Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên Quang là tỉnh ở vùng núi cao phía Bắc. Phía Bắc và Tây của tỉnh giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Thái Nguyên, phía Đông Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ. Thị xã Tuyên Quang cách Hà Nội 165km. Ở đây có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống trong các bản làng xa xôi. Trong đó có người Dao Quần Trắng ở làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn. Người Dao thật thà, hiền lành, chất phác và hiếu khách. Do sống phân tán, tiếp giáp với nhiều dân tộc nên họ dễ hòa đồng, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiếp thu cái mới.
Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc thể hiện qua nhiều phong tục, nhiều điệu múa đẹp, nhiều bài hát hay, kho tàng truyện cổ tích, thần thoại, ngụ ngôn, ca dao, thành ngữ, chiêm tinh, tướng số, câu đố… Nhưng cũng giống các dân tộc thiểu số khác, chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền khẩu. Hiện nay nó đang bị mai một, thất truyền với những lý do khách quan cũng như chủ quan. Bên cạnh đó, đời sống của họ còn rất nhiều khó khăn. Vì thế, đồng bào cần có sự quan tâm của chính quyền để nâng cao chất lượng cuộc sống của họ. Trong vài năm trở lại đây có rất nhiều du khách đến đây để tìm hiểu về phong tục truyền thống, về cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào. Vì thế địa phương đang lập kế hoạch để phát triển du lịch.
Xu thế phát triển du lịch trên thế giới hiện nay là hướng tới những khu vực có tiềm năng đặc sắc về mặt thiên nhiên và văn hoá. Chính vì thế, những tuor du lịch đến những bản làng xa xôi được khách du lịch quốc tế ưa chuộng.
Du khách nước ngoài thích đi du lịch tới những bản, làng xa xôi, nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống là vì cảnh quan ở đây còn hoang sơ, những phong tục tập quán của đồng bào còn được lưu truyền, chưa mai một trong cuộc sống đương đại. Kinh nghiệm ở một số nơi như Sa Pa (Lào Cai), bản Lác, Giang Mỗ (Hoà Bình), khách du lịch nước ngoài thường thích đi bộ vào những bản làng vùng sâu, vùng xa, sống và sinh hoạt cùng người dân. Người dân có thể cung cấp những dịch vụ khác nhau như: phòng trọ, nấu ăn, dẫn đường, vác đồ, hướng dẫn thực hiện các công việc nhà nông, hoặc bán những sản phẩm lưu niệm như: thổ cẩm, đồ mây tre đan, các sản phẩm mỹ nghệ hoặc biểu diễn các loại hình văn hoá dân gian. Điều hấp dẫn du khách chính là vẻ đẹp nồng hậu, chân chất, thật thà của người dân ở các bản làng nơi đây. Đó chính là du lịch cộng đồng.
Du lịch cộng đồng đem lại lợi ích thiết thực đối với người dân. Trước hết, người dân có được nguồn thu trực tiếp từ các dịch vụ cung cấp cho khách và những nguồn thu này đôi khi lớn hơn rất nhiều so với sản xuất nông nghiệp. Tiếp đến là những lợi ích từ việc phát triển cơ sở hạ tầng. Một khu du lịch phát triển, sẽ thu hút sự quan tâm của các cấp chính quyền, thu hút các nhà đầu tư phát triển hệ thống đường sá, hệ thống cấp điện, nước, mạng lưới thông tin, y tế, chỉnh trang nhà cửa, cảnh quan, môi trường. Đó là những lợi ích cụ thể cho cộng đồng, góp phần cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Ngoài ra, còn những lợi ích thiết thực khác như việc làm, giao lưu văn hoá và đặc biệt là ý thức xã hội về bảo tồn văn hoá được nâng cao. Như vậy, đối với những vùng đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, làng Nghẹt nói riêng việc phát triển du lịch cộng đồng hay du lịch dựa vào cộng đồng hoàn toàn có cơ sở để thực hiện và chắc chắc sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đây cũng là phương thức hữu hiệu để phát triển kinh tế – xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo cho nhân dân các dân tộc vùng cao, bảo tồn được môi trường tự nhiên và văn hoá bản địa. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Mô hình du lịch cộng đồng được xây dựng ở làng Nghẹt sẽ nâng cao nhận thức cho cộng đồng trong việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường đồng thời cộng đồng được hưởng những lợi ích thiết thực từ kinh doanh du lịch. Với mong muốn đó em đã chọn đề tài “Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài
2.1 Mục đích của đề tài:
Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng cho người Dao Quần Trắng tại làng Nghẹt nhằm:
- Góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và văn hoá
- Đề cao sự bền vững của môi trường, văn hoá, xã hội
- Tạo ra sản phẩm du lịch độc đáo, có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội, từ đó thu hút mạnh mẽ khách du lịch
- Lôi kéo sự tham gia của cộng đồng địa phương và cộng đồng hiểu được lợi ích của việc tham gia vào du lịch cộng đồng.
2.2 Nhiệm vụ của đề tài:
- Đúc kết về cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng
- Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt
- Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt, góp phần phát triển cộng đồng địa phương, những giải pháp để tiến hành xây dựng làng trở thành làng du lịch cộng đồng, chính sách thu hút đầu tư và thu hút khách du lịch, đảm bảo sự phát triển bền vững.
2.3 Giới hạn của đề tài
- Về mặt không gian: Đề tài giới hạn trong phạm vi làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.
- Về mặt thời gian: Sử dụng số liệu từ năm 2004. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
- Về mặt nội dung: Giới hạn trong pham vi nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế – xã hội; tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn của làng Nghẹt có ý nghĩa cho phát triển du lịch cộng đồng.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn) của làng Nghẹt.
- Cộng đồng dân cư tại làng Nghẹt.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa:
Đến địa phương để tìm hiểu phong tục tập quán, điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội,đời sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào đề tiến hành xây dựng mô hình du lịch cộng đồng hợp lý và hiệu quả nhất.
- Phương pháp điều tra xã hội học
Thông qua điều tra xã hội học (phát phiếu để điều tra thái độ, nhận thức của người dân về các vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, những hiểu biết của người dân về du lịch cộng đồng, điều tra mức sống, trình độ dân trí..), phát biểu trưng cầu ý kiến, thu thập và xử lý kết quả. Tiến hành hỏi 45 người dân địa phương.
- Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp
Phương này sử dụng để hoàn thành chương 1: Những lý luận chung về du lịch cộng đồng.
4. Những đóng góp chủ yếu
Điều tra, khảo sát đánh giá về tài nguyên du lịch, những nét đặc sắc trong văn hoá truyền thống của địa phương.
Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng nhằm bảo tồn và nâng cao các giá trị về văn hoá, môi trường, nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng, thu hút khách.
5. Kết cấu của khoá luận Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, nội dung chính cùa khoá luận được trình bày trong ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch cộng đồng
- Chương 2: Tài nguyên và hoạt động du lịch tại làng Nghẹt
- Chương 3: Xây dựng mô hình du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt, xã Phú Thịnh, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
1.1. Cộng đồng địa phương
Cộng đồng là một khái niệm xuất hiện vào những năm 40 tại các nước thuộc địa của Anh. Trước hết quan điểm về cộng đồng đề cập đến các yếu tố con người với phạm vị địa lý, mối quan hệ và mục đích chung trong phát triển và bảo tồn cộng đồng đó.
Theo Keith và Ary. 1998 thì “Cộng đồng là một nhóm người, thường sinh sống trên cùng một khu vực địa lý, tự xác định mình về cùng một nhóm. Những người trong cùng một cộng đồng thường có quan hệ huyết thống hay hôn nhân, và có thể thuộc cùng một nhóm tôn giáo, một tầng lớp chính trị” (12)
Theo J. H. Pichter: “Cộng đồng là một tập thể người nhất định trên một lãnh thổ nhất định, được hình thành bởi các yếu tố lãnh thổ, kinh tế và văn hoá trong đó bao gồm bốn yếu tố:
- Tương quan cá nhân mật thiết với những người khác, tương quan này đôi khi được gọi là tương quan đệ nhất đẳng, tương quan mặt đối mặt, tương quan thân mật.
- Có sự liên hệ về tình cảm và cảm xúc nơi cá nhân trong những nhiệm vụ và công tác xã hội của tập thể.
- Có sự hiến dâng tinh thần hoặc dấn thân đối với những giá trị được tập thể coi là cao cả và có ý nghĩa.
- Một ý thức đoàn kết với những người trong tập thể.
Theo Schmink (1999) cộng đồng được hiểu: “Cộng đồng là tập hợp các nhóm người có chung địa bàn cư trú và có quyền sử dụng các tài nguyên của địa phương”.(8)
Có thể nói, cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch là tập thể người cùng sống trong một khu vực địa lý hoặc một đơn vị hành chính, có chung các lợi ích, các điều kiện tồn tại, có quyền tham gia và làm chủ các hoạt động du lịch trên địa bàn sinh sống của họ. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
1.2. Mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương và hoạt động du lịch.
Du lịch ngày nay không chỉ là một ngành kinh tế mà có yếu tố xã hội rất cao. Trước hết du lịch thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch. Tiếp đó, nó còn giải quyết việc làm, góp phần tăng thu nhập cho người lao động, tăng ngân sách cho địa phương và từng quốc gia; du lịch đồng thời là một ngành có tính đa lĩnh vực, liên ngành, liên lãnh thổ, có sự tham gia của nhiều tổ chức xã hội, các cộng đồng dân cư. Du lịch ở một số nước cũng cho thấy dân cư đóng góp một phần không nhỏ vào việc phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, bảo vệ tài nguyên môi trường, góp phần thu hút khách du lịch. Hay nói cách khác cộng đồng vừa là đối tượng vừa là chủ thể phát triển du lịch tại vùng và quốc gia.
Trong một số loại hình du lịch bắt buộc có cộng đồng tham gia như du lịch sinh thái, du lịch làng bản, du lịch homestay…phải diễn ra ở những nơi có tài nguyên hoang dã, còn nguyên trạng đã thu hút được nhiều khách du lịch đến tham quan. Nhưng tại những nơi này giao thông không thuận lợi nên rất khó khăn cho các hoạt động cung cấp các dịch vụ của công ty du lịch. Vì vậy khách du lịch và các nhà kinh doanh thường dựa vào cộng đồng cư dân tại các làng, bản…Hơn nữa, cộng đồng nơi đây cũng có các phong tục tập quán, lễ hội, lối sống, kiến trúc nhà ở, khí hậu, phong cảnh…trở thành tài nguyên du lịch cung cấp cho khách du lịch tìm hiểu, thưởng thức.
Bên cạnh đó, cộng đồng dân cư tại đây cũng có nhiều khó khăn trong đời sống, không có việc làm, thu nhập thấp, trình độ dân trí và văn hóa không cao. Nếu du lịch phát triển sẽ đem lại cơ hội việc làm cho cư dân của các cộng đồng có liên quan trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật và cở sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt.
Từ đó có thể thấy, không gian du lịch và không gian kinh tế, văn hoá, xã hội của cộng đồng địa phương không tách biệt mà có mối quan hệ tác động qua lại. Nếu biết vận dụng, khai thác, quản lý tốt, hợp lý sẽ là nguồn lực quan trọng có tác động tích cực, không chỉ giúp phát triển du lịch mà còn là động lực phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần xoá đói, giảm nghèo bằng cách tổ chức cho cộng đồng địa phương tham gia vào hoạt động du lịch.
Một trong những lý do đòi hỏi cần phát triển du lịch tại các vùng này trở thành lợi thế nữa là: Đây là những khu vực cần có sự bảo tồn đa dạng hệ sinh thái, tài nguyên, cảnh quan, môi trường. Trong khi điều kiện của địa phương còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nên cộng đồng địa phương phải dựa vào điều kiện tự nhiên để kiếm kế sinh nhai như săn bắn động vật hoang dã, chặt cây đốn củi để bán, đốt… diễn ra hàng ngày qua nhiều thế hệ với mục đích đảm bảo sự sinh tồn đã ảnh hưởng nhất định đến môi trường, môi sinh, tài nguyên ngày càng mai một. Tại đây chỉ có phát triển du lịch mới nâng cao nhận thức, mở mang kiến thức hiểu biết cho cộng đồng trong việc cần thiết phải bảo vệ tài nguyên môi trường là con đường duy nhất đảm bảo cho cuộc sống lâu dài và duy trì phát triển các thế hệ tương lai của họ. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Tuy nhiên sự phát triển du lịch cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực cho điểm đến như cảnh quan bị phá hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, ô nhiễm không khí, nguồn nước… Do nhiều nguyên nhân mà những người dân địa phương mất đi quyền lợi về kinh tế, văn hoá, xã hội từ sự phát triển du lịch nếu không có chiến lược tăng cường sự tham gia của người dân vào các hoạt động du lịch để họ thấy được sự phát triển này có đem lại lợi ích cho chính họ. Đồng thời, nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc ngăn ngừa, giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường.
Như vậy sự tham gia của cộng đồng chính là một đối tác của ngành du lịch cũng là một yêu cầu phát triển mới nhằm đảm bảo những cân bằng về lợi ích giữa các bên tham gia: Nhà nước – doanh nghiệp du lịch – cộng đồng – du khách hướng tới một sự phát triển bền vững. Điều này nhằm huy động mọi nguồn lực sẵn có cho phát triển du lịch, góp phần vào quá trình gìn giữ bản tính đa dạng văn hoá của mỗi cộng đồng.
1.3. Du lịch cộng đồng
1.3.1. Khái niệm
“Du lịch cộng đồng” hay “du lịch dựa vào cộng đồng” đang được biết đến như là một nguyên tắc của phát triển du lịch bền vững, cộng đồng địa phương là người trực tiếp khai thác và bảo vệ tài nguyên và cũng là người quản lý hợp pháp các nguồn tài nguyên đó. Trong khi các tài nguyên khác thì quản lý có tính tập trung cao hoặc không có sự tham gia của cộng đồng địa phương mà phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên.
Có nhiều khái niệm được đưa ra cho thuật ngữ “Du lịch cộng đồng”:
Theo Rest – Thailand (1997): “Du lịch cộng đồng là phương thức tổ chức du lịch đề cao sự bền vững về môi trường và văn hoá xã hội. Du lịch cộng đồng do cộng đồng sở hữu và quản lý, vì cộng đồng và cho phép du khách nâng cao nhận thức và học hỏi về cộng đồng, về cuộc sống đời thường của họ”.(8)
Theo Tổ chức Quỹ bảo tồn Thiên nhiên Thế giới WWF: “Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch mà ở đó cộng đồng địa phương có sự kiểm soát và tham gia chủ yếu vào sự phát triển và quản lý hoạt động du lịch đó và phần lớn lợi nhuận thu được từ hoạt động du lịch được giữ cho cộng đồng”. (8) Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Nhà nghiên cứu Nicole Hausle và Wolffang Strasdas đưa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là một hình thái du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương.”(12)
Viện Nghiên cứu phát triển Miền Núi đưa ra khái niệm: “Du lịch cộng đồng là nhằm bảo tồn tài nguyên du lịch tại điểm du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững dài hạn. Du lịch cộng đồng khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng”. (12; 46)
Tổ chức Bảo vệ thiên nhiên hoang dã đưa ra khái mối quan hệ nguồn tài nguyên và hoạt động của du lịch, cộng đồng trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng là:
Hình 1.1. Sơ đồ về mối quan hệ giữa tài nguyên và hoạt động của du lịch, cộng đồng trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng
Mô hình trên cho thấy mối quan hệ giữa nguồn tài nguyên và hành động của cộng đồng có ý nghĩa rất lớn trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng: Có tài nguyên du lịch là đối tượng thu hút khách du lịch tạo thu nhập cho cộng đồng và khuyến khích họ tham gia các dịch vụ cung cấp phục vụ khách du lịch, đồng thời, cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động bảo tồn, bảo vệ tài nguyên môi trường và ngược lại tài nguyên môi trường tốt sẽ hấp dẫn khách du lịch tới tham quan. Nói khác, đây là vòng tuần hoàn trong phát triển du lịch dựa vào cộng đồng.
Nếu như du lịch sinh thái nhấn mạnh đến tính giáo dục, đến diễn giải môi trường và không nhất thiết có sự tham gia của cộng đồng thì trong du lịch cộng đồng yếu tố cộng đồng là nét đặc trưng.
Từ các khái niệm du lịch cộng đồng có thể rút ra khái niệm chung về du lịch cộng đồng như sau: “Du lịch dựa vào cộng đồng là phương thức phát triển du lịch trong đó cộng đồng dân cư tổ chức cung cấp các dịch vụ để phát triển du lịch đồng thời tham gia bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường, đồng thời cộng đồng được hưởng quyền lợi về vật chất và tinh thần từ phát triển du lịch và bảo tồn tự nhiên”.(12; 51)
1.3.2. Đặc điểm và nguyên tắc của du lịch cộng đồng Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
1.3.2.1. Đặc điểm của du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng có những đặc điểm chính sau:
Du lịch cộng đồng là phương thức kinh doanh du lịch mà cộng đồng dân cư là người cung cấp chính các sản phẩm dịch vụ cho khách du lịch, họ giữ vai trò chủ đạo phát triển và duy trì các dịch vụ.
Địa điểm tổ chức phát triển du lịch cộng đồng phải là những khu vực hoặc điểm tài nguyên thiên nhiên hoang dã và nhân văn phong phú có sức hấp dẫn thu hút khách du lịch, có độ nhạy cảm cao về đa dạng sinh học, chính trị, văn hoá và xã hội rất lớn và hiện đang bị tác động bởi con người.
Cộng đồng dân cư là người có trách nhiệm trực tiếp tham gia bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường nhằm hạn chế, giảm thiểu tác động bởi khách du lịch và khai thác của chính bản thân cộng đồng dân cư.
Dựa vào cộng đồng bao gồm các yếu tố giao quyền cho cộng đồng, cộng đồng được tham gia khuyến khích và đảm nhận các hoạt động du lịch và bảo tồn tài nguyên môi trường.
Phát triển du lịch cộng đồng đồng nghĩa với sự đảm bảo công bằng trong việc chia sẻ nguồn thu nhập du lịch cho cộng đồng giữa các bên tham gia.
Do đặc điểm tài nguyên, điều kiện cộng đồng nên cần xét đến các yếu tố giúp đỡ, tạo điều kiện cho các bên tham gia trong đó có vai trò của các tổ chức chính phủ, phi chính phủ trong và ngoài nước, nhưng không phải làm thay cộng đồng.
1.3.2.2. Các nguyên tắc của du lịch cộng đồng Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Có sự đồng thuận của cộng đồng địa phương và các bên tham gia (bao gồm chính quyền và cơ quan quản lý khác, các doanh nghiệp du lịch, các nhà nghiên cứu, các tổ chức phi lợi nhuận và chính cộng đồng);
- Cộng đồng được tham gia thảo luận từ việc lập kế hoạch, quy hoạch, thực hiện, quản lý và đầu tư để phát triển du lịch trong một số trường hợp có thể trao quyền làm chủ cho cộng đồng;
- Phù hợp với khả năng nhận thức của cộng đồng bao gồm nhận thức trong việc sử dụng tài nguyên, nhận thức được tiềm năng to lớn của du lịch cho sự phát triển của cộng đồng cũng như những bất lợi từ du lịch…
- Chia sẻ lợi ích từ du lịch cho cộng đồng đảm bảo nguồn thu từ du lịch được phân chia công bằng cho mọi thành viên tham gia hoạt động, một phần dành cho tái đầu tư cho cộng đồng như: cơ sơ hạ tầng, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục…
- Xác lập quyền sở hữu và tham dự của cộng đồng đối với tài nguyên thiên nhiên và văn hoá hướng tới sự phát triển bền vững.
1.3.3. Các bên tham gia du lịch cộng đồng
Cộng đồng địa phương là nhân tố quan trọng hàng đầu. Hoạt động du lịch cộng đồng hướng tới và nhấn mạnh yếu tố cộng đồng. Cộng đồng là tài nguyên, là mục đích, vừa là yếu tố đầu ra và đầu vào cho hoạt động du lịch. Cộng đồng dân cư có các yếu tố thu hút khách du lịch như bản sắc văn hoá, tôn giáo, phương thức sinh sống và môi trường sống của họ. Đây được gọi là tài nguyên du lịch. Bên cạnh đó cộng đồng còn là người tham gia phục vụ du khách trong quá trình tham quan du lịch tại điểm đến, tham gia vào mọi hoạt động để làm chủ và thu lợi từ du lịch tại địa phương.
Chính quyền địa phương là người đại diện cho cộng đồng, là người lãnh đạo, có vai trò tăng cường sức mạnh đoàn kết tập thể cộng đồng để tạo nên sự thống nhất cho mọi hoạt động của cộng đồng. Chính quyền còn là người đại diện bảo vệ cộng đồng, là chiếc cầu nối giữa cộng đồng với thế giới bên ngoài.
Các tổ chức tài trợ, các tổ chức thuộc chính phủ và phi chính phủ là nhân tố hỗ trợ cộng đồng về tài chính, vốn kĩ thuật, kinh nghiệm và chính sách để xây dựng mô hình du lịch cộng đồng. Các tổ chức này được coi là người chỉ lối, dẫn đường giúp cộng đồng thực hiện mục tiêu phát triển trong giai đoạn đầu của kế hoạch. Sau một thời gian họ sẽ trao lại quyền quản lý cho cộng đồng. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành, dịch vụ là chiếc cầu nối giữa du khách và cộng đồng và đảm bảo cho chất lượng sản phẩm du lịch. Họ có thể sử dụng lao động là người địa phương góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho dân cư. Bên cạnh đó họ còn thúc đẩy việc chia sẻ lợi ích cho cộng đồng bằng cách đóng thuế hoặc một loại phí nào đó cho cộng đồng.
Sự kết hợp của các nhân tố này sẽ tạo ra một sự đồng bộ và hiệu quả cao cho hoạt động du lịch.
1.3.4. Các loại hình du lịch có sự tham gia của cộng đồng
1.3.4.1. Du lịch sinh thái
Cho đến nay, có nhiều khái niệm định nghĩa khác nhau về du lịch sinh thái. Trước hết cần tìm hiểu thế nào là “sinh thái” ? “Sinh thái” có hàm ý chỉ mối quan hệ tương tác hài hoà giữa thiên nhiên và con người.(16)
Theo hiệp hội Du lịch sinh thái Thế giới: “Du lịch sinh thái là việc đi lại có trách nhiệm tới các khu vực thiên nhiên mà bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương”. (2)
Theo Luật du lịch 2005: “Du lịch sinh thái là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. (13; 12)
Trong Chương trình Du lịch sinh thái của IUCN năm 1992 tác giả Hector Ceballos có nói: “Du lịch sinh thái là dạng tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường ở những khu vực tự nhiên ít bị biến đổi, với mục đích hưởng thụ và trân trọng tự nhiên (và những giá trị văn hoá kèm theo – trong quá khứ lẫn hiện tại), góp phần hỗ trợ bảo tồn, gây ít tác động từ du khách, và cung cấp lợi ích về kinh tế – xã hội chủ động cho dân địa phương”.(5)
Du lịch sinh thái diễn ra ở những khu, điểm du lịch có tài nguyên hoang sơ nhạy cảm, những nơi có nét văn hoá bản địa đặc sắc. Ngày nay, xu hướng của du lịch thế giới đó là con người muốn về với thiên nhiên, được hoà mình vào thiên nhiên, tìm hiểu bản sắc văn hoá cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên.
Du lịch sinh thái đáp ứng được mong muốn đó của du khách. Du lịch sinh thái có hai nguyên tắc nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng:
- Lấy cộng đồng làm trung tâm Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Cộng đồng địa phương có vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định về các hoạt động du lịch tại địa bàn mà họ sinh sống thông qua cơ cấu tổ chức riêng của họ.
Phải đảm bảo lợi ích của cộng đồng;
Tập trung vào những sáng kiến của cộng đồng và lôi kéo sự tham gia tích cực của cộng đồng. Cộng đồng là chủ nhân của các vùng đất đó, họ hiểu về vùng đất của mình hơn ai hết, có đủ niềm tự hào và tình yêu để bảo vệ nó.
Hỗ trợ, nâng cao năng lực của cộng đồng trong quá trình quản lý phát triển du lịch.
- Phát triển kinh tế của địa phương
Đảm bảo nguồn thu từ du lịch được sử đụng để nâng cao đời sống cho cộng đồng địa phương, y tế, giáo dục và văn hoá.
Hỗ trợ phát triển cộng đồng với sự quản lý của doanh nghiệp và các quỹ phát triển.
Thúc đẩy, mở rộng các hoạt động kinh tế khác như nông nghiệp và sản xuất thủ công mĩ nghệ.
Có thể nói, lợi ích của cộng đồng vừa là nguyên tắc vừa là mục đích hướng tới của du lịch sinh thái, góp phần giữ gìn tài nguyên cho các thế hệ mai sau.
1.3.4.2. Du lịch văn hoá
“Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống”.(Khoản 1, điều 4, Chương I – Luật du lịch Việt Nam 2005).(13)
Du lịch văn hoá là một sản phẩm du lịch sử dụng những giá trị văn hoá đậm đà bản sắc của địa phương. Cộng đồng địa phương là người sản sinh, bảo tồn các giá trị văn hoá của địa phương. Vì vậy, việc tổ chức phát triển du lịch phải dựa vào cộng đồng địa phương để bảo tồn nuôi dưỡng những giá trị văn hoá, tôn trọng nguyện vọng, phong tục tập quán của cộng đồng và chia sẻ lợi ích từ hoạt động du lịch với cộng đồng.
Do đó để phát triển du lịch văn hoá bền vững, cộng đồng địa phương phải là người kiểm soát và quản lý hoạt động phát triển du lịch văn hoá. Như vậy mới có thể giữ gìn bản sắc văn hoá độc đáo của chính họ.
1.3.4.3. Du lịch Homestay Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Du lịch Homestay là loại hình du lịch mà kích thích sự tương tác lẫn nhau giữa gia đình và khách du lịch. Homestay có thể hoạt động như một công cụ phát triển để tăng nhận thức về tính sạch sẽ và vệ sinh trong cộng đồng, điểm đến. Loại hình du lịch này không cần đầu tư những thiết bị cầu kỳ, sang trọng. Chủ nhà chỉ cần chuẩn bị cho khách những đồ dùng thiết yếu như chăn màn và một số phương tiện sinh hoạt thiết yếu cho khách du lịch như một người khách ở xa tới chơi. Đây là loại hình du lịch mà khách du lịch mà du khách được tham gia vào đời sống sinh hoạt của người dân, tìm hiểu nếp sống, phong tục tập quán, học hỏi những giá trị từ dân cư địa phương.
Sự thành công của loại hình du lịch này phụ thuộc vào mức độ nhiệt tình, niềm nở, mến khách, sự hoà hợp giữa chủ nhà và khách. Do đó trước khi thực hiện hoạt động này người dân phải được tập huấn về những kỹ năng nghề nghiệp của mình.
Như vậy trong loại hình du lịch này người dân đóng vai trò chủ đạo, tự phục vụ khách. Chính quyền địa phương chỉ có chức năng hỗ trợ.
1.3.4.4. Du lịch làng bản
Du lịch làng bản được hiểu đơn giản là du khách tìm đến những bản làng xa xôi, nơi vẫn giữ được những nếp sinh hoạt truyền thống vốn có. Những hoạt động chính của loại hình du lịch này là tìm hiểu thiên nhiên, môi trường, phong tục tập quán, tìm hiểu lịch sử của bản làng…
Du khách đặc biệt là khách nước ngoài thích đi du lịch tới những bản, làng xa xôi, nơi có đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống là vì cảnh quan ở đây còn hoang sơ, những phong tục tập quán của đồng bào còn được lưu truyền, chưa mai một trong cuộc sống đương đại. Kinh nghiệm ở một số nơi như Sa Pa (Lào Cai), bản Lác, Giang Mỗ (Hoà Bình), khách du lịch nước ngoài thường thích đi bộ vào những bản làng vùng sâu, vùng xa, sống và sinh hoạt cùng người dân.
1.3.5. Vai trò của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Để phát triển kinh tế xã hội nói chung và từng ngành kinh tế nói riêng thì phải dựa vào nguồn tài nguyên là điều tất yếu. Việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên sẽ gây ra những tác động tiêu cực đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung và du lịch nói riêng. Vì thế, để đạt được sự phát triển bền vững, thì ngành du lịch phải đảm bảo lợi ích của người dân địa phương. Chính người dân bản địa mới thực sự là chủ nhân của những vùng đất, những phong tục, tập quán, tín ngưỡng, là người bảo vệ và tôn tạo, giữ gìn các giá trị tự nhiên và văn hoá bản địa tại nơi diễn ra hoạt động du lịch.
Du lịch trên thế giới đã chứng minh được cộng đồng địa phương góp phần không nhỏ vào việc phát triển các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch, bảo vệ tài nguyên và môi trường, góp phần thu hút khách. Hơn nữa, cộng đồng lại là nơi có phong tục tập quán, các lễ hội, lối sống, kiến trúc nhà ở, các ngành nghề thủ công truyền thống…đều là nguồn tài nguyên quan trọng phục vụ cho phát triển du lịch cộng đồng. Có thể nói, cộng đồng là một thành tố của tài nguyên du lịch.
Đối với cộng đồng địa phương, họ quen với cuộc sống dân dã, với lối mộc mạc vốn có và hầu như không biết gì về du lịch. Khi bước vào ngành du lịch họ lại trở thành một thành phần quan trọng của du lịch cộng đồng. Bên cạnh đó những suy nghĩ, ý tưởng của họ có thể gợi ý cho những người làm du lịch những kế hoạch hay. Người dân địa phương có thể cùng với các nhà nghiên cứu du lịch hoạch định để có những giải pháp hợp lý, hiệu quả, vì quyền lợi chung của cả cộng đồng.
Việc huy động tối đa sự tham gia của cộng đồng địa phương vào hoạt động du lịch như làm hướng dẫn viên, vận chuyển, cho thuê nhà để ở, nấu ăn cho khách, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, bán hàng lưu niệm…sẽ tạo việc làm, giúp họ tăng thu nhập, cải thiện đời sống sẽ làm cho họ có trách nhiệm hơn với tài nguyên, môi trường du lịch. Sự tham gia tích cực của cộng đồng sẽ làm phong phú thêm tài nguyên và sản phẩm du lịch. Đặc biệt khi được tham gia chỉ đạo phát triển du lịch, trực tiếp đưa ra ý kiến trong quá trình ra quyết định, cộng đồng địa phương sẽ tạo được những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho du lịch bởi vì họ là chủ nhân và là người có trách nhiệm chính với tài nguyên vả môi trường khu vực.
Để người dân nhận thấy lợi ích của việc bảo vệ tài nguyên, dễ dàng quy trách nhiệm với mỗi thành viên thì phải nâng cao hơn nữa vai trò sở hữu tài nguyên du lịch, tài sản của họ để người dân ý thức hơn với hành động của mình. Vai trò sở hữu cộng đồng như là một nhân tố quan trọng góp phần vào phát triển cộng đồng
Thực tế, hoạt động du lịch có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân địa phương, không chỉ là lợi ích kinh tế mà còn tác động đến lối sống, bản sắc, phong tục. Chính điều này đã làm nảy sinh những thái độ khác nhau của người dân với khách
Hình 1.2. Sự thay đổi thái độ của người dân với khách du lịch Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Mối quan hệ đó có khi là sự giao lưu giữa các nền văn hoá khác nhau có khi lại là những mâu thuẫn trái ngược mọi trạng thái, mâu thuẫn đó đều xuất phát từ lợi ích của người dân. Việc dung hoà những mâu thuẫn đó được xem như là điều không tưởng, có thể kéo theo hàng loạt những phản ứng tâm lý phức tạp của cư dân địa phương với khách du lịch mà người làm du lịch phải lường trước. Như vậy tâm lý người dân có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động du lịch như là sự hài lòng của khách, số lượng khách quay trở lại…Để người dân có trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch thì cần phải mang lại lợi ích cho họ một cách rõ ràng, thực chất và công bằng, tạo cho họ một vị thế làm chủ thực sự.
Cộng đồng địa phương là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của hoạt động du lịch tao nên sự ổn định về chính trị, xã hội
1.3.6. Những tác động của hoạt động du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng có tác động tới nhiều lĩnh vực ở cả hai khía cạnh là tích cực và tiêu cực
- Tích cực
Về kinh tế
Giúp cộng đồng có những khoản thu nhập từ sự chi tiêu của du khách
Đa dạng hoá và ổn định nền kinh tế địa phương;
Đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương nhất là ở những vùng còn nhiều khó khăn;
Thu hút sự đầu tư từ các tổ chức và doanh nghiệp ở tất cả các lĩnh vực.
- Chính trị Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Cho phép sự tham gia của cộng đồng địa phương trong việc lập kế hoạch và triển khai dự án du lịch;
Tăng quyền lực cho cộng đồng;
Đảm bảo quyền làm chủ của cộng đồng trong quản lý tài nguyên;
- Về văn hoá, xã hội:
Giúp cải thiện chất lượng dịch vụ, sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kĩ thuật và cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch;
Làm tăng tự hào của người dân về văn hoá địa phương;
Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống, các loại hình biểu diễn nghệ thuật và văn hoá
Tăng cường trao đổi văn hóa, nâng cao nhận thức, giao lưu học hỏi từ những nền văn hoá khác tạo sư tôn trọng với văn hoá bản địa.
Tạo sự bình đẳng trong cộng đồng.
- Về môi trường
Khuyến khích bảo tồn và bảo vệ nguồn tài nguyên lịch sử, văn hoá và tự nhiên.
Giúp cải thiện diện mạo của địa phương.
Giúp phục hồi các công trình kiến trúc.
- Tiêu cực
Về kinh tế
Đòi hỏi vai trò lãnh đạo kiểm soát với chi phí vận hành cao.
Lợi nhuận có thể không được chia công bằng cho cộng đồng mà chỉ làm lợi cho một số người.
Gia tăng tình trạng lạm phát nhà đất, hàng hoá, dịch vụ.
Chi phí tốn kém cho việc tập huấn, đào tạo cán bộ.
Du lịch có thể bị ảnh hưởng bởi tính mùa vụ cao do đó nằm ngoài tầm kiểm soát của địa phương.
- Về văn hoá xã hội: Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Khách du lịch đến từ nhiều nơi khác nhau nên có thể có lối sống, quan niệm xung đột với dân cư địa phương;
Cư dân địa phương phải chia sẻ nguồn tài nguyên cho nhiều người ngoài địa phương;
Làm gia tăng các tệ nạn xã hội: tội phạm, nghiện hút, mại dâm, ma tuý…
Làm nảy sinh mối bất hoà trong cộng đồng giữa người được hưởng lợi và người không được hưởng lợi.
- Về môi trường
Sự xuất hiện của quá nhiều du khách đã làm suy giảm chất lượng tài nguyên thiên nhiên, lịch sử, văn hoá;
Gây ra hàng loạt ô nhiễm như ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, rác thải…
1.4. Một số bài học kinh nghiệm và mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam
1.4.1. Một số bài học từ phát triển du lịch cộng đồng (6)
Bài học 1: Vườn Quốc gia Cúc Phương với chủ trương phát triển du lịch cộng đồng ở bản Khanh. Mặc dù biết để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững thì phải có sự tham gia của cộng đồng địa phương. Thực tế điều này rất khó khăn do năng lực của các thành viên trong cộng đồng rất hạn chế. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Điều này chứng tỏ năng lực trong quy hoạch và xây dựng các dự án du lịch là rất quan trọng.
Bài học 2: Du khách muốn đến bản Pác ngòi nằm liền kề với hồ Ba Bể trước đây sẽ được đi thuyền độc mộc dọc theo hồ và đi bộ thăm các bản của người Tày. Các chương trình thăm quan trên đã thu hút khách du lịch đáng kể và được du khách đánh giá cao nét đặc trưng văn hoá này. Do chủ trương phát triển dân sinh, họ cho xây dựng đường trải nhựa tới tận bản dẫn đến hiện tượng xói mòn, lở đất, lòng hồ bị đục ảnh hưởng tới môi trường cảnh quan quanh hồ. Bài học rút ra là các sáng kiến phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng đồng trước hết phải được nghiên cứu hoạch định kĩ càng, hợp lý.
Bài học 3: Lash (TIES, 1998) kể một câu chuyện rằng trong một ngôi làng ở Braxin có một gia đình có bí quyết làm bánh mì và các loại bánh từ bột sắn. Du khách tới gia đình này rất đông và rất thích thú khi được biết thêm một bí quyết làm bánh đặc biệt hấp dẫn và lạ lẫm. Vào mùa du lịch hướng dẫn viên tiếp tục dẫn khách nhưng khách thấy họ vẫn giữ bí quyết làm bánh từ bột sắn nhưng họ đã thay vì lao động thủ công thì họ đã sử dụng máy trộn, máy ép bột mì, máy nướng bánh…để cho công việc của họ đỡ vất vả hơn. Khách du lịch không còn thấy hứng thú vì họ không còn thấy sự khác biệt từ gia đình này nữa. Câu chuyện khẳng định một điều, bản sắc văn hoá là một yếu tố quan trọng, có sức hấp dẫn lớn thu hút khách du lịch. Bên cạnh đó việc tuyên truyền giáo dục cho cộng đồng cũng là một yếu tố quan trọng trong phát triển du lịch cộng đồng.
Bài học 4: Vườn Quốc gia Ba Bể được tài trợ của SNV (Tổ chức Phát triển của Hà Lan) về du lịch sinh thái. Họ đã tiến hành tổ chức đào tạo dân cư địa phương học nghề dệt thổ cẩm. Nhưng khi sự án hết thì hầu hết người dân đã bỏ nghề. Bài học quan trọng rút ra là, du lịch cộng đồng cần nhiều nỗ lực và thời gian mới có thể thành công được.
Bài học 5: Xem đom đóm ở Kustan – Selangor – Malayxia được khởi đầu vào những năm 1980. Việc đi xem đom đóm đã thu hút một số lượng khách đến đây và việc thuê thuyền bè cũng tăng lên theo. Tuy nhiên từ nguồn lợi nhuận to lớn này đã phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng. Vì lợi nhuận mang lại là rất lớn nên những người dân làng phụ cận và một số cư dân sống ven sông đã dùng thuyền gắn máy chở du khách tới khu vực bờ đê để xem đom đóm, làm ảnh hưởng tới môi trường sinh thái, vỡ đê, mọi nỗ lực của người dân trực tiếp sinh sống ở đây nhằm quản lý và bảo vệ rừng đước đã bị xâm phạm, ảnh hưởng tới hoạt động xem đom đóm. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
1.4.2. Một số mô hình du lịch cộng đồng tiêu biểu
*Mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Hway Hee – Thái Lan
Đặc điểm của bản liên quan đến phát triển du lịch dựa vào cộng đồng: Bản nằm trong một khuôn viên Vườn quốc gia Mã Hồng Sơn là một bản miền núi. Đây cũng là khu vực thuộc “tam giác vàng” phía bắc của Thái Lan. Dân cư ở đây là một trong 6 dân tộc thiểu số ở miền Bắc Thái Lan. Người dân ở đây sinh sống bằng nghề canh tác nương rẫy và khai thác sản phẩm từ rừng nên thu nhập nói chung là thấp, việc trao đổi buôn bán rất hạn chế do điều kiện đường sá đi lại khó khăn.
Sự cần thiết xây dựng mô hình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản: Do điều kiện đất đai, khí hậu khắc nghiệt, thu nhập chủ yếu dựa vào tài nguyên thiên nhiên, dẫn đến tài nguyên ngày càng cạn kiệt, các loài động thực vật ngày càng hiếm và ít đi. Tuy nhiên do sự phong phú về tài nguyên nên số lượng khách tới đây ngày càng đông. Họ đã phá vỡ đi sự yên tĩnh của khu rừng nguyên sinh này, tại đây chưa có một dịch vụ nào để đáp ứng nhu cầu của du khách mà để khách tự thoả mãn nhu cầu của mình dẫn đến tác động không nhỏ đến tài nguyên và sự du nhập cuộc sống của du khách đã ảnh hưởng đến lối sống bản địa, xâm nhập các tệ nạn xã hội. Vì thế, họ quyết định vận động nhân dân tham gia cung cấp dịch vụ cho khách thông qua chương trình phát triển du lịch cộng đồng. Mục đích là nâng cao điều kiện dân sinh, nâng cao hiểu biết và nhận thức về trách nhiệm của cộng đồng đối với bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
- Các hoạt động du lịch do cộng đồng tổ chức thực hiện:
Tổ chức các chương trình du lịch sinh thái như đi bộ xuyên rừng, chinh phục đỉnh Mã Hồng Sơn, tìm hiểu động thực vật, tham quan nơi nuôi trồng cây phong lan.
Tổ chức các chương trình du lịch văn hoá như tham quan tìm hiểu về cuộc sống của cộng đồng, tham quan tìm hiểu kiến trúc nhà sàn cổ, văn hoá tín ngưỡng, xem giao lưu văn nghệ.
Tổ chức du lịch mạo hiểm như leo núi, thám hiểm.
Tổ chức dịch vụ lưu trú tại nhà dân, cung cấp các phương tiện đi lại…
Kết quả: số lượng khách tăng và doanh thu từ du lịch cũng tăng mạnh.
Đồng thời việc chia sẻ lợi ích theo tỷ lệ quy định như sau: Người cung cấp dịch vụ được 80% thu nhập từ du lịch, đóng góp vào quỹ phát triển cộng đồng 5%, đóng góp vào ban quản lý du lịch làng 15%.
- Phát triển du lịch cộng đồng tại bản Lác – Mai Châu – Hoà Bình
Đặc điểm của bản Lác: là một bản miền núi thuộc huyện Mai Châu, cách thị xã Hoà Bình 60km, là người Thái Trắng. Bản Lác là một bản có nền văn hoá dân tộc phát triển lâu đời và đến nay còn lưu giữ được nhiều giá trị văn hoá đặc sắc. Đặc biệt là sự trật tự và lòng hiếu khách mang tính xã hội cao được tồn tại lâu đời trong xã hội người Thái. Họ sống ngăn nắp, trật tự từ việc nhỏ tới việc lớn. Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Toàn bản có 93 hộ gia đình thì chỉ có 24 hộ tham gia vào các dịch vụ du lịch như thuê nhà trọ, biểu diễn văn nghệ, tổ chức cho khách đi tham quan các hoạt động sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, tổ chức cho khách đi tham quan các hoạt động sản xuất và tham quan kiến trúc nhà trong bản.
Kết quả từ mô hình du lịch cộng đồng: Hàng năm bản có khoảng 3000 khách du lịch đến tham quan để chiêm ngưỡng, tìm hiểu những nét văn hoá đặc sắc của dân tộc Thái. Các hộ kinh doanh du lịch trong bản cuối năm đóng góp 10% thu nhập của mình cho chính quyền huyện. 90% còn lại thì các hộ gia đình có thể tiêu dùng hoặc nâng cấp nhà cửa.
Một số hạn chế: người dân phải phụ thuộc vào công ty lữ hành, thiếu sự hướng dẫn của chính quyền địa phương, vấn đề bảo tồn, bảo vệ tài nguyên và bản sắc văn hoá dân tộc chưa được quan tâm thường xuyên…
Có thể nói hoạt động du lịch ở đây đã có sự tham gia cung cấp dịch vụ phục vụ khách du lịch nhưng mang tính tự phát của cộng đồng, cần phải xây dựng các tiêu chí cụ thể để đảm bảo lợi ích của các bên tham gia.
- Mô hình du lịch tại Sín Chải – Sa Pa – Lào Cai
Đặc điểm: Bản cách thị trấn Sa Pa 4km, phần lớn nằm ở địa phận Vườn Quốc gia Hoàng Liên với những dãy rừng nguyên thuỷ bạt ngàn với hệ sinh thái đa dạng, quý hiếm. Dân tộc H’mông sinh sống ở đây có một truyền thống văn hoá đặc sắc như có phong tục tập quán, tín ngưỡng riêng tồn tại hàng ngàn năm, một kho tàng về các điệu múa, các bài hát tiếng dân tộc, hàng thủ công mỹ nghệ…Nhưng đời sống của họ vô cùng khó khăn.
Tổ chức phát triển Hà Lan (SNV) đã xây dựng một chương trình phát triển du lịch dựa vào cộng đồng tại bản Sín Chải trong khuôn khổ của dự án: “Tăng cường năng lực cho các sáng kiến về du lịch bền vững”. Mục tiêu là thúc đẩy cộng đồng tham gia hoạt động du lịch nhằm góp phần phát triển bền vững cộng đồng, bảo tồn được tài nguyên thiên nhiên và giá trị văn hoá cộng đồng. Chính vì thế mà mô hình du lịch tại bản Sín Chải còn được gọi là “Du lịch sinh thái cộng đồng”.
Các công việc mà người dân cung cấp cho du khách như cung cấp nhà trọ, ăn uống, hướng dẫn khách, tổ chức các chương trình du lịch, tổ chức tham quan làng bản, tìm hiểu về các phong tục tập quán và cuộc sống của cộng đồng dân tộc, trình diễn văn nghệ…
Kết quả: tăng thu nhập, nâng cao niềm tự hào của người dân trong bản về giá trị văn hoá của bản địa, nâng cao vai trò làm chủ của cộng đồng, bà con đã nhận thức được trách nhiệm với tài nguyên…
Tiểu kết chương 1 Khóa luận: Tổ chức mô hình du lịch cộng đồng của người Dao.
Chương 1 là cơ sỏ lý luận về vấn đề có liên quan tới đề tài đó là du lịch cộng đồng và cộng đồng địa phương. Đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để tiếp cận với du lịch cộng đồng trên cơ sở đó có thể xây dựng và phát triển du lịch cộng đồng tại làng Nghẹt.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: