.3.7. Quy định giảm trừ chi phí cho cá nhân kinh doanh một cách hợp lý.
Cùng với việc chuyển cá nhân kinh doanh từ diện nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập cá nhân đã quy định các khoản chi phí hợp lý được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của cá nhân kinh doanh. Về cơ bản, các khoản chi phí hợp lý được trừ này kế thừa các quy định hiện hành của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Trường hợp cá nhân kinh doanh không thực hiện chế độ kế toán để làm cơ sở xác định chi phí hợp lý được trừ thì thu nhập chịu thuế được xác định bằng doanh thu ấn định nhân với tỷ lệ thu nhập chịu thuế quy định cho từng ngành.
2.3.8. Điều chỉnh thuế suất theo hướng giảm thuế suất cao nhất, thấp nhất, và tăng bậc thuế suất; thống nhất biểu thuế đối với người Việt Nam và người nước ngoài. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
Theo Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thu nhập thường xuyên chịu thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần với bốn mức thuế suất, thấp nhất là 10% và cao nhất là 40%. Đối với thuế thu nhập từ kinh doanh và từ tiền lương, tiền công, Luật thuế thu nhập cá nhân vẫn áp dụng biểu thuế lũy tiến từng phần nhưng mức thuế suất thấp nhất giảm xuống còn 5% và mức thuế suất cao nhất giảm xuống còn 35% với số lượng bậc thuế nâng lên thành bảy và áp dụng chung cho cả người Việt Nam và người nước ngoài (cụ thể như bảng 1.3)
Với biểu thuế mới này, tuy việc tính toán có phức tạp hơn (do tăng số lượng bậc thuế) nhưng lại đảm bảo công bằng hơn trong điều tiết thu nhập do chênh lệch về thuế suất giữa các bậc thuế giảm đi. Việc hạ thuế suất cao nhất và thấp nhất xuống thể hiện tinh thần mở rộng diện đánh thuế nhưng mức độ điều tiết cũng giảm đi, huy động sự đóng góp của nhiều người nhưng với mức độ vừa phải, thực hiện “góp gió thành bão”. Mặt khác, việc giảm mức thuế suất cao nhất sẽ góp phần khuyến khích người lao động tích cực lao động và sản xuất, kinh doanh; khuyến khích người dân làm giàu chính đáng.
Ngoài ra, Luật còn quy định thuế suất cụ thể cho từng loại thu nhập áp dụng đối với cá nhân không cư trú với các mức thuế suất từ 1% đến 10% tính trên toàn bộ thu nhập phát sinh ở Việt Nam (không được trừ chi phí).
Tóm lại: Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành có nhiều điểm mới, phù hợp với tiến trình đổi mới quản lý kinh tế của Nhà nước, với quá trình hội nhập kinh tế của đất nước và trình độ phát triển kinh tế – xã hội của nước ta hiện nay. Với việc ban hành Luật thuế quan trọng này, hệ thống thuế của chúng ta đang hướng đến phù hợp hơn với hệ thống thuế các nước, hướng tới một hệ thống công bằng và hiện đại hơn. Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Thực trạng triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân