Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại một số quốc gia châu Âu giai đoạn 2005 – 2010 đối với việc phát triển du lịch Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bước vào thiên niên kỉ mới, Việt Nam sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới đã đạt được. rất nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Từ một đất nước quanh năm thiếu ăn thì nay chúng ta đã trở thành quốc gia xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới, nhân dân trong nước có đời sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn; trẻ em cơ bản đã phổ cập thành công bậc tiểu học và tiến tới sẽ phổ cập bậc trung học cơ sở; từ chỗ ở thế đối đầu với nhiều quốc gia, Việt Nam đã chủ động hội nhập với khu vực và làm bạn với các quốc gia tiến bộ trên thế giới.
Có thể nói chưa bao giờ chúng ta lại có nhiều bạn bè như bây giờ. Đây là một cơ hội tốt cho sự phát triển của Việt Nam nhưng đồng thời cũng tạo ra những thách thức không nhỏ. Chủ trương của Việt Nam khi hội nhập quốc tế là “hòa nhập” chứ không “hòa tan” vì thế chúng ta phải biết giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của Việt Nam trong đời sống hàng ngày của nhân dân cũng như trên trường quốc tế. Việt Nam là một đất nước có bề dày lịch sử và truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc, nhưng để phát huy, giới thiệu những truyền thống văn hóa đó đến với bạn bè quốc tế thì bên cạnh việc thu hút khách quốc tế đến tham quan du lịch, chúng ta cũng cần phải thường xuyên chủ động tổ chức các hoạt động giới thiệu về văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Và những sự kiện như Ngày văn hóa, Đêm văn hóa, Tuần văn hóa, thậm chí là Năm văn hóa Việt Nam tại nước ngoài được tổ chức ngày càng nhiều những năm gần đây chính là để phục vụ cho mục tiêu ấy. Đây không chỉ là dịp để cho bạn bè trên thế giới tìm hiểu về đất nước, con người và truyền thống văn hóa của Việt Nam mà còn góp phần mở rộng mối quan hệ hợp tác đối ngoại của Việt Nam trên nhiều lĩnh vực với các nước bạn bè trên thế giới. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Không chỉ có vậy, thông qua Những ngày Văn hóa Việt Nam tại nước ngoài, du khách quốc tế đã được biết đến nhiều hơn, có một cái nhìn sâu sắc và chân thực hơn về hình ảnh một đất nước Việt Nam xinh đẹp, thân thiện hiếu khách, có bề dày truyền thống văn hóa đặc sắc… Từ đó họ bắt đầu nảy sinh nhu cầu được tìm đến với Việt Nam để được tận mắt kiểm chứng và chiêm nghiệm những giá trị văn hóa đó, qua đó góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam ngày càng phát triển. Chính vì vậy có thể khẳng định rằng, bên cạnh những ý nghĩa về mặt ngoại giao và chính trị, việc tổ chức những sự kiện Ngày Việt Nam tại nước ngoài đóng góp một phần không nhỏ vào hoạt động xúc tiến, quảng bá của ngành du lịch Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, kể từ khi ra đời cho đến nay, việc tổ chức những sự kiện này vẫn chưa hoàn toàn được quy chuẩn, đôi lúc còn mang tính chất tự phát, hay việc đầu tư đôi khi chưa được đúng mức, chưa xứng tầm, chưa truyền tải được hết những thông điệp về đất nước và con người Việt Nam… Xuất phát từ những lý do trên, người viết đã lựa chọn đề tài “Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại một số quốc gia châu Âu giai đoạn 2005 – 2010 đối với việc phát triển du lịch Việt Nam” cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình nhằm đem lại một cái nhìn khách quan, đầy đủ, và chính xác về hiệu quả của việc tổ chức những sự kiện văn hóa này trong những năm gần đây.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Trên cơ sở thống kê, phân tích những Ngày văn hóa, Tuần văn hóa Việt Nam được tổ chức tại nước ngoài, đặc biệt là tại một số quốc gia châu Âu tiêu biểu như Nga, Pháp, Đức, tiến tới đánh giá những ảnh hưởng tích cực, thành công và sức hút của sự kiện này đối với ngành du lịch Việt Nam nói riêng và chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung. Đồng thời, với tư cách một cá nhân, thống qua bài khóa luận, người viết cũng mong muốn đề xuất một số ý kiến nhằm giúp cho công tác tổ chức, quảng bá và nội dung của sự kiện này ngày một được tốt hơn, hiệu quả hơn.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Hiện nay, Việt Nam có quan hệ hợp tác hữu nghị với hàng trăm quốc gia trên toàn thế giới. Hàng năm chúng ta tổ chức rất nhiều sự kiện văn hóa ở các quốc gia này với sự phân bổ tương đối đồng đều trên phạm vi các châu lục, từ những nước láng giềng gần gũi trong khu vực châu Á, châu Úc đến những quốc gia xa xôi hơn ở châu Âu, châu Phi và cách đến nửa vòng trái đất như ở châu Mỹ… Trong số các châu lục kể trên, từ xưa đến nay châu Âu vẫn luôn được nhà nước ta xem là một đối tác chiến lược quan trọng và ngành du lịch Việt Nam cũng xem đây là một thị trường khách du lịch tiềm năng có nhu cầu du lịch và khả năng chi trả cao cần phải thu hút triệt để. Nhưng trong phạm vi hạn hẹp của một đề tài khóa luận, người viết không thể đề cập đến tất cả Những ngày Văn hóa Việt Nam đã được tổ chức tại các quốc gia châu Âu mà chỉ xin giới thiệu các hoạt động văn hóa của Việt Nam tại một số quốc gia tiêu biểu ở Châu Âu như Nga, Pháp, Đức và chỉ giới hạn trong phạm vi không gian từ năm 2005 – 2010. Lý do mà người viết lựa chọn 3 quốc gia này làm đối tượng nghiên cứu chính xin được đưa ra như sau: Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Ở châu Âu, có thể nói Cộng hòa liên bang Nga là quốc gia có quan hệ hợp tác hữu nghị thân thiết bậc nhất với Việt Nam. Mối quan hệ này chính thức bắt đầu từ khi Liên Xô cũ (tiền thân của Cộng hòa liên bang Nga ngày nay) công nhận Việt Nam là một nước độc lập tự do vào ngày 30 – 01 – 1950. Sáu mươi năm trước, sau tuyên bố của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sẵn sàng kiến lập quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới ngày 14-01-1950, vào ngày 30-1-1950, Liên Xô là một trong những nước đầu tiên trên thế giới công nhận và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đặt nền móng cho tình hữu nghị bền chặt và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa hai nước sau này. Thực tế đã chứng minh, 60 năm qua, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô trước đây và Liên bang Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian cũng như sự biến động của lịch sử. Ngay từ những ngày đầu lập nước, việc phát triển quan hệ với Liên Xô luôn là một trọng tâm hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Liên Xô là sự kiện trọng đại trong lịch sử của tình hữu nghị Việt – Xô và tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước đã không ngừng phát triển, và được củng cố trên tất cả các bình diện của đời sống kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội. Từ mối quan hệ chiến lược đó, nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai quốc gia đồng thời quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam một cách sâu rộng ở Nga, Việt Nam đã tổ chức nhiều sự kiện văn hóa Việt Nam ở Nga và bước đầu đã thu được những thành công nhất định. Khách du lịch Nga đến Việt Nam vẫn đang tăng lên theo từng năm, và nhân dân Nga cũng ngày càng hiểu biết nhiều hơn về đất nước và con người Việt Nam. (Nguồn baodatviet.)
Quốc gia thứ hai ở châu Âu có mối quan hệ lịch sử sâu sắc với Việt Nam đó là Cộng hòa Pháp. Khác biệt hẳn với Nga, mối quan hệ Việt Nam – Pháp được bắt đầu từ khá sớm và ban đầu hoàn toàn mang tính chất đối đầu. Pháp bắt đầu vào xâm lược nước ta từ năm 1858, từ đó trở đi nhân dân ta đã rơi vào cảnh lầm than khổ cực, bao nhiêu máu và nước mắt của người dân Việt Nam đã đổ xuống để đổi lấy hòa bình và độc lập cho dân tộc như ngày hôm nay. Tuy nhiên với mong muốn khép lại quá khứ để hướng tới tương lai, Việt Nam đã chủ động làm bạn với Pháp, chính thức từ 12-4-1973. Bỏ qua những hận thù và những hiểu nhầm trong quá khứ, Việt Nam và Pháp ngày càng có quan hệ ngoại giao tốt đẹp. Hiện nay, Pháp đã trở thành nhà tài trợ lớn thứ hai cho Việt Nam, sau Nhật Bản, Pháp cũng là nhà đầu tư số một của EU tại Việt Nam và hàng năm có rất nhiều du khách Pháp đến du lịch tại Việt Nam. Một trong những lý do khiến du khách Pháp đến với Việt Nam chính là mối quan hệ lịch sử đặc biệt trong quá khứ. Sau bao năm tháng chiến tranh và lập lại hòa bình thì dấu ấn của Pháp vẫn còn in đậm trên đất nước Việt Nam với những công trình do Pháp xây dựng, hay những công trình được xây dựng theo phong cách Pháp, văn hóa Việt Nam cũng bị ảnh hưởng ít nhiều bởi văn hóa Pháp… Do đó có thể khẳng định rằng giữa hai quốc gia có nhiều lý do để không ngừng củng cố mối quan hệ bang giao chính thức giữa hai nhà nước cũng như quan hệ hữu hảo thân thiện giữa nhân dân hai nước. Ngày càng có nhiều sự kiện văn hóa Việt Nam được tổ chức ở Pháp, đồng thời tại Việt Nam cũng đã diễn ra rất nhiều hoạt động văn hóa liên quan đến Pháp, đó là một trong những tiền đề và cơ sở vững chắc để thiết lập tình đoàn kết hữu nghị lâu dài giữa hai quốc gia. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Đất nước tiếp theo được đề cập đến trong bài viết này là Cộng hòa liên bang Đức. Mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đức được thiết lập muộn hơn so với Nga và Pháp (1975) và quan hệ trong quá khứ của Việt Nam với Đức so với hai nước trên cũng không sâu sắc bằng nhưng Đức là một trong những quốc gia lớn ở Châu Âu có nhiều tiềm năng để thu hút nên du lịch Việt Nam cũng xem đây là một thị trường mục tiêu. Hơn nữa, trong những năm qua, nhiều chuyến thăm cấp cao thường xuyên diễn ra giữa hai chính phủ đã tạo động lực quan trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển sâu rộng và hiệu quả giữa hai nước. Từ nhiều năm nay, Đức luôn là đối tác hàng đầu của Việt Nam trong Liên minh châu Âu (EU) trên nhiều lĩnh vực chính trị – ngoại giao, kinh tế – thương mại, đầu tư, văn hóa giáo dục và khoa học công nghệ. Hai nước đã ký kết nhiều hiệp định tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế, nghiên cứu khoa học; đào tạo sĩ quan, nghiên cứu sinh mỗi năm… Ngày càng nhiều tập đoàn kinh tế Đức đã và đang đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam và Đức luôn tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, có quan điểm tương đồng trong nhiều vấn đề quốc tế, cùng hợp tác và ủng hộ nhau tại các diễn đàn đa phương và quốc tế. Với mối quan hệ ngày càng được củng cố đó, Việt Nam và Đức đã tổ chức nhiều sự kiện văn hóa để tăng tình đoàn kết, hữu nghị hợp tác, cùng pháp triển, nâng cao mối quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa hai nước. Có thể nói rằng, các sự kiện văn hóa Việt Nam được tổ chức ở Đức và các sự kiện văn hóa Đức được tổ chức ở Việt Nam đã là cầu nối của mối quan hệ tốt đẹp này. Và năm nay, năm 2010 là năm kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Đức, sẽ diễn ra một sự kiện đặc biệt quan trọng, đó là “Năm Việt Nam tại Đức” và “Năm Đức tại Việt Nam”. Sự kiện này không chỉ tạo nên mối quan hệ tốt đẹp và bền vững giữa hai quốc gia mà tin rằng sẽ ngày càng có nhiều du khách Đức đến Việt Nam và ngược lại.
Về tên gọi của sự kiện “Ngày văn hóa Việt Nam” tại nước ngoài, trước khi có Quy chế tổ chức Ngày Việt Nam ở nước ngoài của Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ban hành ngày 2-4-2010 (Quyết định số 33-2010-QĐ-TTg) thì có thể nói rằng chưa có tên gọi thống nhất cho những sự kiện này. Ngay cả những văn bản pháp qui của nhà nước, việc sử dụng nhiều tên gọi khác nhau để chỉ chung một sự kiện văn hóa diễn ra tại cùng một quốc gia cũng là điều hết sức bình thường. Căn cứ vào thời gian tổ chức, nếu được tổ chức trong phạm vi một ngày, thường có các tên gọi như Ngày Việt Nam, Ngày Văn hóa Việt Nam hay thậm chí là Đêm Việt Nam, Đêm văn hóa Việt Nam. Nếu được tổ chức từ 3, 4 ngày trở lên, đôi khi kéo dài đến hai tuần thì các nhà tổ chức, các trang báo mạng, báo viết, truyền hình sẽ đưa tin về một Tuần văn hóa Việt Nam hay Tuần lễ văn hóa Việt Nam, Tuần Việt Nam… Nếu ở phạm vi kỉ niệm một sự kiện ngoại giao trọng đại giữa Việt Nam và một quốc gia nào đó (như kỉ niệm 35 thiết lập quan hệ ngoại giao Việt – Đức) thì sự kiện đó sẽ được nâng tầm thành Năm Việt Nam hay Năm văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy trong bài khóa luận này cũng sẽ sử dụng linh hoạt các thuật ngữ kể trên tùy theo phạm vi thời gian tổ chức của các sự kiện văn hóa này. Bên cạnh đó, khóa luận cũng đề cập đến một số Ngày văn hóa Việt Nam được tổ chức dưới dạng đặc biệt như Ngày Hà Nội ở Moscow, vì mặc dù tên gọi có khác nhưng mục đích và ý nghĩa tổ chức cũng như nội dung tổ chức của sự kiện này cũng không nằm ngoài khuôn khổ của Những ngày Văn hóa Việt Nam tại nước ngoài.
Về mặt thời gian nghiên cứu, theo tài liệu thống kê mà người viết tìm được, sự kiện Ngày Việt Nam ở nước ngoài mới chỉ xuất hiện khoảng những năm đầu của thế kỷ XXI và bắt đầu được tổ chức khá thường xuyên từ năm 2005. Chính vì vậy trong đề tài này người viết lựa chọn giai đoạn 2005 – 2010 là phạm vi nghiên cứu chính.
4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp sau:
Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu: Là phương pháp thu thập những thông tin, tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, tạp chí, Internet… sau đó tiến hành xử lý chúng để có được những kết luận cần thiết nhất phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. Do đây là một đề tài tương đối mới, ít có công trình nghiên cứu chuyên sâu nên trong bài viết này, người viết chủ yếu tiến hành thu thập và xử lý thông tin từ Internet.
Phương pháp thống kê, phân tích và so sánh: Đây là phương pháp không thể thiếu được trong quá trình nghiên cứu định lượng trong quan hệ chặt chẽ về mặt định tính của các hiện tượng và quá trình. Phương pháp thống kê được vận dụng để thống kê những sự kiện văn hóa Việt Nam diễn ra Nga, pháp, Đức giai đoạn 2005 – 2010. Sau đó, trên cơ sở thống kê sẽ tiến hành phân tích tác động của những sự kiện này đến sự phát triển của du lịch Việt Nam, cụ thể là xem xét lượng khách quốc tế đến Việt Nam cùng trong khoảng thời gian đó. Bên cạnh đó, đề tài sẽ tiến hành so sánh về nội dung, mục đích tổ chức cũng như hiệu quả tổ chức tại các quốc gia Nga, Pháp, Đức với một số quốc gia khác để đưa ra những đánh giá khách quan và chân thực nhất.
5. Bố cục của khóa luận
Trong khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về các quốc gia Nga, Pháp, Đức và mối quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Chương này sẽ đem lại một cái nhìn khái quát nhất về các quốc gia Nga, Pháp, Đức từ lịch sử hình thành đến thể chế chính trị, chính sách ngoại giao cũng như sự phát triển kinh tế – xã hội đồng thời giới thiệu về mối quan hệ hợp tác hữu nghị, những hiệp định song phương được kí kết giữa Việt Nam và các quốc gia kể trên.
Chương 2: Về Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga, Pháp, Đức giai đoạn 2005 – 2010. Chương này sẽ tập trung giới thiệu Những ngày Văn hóa Việt Nam đã được tổ chức tại 3 nước Nga, Pháp và Đức trong thời gian từ năm 2005 đến năm 2010 đồng thời đưa ra những nhận xét và đánh giá chung về vai trò của những sự kiên này đối với ngành du lịch Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức sự kiện Những ngày Văn hóa Việt Nam ở châu Âu góp phần phát triển du lịch Việt Nam. Trên cơ sở những kết quả có được từ chương 2, và dưới góc độ của một cá nhân, người viết sẽ đề xuất một số kiến nghị đóng góp vào nội dung cũng như cách thức tổ chức để sự kiện này ngày một hoàn thiện và hiệu quả hơn. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ CÁC QUỐC GIA NGA – PHÁP – ĐỨC VÀ MỐI QUAN HỆ NGOẠI GIAO VỚI VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về Liên bang Nga và quan hệ Việt – Nga
1.1.1. Thông tin cơ bản về Liên bang Nga
1.1.1.1. Giới thiệu chung
Liên bang Nga là nước có diện tích lớn nhất thế giới, trải dài trên hai lục địa Âu và Á với tổng diện tích là 17.075.400 km2. Theo số liệu thống kê năm 2007, dân số Nga là 142,2 triệu người, gồm trên 100 dân tộc, trong đó dân tộc Nga chiếm 81,5%; Tác-ta 3,8%, U-crai-na 3%. Ngoài ra còn gần 25 triệu người Nga sống ở các nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ và gần 2 triệu ở các nước khác trên thế giới.
- Ngày Quốc khánh: 12-6-1990 (Ngày Tuyên bố chủ quyền).
- Thủ đô: Mát-xcơ-va (gần 10 triệu dân).
- Đơn vị tiền tệ: đồng rúp
- Cơ cấu hành chính: Liên bang Nga chia làm 83 khu vực lãnh thổ, hành chính là chủ thể của Liên bang, gồm: 21 nước cộng hòa, 46 tỉnh, 01 tỉnh tự trị, 09 vùng, 4 khu tự trị, 02 thành phố trực thuộc TW: Moscow và Saint Peterbua.
Ngoài ra, nước Nga được chia thành 7 đại khu Liên bang do người được Tổng thống bổ nhiệm đứng đầu.
- Lãnh đạo chủ chốt hiện nay: Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
- Tổng thống: Đ. A. Mét-ve-đép (nhậm chức ngày 07-5-2008, nhiệm kỳ 4 năm).
- Thủ tướng Chính phủ: V. V. Pu-tin (được bổ nhiệm ngày 08-5-2008).
- Chủ tịch Hội đồng Liên bang: X. Mi-rô-nốp (được bầu lần thứ 2, tháng 3-2007, nhiệm kỳ 4 năm).
- Chủ tịch Duma Quốc gia: G. Gờ-rư-dơ-lốp (được bầu lần thứ 2, tháng 12-2007, nhiệm kỳ 4 năm).
1.1.1.2. Lịch sử
Nước Nga cổ đại – Nga Ki-ép (lấy tên của thủ đô Ki-ép lúc đó) xuất hiện vào thế kỷ thứ IX ở trên một phần lãnh thổ Nga ngày nay. Đến giữa thế kỷ XIII người Mông Cổ – Tácta xâm lược Nga và đến năm 1480 nhân dân Nga đã lật đổ sự thống trị của Mông Cổ – Tác Ta.
Năm 1613 bắt đầu triều đại Rô-ma-nốp. Năm 1721, Sa hoàng Pie Đại đế tuyên bố Nga trở thành Đế chế Nga. Trong hơn 300 năm của triều đại Rô-ma-nốp (1613 – 1917), nước Nga đã chinh phục được nhiều vùng lãnh thổ và chiến thắng quân xâm lược: năm 1654 sáp nhập U-crai-na, năm 1700 – 1721 chinh phục các nước vùng Ban tích, năm 1812 đánh thắng đại quân Na-pô-lê-ông của Pháp, thế kỷ XVIII – XIX chiếm Crưm, Cáp-ca-dơ, một phần Balan, Phần Lan, Trung Á. Năm 1861, Sa hoàng đã tiến hành cải cách xóa bỏ chế độ nông nô.
Chiến tranh Nga – Nhật năm 1905 và việc Nga tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ nhất năm 1914 đã làm suy yếu Đế chế và dẫn đến cách mạng tư sản năm 1905 – 1907 và cách mạng vô sản tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, làm sụp đổ Đế quốc Nga và đưa đến sự ra đời của Nhà nước Xô Viết, Nhà nước công – nông đầu tiên trên thế giới. Năm 1922, thành lập Liên bang Xô Viết gồm 15 nước cộng hòa. Năm 1945, Hồng quân Liên Xô đã chiến thắng phát xít Đức – Nhật trong cuộc chiến tranh vệ quốc thời kỳ thế chiến thứ 2.
Ngày 12-6-1990 nước Nga tuyên bố chủ quyền. Năm 1991, Bô-rít En-xin được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Nga. Ngày 8-12-1991, những người đứng đầu 3 nước Nga, U-crai-na, Bê-la-rút tại Be-lô-vê-giơ (Bê-la-rút) tuyên bố giải thể Liên Xô và thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG).
1.1.1.3. Chính trị – Đối ngoại
Về chính trị Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Từ năm 2000 đến 2008, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống V. Pu-tin đã dần dần đi vào ổn định, phục hồi và phát triển.
Tổng thống V. Pu-tin đã thi hành một loạt biện pháp nhằm ổn định tình hình, củng cố quyền lực của Trung ương, cải cách hệ thống chính trị, củng cố các định chế nhà nước, bảo đảm toàn vẹn lãnh thổ Nga: sửa đổi luật bầu cử, tăng cường tính đại diện, tính minh bạch trong các cơ quan dân cử, nâng cao vai trò và ảnh hưởng chính trị của Đảng thân chính quyền “Nước Nga thống nhất”, quản lý chặt hơn các tổ chức xã hội phi chính phủ, tăng vai trò của Nhà nước trong các ngành kinh tế chủ chốt, đặc biệt là dầu khí, xây dựng các chủ thể mạnh thông qua sáp nhập các vùng để hỗ trợ nhau về kinh tế, phát triển văn hóa, xã hội; áp dụng các biện pháp mạnh về quân sự để tiêu diệt bọn đầu sỏ ly khai ở Che-snia đi đôi với các biện pháp chính trị – kinh tế, cơ bản lập lại trật tự tương đối ở vùng Bắc Cáp-ca-dơ.
Tháng 12-2007, đã diễn ra cuộc bầu cử Hạ viện (Đu-ma quốc gia) Nga nhiệm kỳ 5 với 4 đảng vượt được ngưỡng 7% số phiếu để có đại diện trong Đu-ma, là đảng Nước Nga thống nhất, đảng Cộng sản Liên bang Nga, đảng Dân chủ tự do và đảng Nước Nga công bằng, trong đó Đảng Nước Nga thống nhất thân chính quyền và được đích thân Tổng thống Pu-tin ủng hộ đã chiếm đa số với 315-450 ghế; đảng Cộng sản là đảng đối lập duy nhất có đại diện trong Đu-ma với 50 ghế.
Ông Mét-ve-đép Đờ-mi-tơ-ri A-na-tô-li-e-vích đã trúng cử Tổng thống ngay từ vòng đầu tại cuộc bầu cử vào tháng 3-2008 với hơn 70% số phiếu. Sau lễ nhậm chức vào ngày 7-5-2008, ông đã bổ nhiệm cựu Tổng thống Pu-tin làm Thủ tướng. Đồng thời ông Pu-tin cũng chấp nhận làm Chủ tịch Đảng Nước Nga thống nhất mặc dù không là đảng viên của đảng này. Quá trình chuyển giao quyền lực của Nga đã diễn ra trong hòa bình và hòan toàn hợp hiến. Hiện nay, giữa Tổng thống và Thủ tướng đã hình thành cơ chế phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện cho bộ máy Nhà nước và Chính phủ hoạt động tốt.
Theo sáng kiến của Tổng thống mới Đ. Mét-ve-đép (nêu trong Thông điệp Liên bang tháng 11-2008), Quốc hội Nga (Hạ viện và Thượng viện) đã nhất trí thông qua một số sửa đổi trong Hiến pháp và Luật Bầu cử của Nga, và Tổng thống Đ. Mét-ve-đép đã phê chuẩn theo luật định. Đó là: nâng nhiệm kỳ Tổng thống lên 6 năm, nhiệm kỳ Đu-ma lên 5 năm; bỏ quy định các Đảng phái chính trị phải đặt cược khi tham gia bầu cử; Chính phủ phải có trách nhiệm báo cáo hàng năm trước Quốc hội. Quá trình cải cách thế chế của Nga vẫn đang tiếp tục trong năm 2009.
Về đối ngoại Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Trong thời gian qua, Nga thi hành chính sách đối ngoại thực dụng và linh hoạt, đa dạng hóa quan hệ trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng, tranh thủ hợp tác kinh tế với các đối tác khác nhau, tạo môi trường hòa bình ổn định cho đất nước phát triển. Ngày 15-7-2008, Nga đã thông qua Học thuyết mới về Chính sách đối ngoại, đề ra những đường hướng cụ thể cho hoạt động đối ngoại của Nga trong 5 năm tới.
Ưu tiên số một trong chính sách đối ngoại của Nga là khu vực SNG nơi Nga có nhiều lợi ích sát sườn. Quan hệ với Mỹ, EU cũng chiếm vị trí rất quan trọng trong chính sách của Nga. Thời gian qua tuy có nhiều trục trặc và mâu thuẫn liên quan đến việc NATO mở rộng, Mỹ dự định triển khai hệ thống NMD Đông Âu, an ninh năng lượng… nhưng hai bên chủ trương tăng cường đối thoại để tìm ra các kênh hợp tác xây dựng hơn.
Trong năm 2009 quan hệ Nga – Mỹ cải thiện hơn; quan hệ với NATO bị chững lại sau sự kiện Nam Ô-xe-tia 8-2008 đã được khôi phục bình thường. Các đối tác này nhìn nhận và đánh giá cao vai trò của Nga trong các công việc quốc tế.
Châu Á – Thái Bình Dương là khu vực chiến lược quan trọng và nhiều lợi ích đối với Nga và gần đây được Nga coi trọng hơn trước. Vì vậy, Nga chủ trương tích cực hội nhập và tham gia vào tất cả các cơ chế đối thoại của khu vực (ASEAN, ARF, APEC…), mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước ở khu vực, trong đó có các nước Đông Nam Á, ưu tiên phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam.
Nga đẩy mạnh quan hệ chiến lược song phương với Trung Quốc và Ấn Độ cũng như khuôn khổ hợp tác 3 bên Nga-Trung-Ấn. Về kinh tế – thương mại, Trung Quốc và Ấn Độ đều là thị trường tiềm năng rất lớn đối với Nga. Tuy nhiên, quan hệ Nga – Nhật vẫn gặp nhiều trở ngại xung quanh vấn đề tranh chấp lãnh thổ.
Bên cạnh đó, Nga tích cực đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại, chú trọng tới quan hệ với các nước Trung Đông, Mỹ La Tinh, Châu Phi, trong đó hợp tác kinh tế và kỹ thuật quân sự được đẩy mạnh.
1.1.1.4. Kinh tế- xã hội Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Trải qua những khó khăn của chuyển đổi, khủng hoảng nặng nề trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ 20, từ năm 2001 đến tháng 9-2008, nhờ vào sự tăng cao về giá cả của các mặt hàng năng lượng xuất khẩu, tăng trưởng đầu tư, nhu cầu tiêu dùng nội địa và có sự đầu tư thích đáng, kinh tế Liên bang Nga phát triển tương đối ổn định, tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, trung bình 6-8%-năm. Nga trở thành một trong 10 nền kinh tế lớn trên thế giới, GDP năm 2007 đạt trên 1200 tỷ đôla, tăng 8,3 %, sản xuất công nghiệp tăng 6,3%, kim ngạch ngoại thương tăng 20,8 %, đầu tư cơ bản tăng 25,5%. Nga đã trả trước thời hạn khoản nợ 23,7 tỷ USD kế thừa từ thời Liên Xô cho Câu lạc bộ Pa-ri. Lạm phát từ tốc độ phi mã trong những năm cuối thế kỷ 20 đến năm 2007 còn ở mức 12%. Thu nhập thực tế của người dân khoảng 8000USD-năm; thất nghiệp giảm gần một nửa. Chính phủ Nga đang triển khai thực hiện 4 chương trình quốc gia về cải thiện nhà ở, giáo dục, y tế và khoa học (khoảng 5 tỷ USD từ ngân sách nhà nước) và đầu tư thích đáng để hiện đại hóa quân đội.
Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, cũng như do giá dầu giảm mạnh, kinh tế Nga đã bị ảnh hưởng nặng nề. Tuy cả năm 2008 vẫn đạt mức tăng trưởng 6%, nhưng quý IV-2008 kinh tế Nga bắt đầu suy thóai; thất nghiệp tăng mạnh; dự trữ ngoại tệ giảm từ 680 tỷ USD xuống còn 447,776 tỷ USD (tính đến ngày 9-12-2009). GDP 10 tháng 2009 giảm 9,6%, sản xuất công nghiệp giảm 13,3%, trong khi lạm phát tăng 8,1%.
Nga còn có những vấn đề lớn về kinh tế – xã hội phải khắc phục như: cơ cấu kinh tế không cân đối, tăng trưởng kinh tế cũng như thu ngân sách còn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nguyên nhiên liệu (khoảng 50%), tỉ lệ thất thóat vốn còn lớn (khoảng trên 10 tỷ USD mỗi năm); lạm phát cao hai con số; an ninh xã hội chưa bảo đảm, tệ quan liêu, tham nhũng phổ biến, môi trường đầu tư, kinh doanh kém thuận lợi; khả năng cạnh tranh của các ngành sản xuất trong nước chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, đầu tư thay đổi công nghệ mới và phát triển các ngành kỹ thuật cao còn hạn chế.
Trước tình hình đó, Chính phủ Nga đã đề ra Chiến lược phát triển đến năm 2020 và đã kịp thời đưa ra hai Chương trình chống khủng hoảng. Chương trình thứ nhất với những biện pháp mang tính cấp bách, trị giá 200 tỷ đôla nhằm cứu hệ thống tài chính ngân hàng khỏi đổ vỡ. Chương trình thứ hai bao gồm 55 điểm, trong đó đề ra các biện pháp cụ thể nhằm cải thiện tình hình tài chính và các ngành kinh tế quan trọng. Đồng thời, Nga sẽ tích cực tiến hành cải cách hệ thống luật pháp, hướng mạnh vào kích cầu nội địa, ưu tiên phát triển nông nghiệp, xây dựng, phát triển các tổ hợp công nghiệp quốc phòng, chế tạo máy nhằm bảo đảm đà tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hội như nhà ở, việc làm, hỗ trợ thất nghiệp.
Nhờ các biện pháp chống khủng hoảng quyết liệt của Chính quyền Nga, tình hình kinh tế Nga đang có những tín hiệu tích cực, với GDP tăng nhẹ trở lại từ tháng 5 năm 2009 và thất nghiệp giảm dần.
1.1.2. Quan hệ Việt Nam- Liên bang Nga Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Việt Nam (lúc đó là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) đã thiết lập quan hệ với Liên Xô (Liên bang Nga ngày nay) vào ngày 30-1-1950.
1.1.2.1. Quan hệ chính trị
Sau khi chính quyền Liên bang Nga được thành lập, quan hệ chính trị giữa Nga và Việt Nam không ngừng được tăng cường và củng cố do các chuyến thăm cấp cao và cấp Bộ, ngành, địa phương diễn ra thường xuyên. Năm 2001, hai bên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược trong dịp chuyến thăm chính thức Việt Nam đầu tiên của Tổng thống Nga V. Pu-tin. Hai bên thường xuyên trao đổi các đoàn cấp cao, tạo động lực cho việc phát triển quan hệ giữa hai nước, gần đây nhất là các chuyến thăm chính thức Liên bang Nga của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (26-29-10-2008) và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (22-26-4-2009).
Cơ sở điều ước pháp lý mới cho quan hệ hợp tác song phương đã được tạo dựng khá đầy đủ. Từ năm 1991 đến 2007 đã có khoảng 50 văn kiện song phương được ký kết. Đặc biệt, hai nước đã thúc đẩy giải quyết dứt điểm thỏa đáng một số vấn đề tồn đọng trong quan hệ từ thời Liên Xô để lại như xử lý nợ của Việt Nam, vấn đề Nga chấm dứt trước thời hạn việc sử dụng quân cảng Cam Ranh.
Hai bên có đồng quan điểm trên nhiều vấn đề quốc tế và khu vực, phối hợp ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế như LHQ, APEC, ASEAN, ARF. Việt Nam ủng hộ Nga tham gia Diễn đàn ASEM và Cấp cao Đông Á…
Do yếu tố lịch sử và trên cơ sở quan hệ hữu nghị giữa hai nước, cộng đồng người Việt Nam (khoảng 60 – 80 nghìn người) đã tồn tại và làm ăn, sinh sống tại Nga gần hai thập kỷ. Tuy có vấn đề địa vị pháp lý còn chưa rõ ràng ổn định, nhưng nhìn chung, người Việt không bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Một số đã trở thành doanh nhân thành đạt, đầu tư tại Nga và về trong nước. Hai nước đã ký và hòan tất việc phê chuẩn 03 Hiệp định liên quan đến bảo hộ công dân: Hiệp định về lao động có thời hạn, Hiệp định hợp tác đấu tranh chống di cư bất hợp pháp và tạo thuận lợi cho di cư hợp pháp và Hiệp định nhận trở lại công dân tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng ta cư trú hợp pháp ở Nga và mở ra triển vọng hợp tác trong lĩnh vực sử dụng lao động.
1.1.2.2. Quan hệ kinh tế – thương mại, đầu tư Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về thương mại: kim ngạch từ chỗ chỉ khoảng 350-400 triệu USD vào giữa những năm 90 đã đạt 1,64 tỷ USD vào năm 2008, tăng gấp đôi so với năm 2006. Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam chủ yếu là thủy hải sản, may mặc, cao su, giầy dép, các mặt hàng nhập khẩu chính là than, thép, phôi thép, phân bón, xăng dầu. Kim ngạch thương mại hai chiều 10 tháng đầu năm 2009 đạt 1,59 tỷ USD, tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến, cả năm 2009 kim ngạch thương mại Việt – Nga đạt 1,8-1,85 tỷ USD.
Trong lĩnh vực đầu tư, Nga có 55 dự án với tổng số vốn là 302,9 triệu USD, đứng thứ 23/81 các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam cũng có 11 dự án đầu tư vào Nga với tổng số vốn là 34 triệu USD.
Dầu khí, năng lượng là lĩnh vực hợp tác truyền thống và hiệu quả, đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách hai nước Việt – Nga. Tháng 10-2008, hai bên đã ký Nghị định thư chuyển đổi Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro thành công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên sau năm 2010. Hai bên đã lập các liên doanh mới, như Vietgazprom, Rusvietpetro và Gazpromviet để tiếp tục hợp tác trong lĩnh vực dầu khí không chỉ ở Việt Nam mà còn ở Nga và tiến tới ở các nước thứ ba. Nga tiếp tục hợp tác tốt với Việt Nam trong việc hiện đại hóa và xây mới các công trình năng lượng tại Việt Nam. Tập đoàn khí đốt GAZPROM của Nga cũng đang mở rộng hợp tác với PETROVIETNAM. Hai bên đang xem xét mở rộng hợp tác sang lĩnh vực điện hạt nhân.
Hợp tác trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, an ninh quốc phòng tiếp tục được đẩy mạnh. Hợp tác mua bán vũ khí, khí tài được tiếp tục trên cơ sở quan hệ truyền thống và mang tính lâu dài. Các cơ quan hữu quan của hai nước hợp tác trao đổi thông tin tình báo, chống khủng bố, chống ma tuý, hợp tác trao đổi kinh nghiệm phối hợp đấu tranh và trong các vấn đề nhạy cảm như nhân quyền, dân chủ …
1.1.2.3. Quan hệ Văn hóa – Khoa học – Giáo dục
Các hoạt động giao lưu văn hóa giữa hai nước diễn ra sôi nổi, trong đó có việc tổ chức Những ngày Văn hóa Nga tại Việt Nam và Những ngày Văn hóa Việt Nam tại Nga. Hợp tác trong lĩnh vực du lịch ngày càng phát triển, lượng khách Nga sang Việt Nam tăng trung bình hơn 30% từ năm 2006 trở lại đây, đạt khoảng hơn 40.000 khách-năm. Từ 01-01-2009, Việt Nam đơn phương miễn thị thực cho khách Nga vào Việt Nam dưới 15 ngày.
Nga vẫn là một trong những nước góp phần đào tạo nguồn nhân lực chính của ta. Hiện nay, hàng năm Nga cấp cho ta khoảng 300 suất học bổng đào tạo đại học và sau đại học tại các trường của Nga. Ngoài ra, số lượng lưu học sinh du học theo diện tự túc lên đến hơn 5000 người. Hai bên đang xúc tiến lập trường Đại học quốc tế kỹ thuật – công nghệ Việt – Nga tại Việt Nam. (3)
1.2. Tổng quan về Cộng hòa Pháp và Quan hệ Việt – Pháp
1.2.1. Thông tin cơ bản Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
1.2.1.1. Giới thiệu chung
- Tên nước Cộng hòa Pháp (République française)
- Thủ đô Paris
- Diện tích 551.602 km2
- Dân số 64.102.000 (2007), đứng thứ 2 trong EU
- Tôn giáo Thiên chúa giáo, Hồi giáo…
- Quốc khánh 14 tháng 7
Các vị lãnh đạo hiện nay:
- Tổng thống: Ni-cô-la Xác-kô-di (Nicolas Sarkozy)
- Chủ tịch Quốc hội: Béc-na Ác-coi-ê (Bernard Accoyer)
- Chủ tịch Thượng viện : Giê-ra Lác-sê (Gérard Larcher)
- Thủ tướng: Phơ-răng-xoa Phi-ông (François Fillon)
- Bộ trưởng Ngoại giao và các vấn đề châu Âu: Bec-na Ku-sơ-ne (Bernard Kouchner).
1.2.1.2. Lịch sử
Nước Pháp là nước có lịch sử lâu đời ở châu Âu. Tổ tiên của người Pháp là người Gô-loa có mặt từ khoảng 1000 năm trước công nguyên. Tới năm 59 trước công nguyên, xứ Gôn bị đế chế La Mã chinh phục và đô hộ trong 400 năm và chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hóa La Mã. Thế kỷ 18, nền văn minh Pháp và tiếng Pháp phát triển rực rỡ ở châu Âu với kỷ nguyên ánh sáng và các nhà triết học nổi tiếng như Mông-tét-xki-ơ, Vôn-te, Đi-đơ-rô, Rút-xô… Cuộc cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đi vào lịch sử với Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền. Năm 1871, Công xã Paris – cuộc cách mạng vô sản đầu tiên – thắng lợi ở Pháp, nhưng chỉ tồn tại được một thời gian ngắn.
1.2.1.3. Chính trị, Đối ngoại và Quốc phòng
Về chính trị Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Thể chế nhà nước của Pháp là thể chế Cộng hòa. Nước Pháp theo chế độ Nghị viện – Tổng thống. Hiến pháp ngày 04-10-1958 liên tiếp được sửa đổi: Bầu cử Tổng thống theo phương thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp (1962), bổ sung mục mới liên quan đến trách nhiệm hình sự của các thành viên chính phủ (1993), thiết lập kỳ họp duy nhất ở Nghị viện và mở rộng quy mô trưng cầu dân ý (1995), rút ngắn nhiệm kỳ tổng thống từ 7 năm xuống 5 năm (2000).
Tổng thống do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm và có quyền lực lớn: cử Thủ tướng, chủ trì Hội đồng Bộ trưởng, giải tán Quốc hội và quyết định tổ chức trưng cầu dân ý về các vấn đề quan trọng… Theo hiến pháp, Tổng thống là lãnh đạo cao nhất về chính sách đối ngoại và quốc phòng. Thủ tướng đứng đầu Chính phủ, có trách nhiệm trước Quốc hội, giữ quyền xây dựng luật trong phạm vi của mình và đảm bảo thi hành pháp luật.
Quyền lập pháp thuộc về Nghị viện, gồm Quốc hội và Thượng viện. Quốc hội do phổ thông đầu phiếu trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ 5 năm (577 đại biểu). Thượng viện được bầu gián tiếp (do các uỷ viên hội đồng vùng, tỉnh và các nghị sĩ Quốc hội bầu ra), nhiệm kỳ 9 năm, 3 năm bầu lại 1-3. Với việc bỏ phiếu bất tín nhiệm, Quốc hội có thể bãi miễn chính phủ.
Về đối ngoại và quốc phòng
Pháp ủng hộ mạnh mẽ việc hình thành một thế giới đa cực, trong đó EU đóng vai trò nòng cốt.
Ưu tiên hàng đầu là xây dựng và củng cố quan hệ với châu Âu. Trong nhiệm kỳ Chủ tịch EU 6 tháng cuối năm 2008, Tổng thống Sarkozy phần nào đã thành công trong việc đưa EU thóat khỏi tình trạng bế tắc về thể chế bằng việc thuyết phục các nước thông qua nội dung hiệp ước giản đơn; tăng cường quan hệ với Anh, Đức, Italia, Tây Ban Nha; thúc đẩy quan hệ với các nước Đông và Trung Âu sau thời kỳ lạnh nhạt dưới thời Tổng thống Chirac; củng cố vai trò của Pháp tại châu Âu.
Riêng với Mỹ, chính sách đối ngoại độc lập với Mỹ trong những vấn đề quốc tế và toàn cầu luôn được coi là “bản sắc ngoại giao Pháp”, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh Irak. Từ nhiệm kỳ 2, Tổng thống Chirac đã có những bước điều chỉnh nhằm hàn gắn quan hệ với Mỹ. Tổng thống Sarkozy một mặt khẳng định chính sách xích lại với Mỹ, là “đồng minh” của Mỹ, đặc biệt với việc quay lại các cơ chế lãnh đạo của NATO, tăng cường hiện diện tại Afghanistan hoặc cam kết tại Irak, nhưng vẫn duy trì “bản sắc Pháp” qua một số hồ sơ lớn như quan hệ với Nga, phản đối CNTB, biến đổi khí hậu…
Với Trung Đông, Pháp tăng cường được sự hiện diện và vai trò của mình tại khu vực như việc đăng cai Hội nghị tái thiết Trung Đông, xích lại với Israel, gia tăng vai trò trung gian hòa giải của Pháp đối với cuộc xung đột vũ trang giữa Israel và Palestine, lập căn cứ quân sự tại Abu Dhabi. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Với châu Phi, Pháp tiếp tục coi châu Phi là một ưu tiên, thúc đẩy sáng kiến Liên minh Địa Trung Hải, chủ trương triển khai Cơ chế đồng phát triển với các nước châu Phi da đen trước đây là thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, ngân sách hỗ trợ cho châu Phi đã bị cắt giảm và vai trò của Pháp tiếp tục suy giảm do chưa giải quyết dứt điểm được những cuộc khủng hoảng chính trị – quân sự đã kéo dài nhiều năm tại một số quốc gia châu Phi.
Với châu Á – Thái Bình Dương, Pháp chủ trương tiếp tục duy trì quan hệ cân bằng với các cường quốc như Nga, Nhật Bản. Chủ động đẩy mạnh quan hệ, đối thoại với một số nước mới nổi. Quan hệ với Trung Quốc đặc biệt được coi trọng do vị trí địa-chiến lược quốc tế ngày càng quan trọng, tiềm năng kinh tế dồi dào.
Với Liên Hợp Quốc, Pháp đề cao vai trò của LHQ, ủng hộ cải tổ LHQ, mở rộng HĐBA – LHQ, tích cực tham gia các hoạt động can thiệp của LHQ trong các cuộc xung đột khu vực, cử quân đội tham gia lực lượng của LHQ. Pháp là nước có số quân đông nhất tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ (gần 10.000 người).
Về quốc phòng, trong chiến lược quốc phòng sau chiến tranh lạnh, Pháp chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng trong khuôn khổ đa phương (trong NATO, trong Liên minh Tây Âu (UEO), hay trong khuôn khổ Liên Hợp Quốc) và trong khuôn khổ các Hiệp định song phương với các nước (đặc biệt với các nước châu Phi). Pháp thực hiện cải cách quốc phòng nhằm xây dựng một quân đội chuyên nghiệp (từ 2002), bãi bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự tự nguyện; cắt giảm ngân sách và quân số, xây dựng quân đội dựa trên 4 lực lượng: răn đe hạt nhân, phòng ngừa, triển khai nhanh và bảo vệ (an ninh trong nước). Cải cách quân đội đi đôi với tổ chức lại nền công nghiệp quốc phòng để có khả năng cung cấp cho quân đội những vũ khí hiện đại nhất và tham gia xây dựng nền công nghiệp quốc phòng châu Âu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường vũ khí thế giới.
1.2.1.4. Kinh tế – Xã hội Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Pháp là cường quốc kinh tế số 5 thế giới, đứng thứ 3 thế giới về xuất khẩu dịch vụ. Pháp có số lượng doanh nghiệp rất lớn, các doanh nghiệp có mặt trong số những doanh nghiệp hàng đầu thế giới trong tất cả các lĩnh vực. Có truyền thống lâu đời trong phát minh công nghiệp, hệ thống giáo dục chất lượng cao, đội ngũ nghiên cứu trình độ cao; đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu-phát triển; năng suất lao động thuộc loại hàng đầu thế giới.
- Thu nhập quốc dân (GDP) năm 2009 (hết quý 3 năm 2009): 1.437 tỷ euros (số liệu của eurostat).
- Tăng trưởng GDP trong năm 2009 đạt – 2,2% (số liệu của Eurostat).
- Tỷ lệ thất nghiệp năm 2009: 10,1% (3,9 triệu người)
- Thương mại (2008): Thâm hụt cán cân thương mại 55,2 tỷ euros.
Xuất khẩu đạt 492,3 tỷ euros đứng thứ 4 thế giới, chiếm 5,3% thị trường thế giới, chủ yếu là xe hơi, thiết bị văn phòng và điện tử, thiết bị giao thông vận tải, hóa hữu cơ, sản phẩm dược, xây dựng sân bay, máy móc, nông sản chế biến, lương thực. Nhập khẩu ở mức 520,6 tỷ euros, cũng đứng thứ 4 thế giới, sau Mỹ, Đức, Nhật. 63% trao đổi mậu dịch của Pháp là với các đối tác trong EU.
Năm 2009, nền kinh tế Pháp tiếp tục chịu tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính tuy ở mức độ yếu hơn do các biện pháp can thiệp mạnh của Chính phủ vào các khu vực như nông nghiệp, công nghiệp, trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ và đặc biệt là nhờ vào việc triển khai mạnh mẽ và đồng bộ kế hoạch phục hồi kinh tế trị giá 26 tỷ euros. Nhờ vậy, cuối năm 2009, nền kinh tế Pháp đã có dấu hiệu phục hồi tuy chưa thực sự vững bền do tỷ lệ thất nghiệp còn cao.
Nông nghiệp: Pháp là nước đứng đầu châu Âu về sản xuất và xuất khẩu nông sản. Tuy chỉ có 6% lao động làm việc trong nông nghiệp, hàng năm Pháp xuất siêu khoảng 6,6 tỷ USD hàng nông sản gồm lúa mì, rượu nho, các sản phẩm thịt và sữa. Năng suất lao động nông nghiệp cao, công nghiệp chế biến thực phẩm rất phát triển chiếm 5% GDP.
Các ngành công nghiệp và dịch vụ mũi nhọn:
- Chế tạo cơ khí, nhất là sản xuất ôtô (thứ 4 thế giới với các công ty như PSA Peugeot-Citroen, Renault, Michelin).
- Hàng không (thứ 3 thế giới với các công ty lớn như EADS, Ariane space, Airbus, Dassault Aviation)
- Năng lượng (Total, Areva, EDF, GDF Suez)
- Thiết bị giao thông vận tải (Alstom, Vinci)
- Vật liệu xây dựng, thiết bị (Lafarge, Pechiney, Saint Gobain)
- Viễn thông (Alcatel, France Telecom, Bouygues)
- Công nghiệp dược (thứ 5 thế giới, Rhone-Poulenc, Sanofi-Aventis)
- Mỹ phẩm và thời trang cao cấp (Oréal, LVMH)
- Dịch vụ của Pháp rất phát triển trong hệ thống tài chính ngân hàng (Dexia, Credit Agricole, Société générale, BNP Paribas), bảo hiểm (AXA), thông tin truyền thông (Vivendi, Canal Plus, Lagardère SCA), lĩnh vực phân phối (Carrefour)
- Lượng khách du lịch tới Pháp đứng hàng đầu thế giới, thu hút 82 triệu lượt khách (2007).
Về thu hút đầu tư nước ngoài, Pháp là địa chỉ hấp dẫn hàng đầu thế giới sau Mỹ, Anh và Trung Quốc, thu hút hơn 66 tỷ euros (2008) vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đứng thứ 2 Châu Âu, sau Anh, trước Ai-len, Đức, Ba-Lan và Hung-ga-ri. Đầu tư của châu Á vào Pháp còn hạn chế nhưng tăng nhanh. Pháp đứng thứ 2 trên thế giới về đầu tư ra nước ngoài với hơn 136 tỷ euros (2008), chỉ sau Mỹ và tập trung chủ yếu tại châu Âu. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
1.2.2. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Pháp
1.2.2.1. Quan hệ chính trị
Việt Nam và Pháp thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ ngày 12-4-1973.
Giai đoạn 1975-1978: Sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam và Pháp tăng cường quan hệ nhiều mặt. Hai nước đã ký một loạt nghị định thư tài chính, Pháp bắt đầu hỗ trợ ta trong quá trình khôi phục đất nước. Đỉnh cao quan hệ là chuyến thăm Pháp của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 4-1977.
Trong những năm 80, quan hệ hai nước bị ngưng đọng do vấn đề Campuchia. Các nước phương Tây thi hành chính sách cô lập Việt Nam, gây sức ép đòi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, nhưng khác với Mỹ, Pháp giữ thái độ chừng mực.
Từ năm 1989, quan hệ Việt – Pháp được cải thiện trở lại. Pháp đã đi đầu các nước phương Tây trong khai thông quan hệ với Việt Nam, xóa nợ cho Việt Nam, giúp Việt Nam giải quyết nợ với các nước chủ nợ thành viên Câu lạc bộ Paris.
Từ đó đến nay, Việt Nam và Pháp đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao. Về phía Pháp, đã có 3 chuyến thăm cấp nguyên thủ quốc gia sang Việt Nam (Tổng thống Mitterrand 1993, Tổng thống Chirac năm 1997 và 2004; Thủ tướng Fillon tháng 11-2009). Về phía Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm Pháp năm 2000, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thăm Pháp năm 2005, Chủ tịch nước Trần Đức Lương thăm Pháp năm 2002, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Pháp năm 1993, Thủ tướng Phan Văn Khải năm 1998 và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng năm 2007).
1.2.2.2. Quan hệ kinh tế – thương mại, đầu tư Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về hỗ trợ phát triển, Việt Nam là một trong ít nước được hưởng cả ba kênh viện trợ tài chính của Pháp là viện trợ phát triển chính thức từ ngân khố, cho vay ưu đãi từ Cơ quan Phát triển Pháp (AFD) và từ Quỹ Đoàn kết ưu tiên (FSP). Pháp hiện là nhà tài trợ song phương ODA thứ hai cho Việt Nam, sau Nhật Bản. Việt Nam đứng thứ 7 trong số các nước hưởng ODA của Pháp. Đến nay, Pháp đã cấp cho Việt Nam vay ưu đãi trên 2 tỷ euro cho các dự án, trong đó đáng chú ý là dự án vệ tinh VNREDSAT1 (57,8 triệu euro), dự án tầu điện ngầm Hà Nội (280 triệu euro), dự án trường đại học khoa học công nghệ Hà Nội (100 triệu euro)… Năm 2008, Pháp cam kết sẽ viện trợ 380 triệu đô-la cho Việt Nam cho năm 2009 (tăng so với 228 triệu năm 2007).
Theo tinh thần Tài liệu khung về quan hệ đối tác Việt Nam – Pháp giai đoạn 2006-2010 (ký ngày 15-9-2006), Pháp cam kết viện trợ cho Việt Nam 1,4 tỷ đô – la, tập trung thế mạnh của Pháp vào 4 lĩnh vực ưu tiên: xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, chuyển giao công nghệ, phát triển nông nghiệp, công nghiệp (điện năng, năng lượng sạch và công nghệ chế biến) và phát triển lĩnh vực tài chính phi ngân hàng.
Về trao đổi thương mại, Pháp là bạn hàng châu Âu thứ 3 của Việt Nam (sau Đức và Anh). Trao đổi thương mại hai chiều năm 2007 đạt 2,04 tỷ đô-la, năm 2008 đạt gần 1,8 tỷ đô-la, trong đó tổng giá trị giá hàng hóa VN xuất đạt 971 triệu đô-la, chủ yếu là giày dép, hàng dệt may, hàng hải sản, sản phẩm đá quý và kim loại quý; tổng giá trị hàng hóa Pháp nhập đạt 829 triệu đô-la, chủ yếu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng; tân dược; các sản phẩm hóa chất; nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày; sữa và sản phẩm sữa. Từ năm 2007, Pháp là nước xuất siêu sang Việt Nam, trong đó các mặt hàng nhập khẩu chính là máy móc thiết bị và dược phẩm. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về đầu tư, Pháp đứng đầu các nước châu Âu và đứng thứ 13 trong tổng số 88 nước và lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Pháp có mặt tại Việt Nam từ năm 1988. Tính đến 31-8-2009, Pháp đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn cam kết khoảng 3,03 tỷ đô-la cho 216 dự án còn hiệu lực. Vốn đầu tư của Pháp tăng liên tục trong những năm gần đây (năm 2008 tăng 5,5 lần so với năm 2007); 9 tháng đầu năm 2009 có suy giảm do tình hình khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các lĩnh vực có vốn đầu tư lớn là dịch vụ (52% tổng vốn), công nghiệp (37%), còn lại là nông nghiệp. Hình thức đầu tư bao gồm hợp đồng hợp tác kinh doanh (chiếm 31%), BOT (29,6%) với quy mô trung bình là 11,59 triệu USD-dự án (ở mức thấp so với bình quân chung là 15 triệu USD-dự án). Đầu tư trực tiếp của Pháp tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, giao thông và viễn thông, khách sạn và dịch vụ, chế biến thực phẩm; phân bổ trên khoảng 30 địa phương, tập trung phần lớn tại thành phố Hồ Chí Minh (96 dự án), Hà Nội (56 dự án), Đồng Nai (18 dự án), Bà Rịa-Vũng Tàu (8 dự án) và Quảng Nam (8 dự án). Một số dự án lớn Pháp đang triển khai là nhà máy điện Phú Mỹ 2, dự án phát triển đường dây viễn thông của tập đoàn France Telecom, hợp tác chiến lược giữa AXA và Bảo Minh, công ty Alcatel Việt Nam, hệ thống phân phối của tập đoàn Bourbon… Hiện Pháp đang quan tâm nhiều đến các dự án về năng lượng tại Việt Nam.
1.2.2.3. Quan hệ văn hóa, khoa học và giáo dục
Về khoa học và công nghệ, Việt Nam nằm trong số các nước hợp tác ưu tiên của Pháp. Hợp tác Việt-Pháp hiện nay được thực hiện thông qua các dự án do Quỹ Đoàn kết Ưu tiên (FSP) của Pháp tài trợ. Đây thường là các chương trình lớn, dài hạn về nghiên cứu, phát triển công nghệ, đào tạo phục vụ phát triển kinh tế xã hội; phát huy giá trị văn hóa; tăng cường năng lực về pháp luật và hành chính… với kinh phí trung bình cho mỗi dự án khoảng trên một triệu euro.
Tháng 3-2007, Hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai Chính phủ đã được ký kết nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các chuyên gia, cơ quan và tổ chức khoa học và công nghệ hai nước tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác. Hợp tác trong lĩnh vực ứng dụng hạt nhân ngày càng được tăng cường trong khuôn khổ Thỏa thuận giữa Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam và Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Pháp (CEA) như hợp tác đào tạo cán bộ về công nghệ hạt nhân và khai thác sử dụng chương trình tính toán của CEA, cung cấp tài liệu tuyên truyền về điện hạt nhân cho công chúng. Tháng 11-2009, Hiệp định hợp tác về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình được ký dưới sự chứng kiến của hai Thủ tướng.
Hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa Việt Nam và Pháp đã hình thành và phát triển từ đầu những năm 80. Pháp luôn coi giáo dục và đào tạo là mục tiêu ưu tiên trong hoạt động hợp tác của mình tại Việt Nam, tập trung chủ yếu vào việc giảng dạy và phát triển tiếng Pháp, đào tạo nguồn nhân lực ở bậc đại học, sau đại học trong nhiều lĩnh vực: quản lý kinh tế, ngân hàng, tài chính, luật, công nghệ mới… Tháng 11-2009, Hiệp định về thành lập và phát triển trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội được ký kết theo đó Pháp cam kết hỗ trợ Việt Nam 100 triệu euro trong vòng 10 năm. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Hàng năm, Chính phủ Pháp dành 80 suất học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Pháp học tập, nhằm giúp Việt Nam trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính sách học bổng của Pháp tập trung chủ yếu cho các chương trình đào tạo ở bậc học thạc sỹ và tiến sỹ. Số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Pháp tăng khoảng 40% trong vòng 10 năm qua và có khoảng 5.000 sinh viên. Pháp khẳng định sẽ hợp tác và hỗ trợ Việt Nam thực hiện kế hoạch đào tạo 10.000 tiến sỹ từ nay đến 2020.
Về hợp tác văn hóa, giao lưu văn hóa giữa hai nước cũng ngày càng phát triển. Chính phủ Pháp dành ưu tiên hỗ trợ cho chính sách hội nhập văn hóa của Việt Nam với phương châm khẳng định, tôn trọng sự đa dạng văn hóa Việt Nam. Hiệp định giữa hai Chính phủ về các Trung tâm Văn hóa được ký kết (tháng 11-2009) sẽ tạo cơ sở và điều kiện cho hoạt động của Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Paris, một trong 2 trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài. Liên hoan nghệ thuật Festival Huế được tổ chức lần đầu vào tháng 4-2000 với sự tài trợ và tham gia tích cực của Pháp đã trở thành một hoạt động văn hóa quốc tế, được tổ chức 2 năm một lần. Pháp là đối tác đầu tiên xây dựng Festival Huế. Việt Nam được mời tham gia vào nhiều lễ hội văn hóa nghệ thuật tại Pháp (Lễ hội nghệ thuật Avignon, Lễ hội Biển quốc tế Brest).
Về hợp tác quốc phòng, Pháp là nước phương tây đầu tiên có tùy viên quốc phòng. Pháp đang thúc đẩy hợp tác với Việt Nam, chủ yếu và buôn bán vũ khí cũng như trang thiết bị quân sự. Hai nước đã ký Hiệp định hợp tác Thỏa thuận khung vào năm 1997. Nhân chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Pháp (11-2009), hai bên đã ký “Thỏa thuận giữa Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nước CHXHCN Việt Nam và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Cộng hòa Pháp về hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng”.
Bên cạnh đó hợp tác giữa các địa phương (còn gọi là hợp tác phi tập trung), là một hình thức hợp tác đặc thù trong quan hệ hai nước và hiện đang đi vào chiều sâu. Hiện có 52 địa phương (Vùng, Tỉnh) của Pháp là đối tác với 54 tỉnh/thành phố của Việt Nam. Hai năm một lần, Hội nghị hợp tác Phi tập trung được tổ chức nhằm đánh giá hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm hợp tác giữa các địa phương. Việt Nam lần đầu tiên đăng cai tổ chức Hội nghị lần thứ 6 vào năm 2005 tại Huế và dự kiến tổ chức Hội nghị lần thứ 8 vào tháng 6-2010 tại Hải Phòng.
Đều là thành viên của tổ chức Pháp ngữ, hai nước có nhiều hoạt động hợp tác trong khuôn khổ tổ chức Pháp ngữ, đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Pháp, giảng dạy đại học, các hoạt động nghị viện…
Ngoài ra giữa hai quốc gia còn phát triển hình thức: Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
- Uỷ ban hỗn hợp Hợp tác Văn hóa, Khoa học kỹ thuật liên Chính phủ (1982) họp thường kỳ hai năm một lần, phiên thứ 11 tại Hà Nội tháng 5-2000 và sau đó không tổ chức họp nữa.
- Nhà Pháp luật Việt-Pháp thành lập năm 1993 trên cơ sở Hiệp định giữa hai Chính phủ với hai nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ Việt Nam trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật và đào tạo chuyên gia ngành tư pháp. Hàng năm, Ủy ban định hướng do hai Bộ trưởng Tư pháp đồng chủ trì luân phiên tại hai nước. Phiên thứ 16 đã họp tại Việt Nam tháng 02-2009.
- Hội đồng cấp cao vì sự phát triển hợp tác kinh tế Việt – Pháp được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Pháp J. Chirac và Tổng bí thư Nông Đức Mạnh. Phiên họp thứ hai tổ chức vào tháng 3-2008 tại TP. HCM đã thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp Pháp, là diễn đàn trao đổi về nhu cầu hợp tác của Việt Nam đến các doanh nghiệp và chính quyền Pháp.
- Diễn đàn kinh tế tài chính Việt – Pháp (2000) do ADETEF, cơ quan hợp tác Bộ Kinh tế Pháp và Viện Chiến lược Phát triển, Bộ Kế hoạch – Đầu tư Việt Nam đồng tổ chức, là một diễn đàn đối thoại và trao đổi để đưa ra đề xuất và định hướng cho chính sách nhà nước. Khóa họp toàn thể của diễn đàn được tổ chức hàng năm và bàn về một chủ đề có tính thời sự. Khóa thứ 8 với chủ đề “Năng lượng và phát triển bền vững” đã diễn ra vào tháng 11-2009.
- Hợp tác ba bên, giữa Việt Nam, Pháp với-hoặc một tổ chức tài trợ và một số nước châu Phi như Mali, Burkina Faso, Senegal trong cách lĩnh vực nông nghiệp, y tế… đã thu được những kết quả tốt và được các nước thụ hưởng hoan nghênh, đề nghị nhân rộng.
Có thể thống kê các Hiệp định khung đã được ký kết giữa hai quốc gia:
- Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật (1989),
- Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (1992),
- Hiệp định hợp tác y tế và y học(1992),
- Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần (1993),
- Hiệp định về hợp tác pháp luật và tư pháp (1993),
- Hiệp định hợp tác về du lịch (1996),
- Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự (1999),
- Hiệp định hợp tác hàng hải (2000),
- Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi (2000),
- Hiệp định về miễn thị thực lưu trú ngắn hạn đối với người mang hộ chiếu ngoại giao (2004),
- Hiệp định hợp tác khoa học công nghệ (2007).
- Hiệp định về hợp tác trong lĩnh vực giữ gìn trật tự an toàn xã hội (2009),
- Hiệp định về hợp tác sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình (2009)
- Hiệp định về các Trung tâm Văn hóa (2009),
- Hiệp định về việc thành lập và phát triển Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội (2009). (4)
1.3. Tổng quan về Cộng hòa Liên bang Đức v à Quan hệ Việt – Đức
1.3.1. Thông tin cơ bản về Cộng hòa Liên bang Đức
1.3.1.1. Giới thiệu chung Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Cộng hòa Liên bang Đức nằm ở trung tâm châu Âu, có biên giới với Đan Mạch ở phía Bắc; Pháp, Hà Lan, Bỉ và Luxemburg ở phía Tây; Thụy Sĩ và Áo ở phía Nam; Séc, Slovakia và Ba Lan ở phía Đông. Đức nằm ở vị trí bản lề giữa Đông và Tây Âu, giữa bán đảo Skandinavia và Địa Trung Hải.
- Diện tích: 356.975 km2.
- Dân số: 82,037 triệu người.
- Ngôn ngữ: Tiếng Đức.
- Quốc khánh: Ngày 03 tháng 10.
- Tổ chức hành chính: CHLB Đức gồm 16 bang, đứng đầu mỗi bang là một Thủ hiến;
- Lãnh đạo cấp cao: Tổng thống Horst Köhler (Đảng CDU) từ 2004 (nhiệm kỳ 2 từ 2009); Thủ tướng Angela Merkel (Đảng CDU) từ 2005 (nhiệm kỳ 2 từ 2009); Chủ tịch Quốc hội Norbert Lammert (Đảng CDU) từ 2005 (nhiệm kỳ 2 từ 2009); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Jens Böhrnsen (Đảng SPD) từ 2009.
1.3.1.2. Lịch sử
Sau chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871) các nhà nước Nam Đức hợp nhất với Hiệp hội các Nhà nước Bắc Đức lập ra Đế chế Đức. Ngày 18-01-1871, Vua Phổ Wilhelm Đệ nhất được phong Hòang đế. Otto von Bismarck (1815 – 1898), người có công rất lớn trong việc tập hợp các nhà nước cát cứ Đức thành một nước Đức thống nhất và làm Thủ tướng suốt 19 năm.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, nước Đức bị chia cắt thành hai quốc gia: CHLB Đức và CHDC Đức.
- Ngày 7-9-1949, ở phần đất phía Tây đã tổ chức tuyển cử, bầu Nghị viện Tây Đức và tuyên bố thành lập nước CHLB Đức.
- Ngày 7-10-1949, ở phần phía Đông, nước CHDC Đức được thành lập.
- Ngày 3-10-1990, CHDC Đức (cũ) sát nhập vào CHLB Đức thành nước Đức ngày nay và ngày này được coi là ngày Quốc khánh của nước CHLB Đức thống nhất.
- Ngày 24-6-1991, Quốc hội CHLB Đức đã bỏ phiếu chọn Berlin làm Thủ đô của CHLB Đức.
1.3.1.3. Chính trị – Đối ngoại Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về chính trị, Quốc hội Đức có Hội đồng liên bang (Bundesrat) và Quốc hội (Bundestag).
Hội đồng Liên bang (Thượng viện): là cơ quan đại diện của 16 bang, không phải do tổng tuyển cử bầu ra mà do Quốc hội các bang cử với số lượng tỉ lệ thuận với dân số của từng bang. Những đạo luật quan trọng sau khi đã được Quốc hội thông qua phải được Hội đồng liên bang chuẩn y thì Tổng thống mới phê duyệt. Thủ hiến các bang thay nhau làm Chủ tich Hội đồng liên bang với thời hạn 1 năm. Chủ tịch Hội đồng liên bang thực hiện các công việc của Tổng thống khi Tổng thống vắng mặt.
Quốc hội (Hạ viện): là đại diện của nhân dân được bầu theo mỗi khóa kéo dài 04 năm. Hiến pháp quy định các đảng chỉ được vào Quốc hội khi đạt 5 phiếu trở lên trong các cuộc tổng tuyển cử.
Chính phủ hiện nay là Chính phủ liên minh giữa Đảng Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo (CDU) và Đảng Dân chủ tự do (FDP).
Về đối ngoại và an ninh:
Cơ sở chính sách đối ngoại: Đức ủng hộ một thế giới đa cực, tôn trọng luật pháp quốc tế, đấu tranh cho nhân quyền, đối thoại, phòng ngừa khủng hoảng, tránh sử dụng bạo lực và kiến tạo lòng tin.
Ưu tiên đối ngoại và an ninh: Nhất thể hóa Châu Âu, quan hệ với Mỹ, toàn cầu hóa, chống khủng bố, giải quyết xung đột khu vực.
Đức nỗ lực thiết lập quan hệ đối tác an ninh bền vững với Nga, ủng hộ hợp tác kinh tế, tài chính và xã hội với Nga trên bình diện song phương cũng như đa phương. Đức muốn tận dụng việc mở rộng EU và NATO sang phương Đông để tăng cường hợp tác với Đông Âu.
Đức kiên quyết chống khủng bố trong khuôn khổ liên minh toàn thế giới. Đức hợp tác với Liên hợp quốc, Mỹ, EU và Nga trong việc giải quyết xung đột Trung-Đông. Đức thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng trong quan hệ với các nước Trung – Đông, đặc biệt trong mối quan hệ giữa Paletxtin và Ixraen. Đức ngày càng coi trọng phát triển các mối quan hệ với Châu Á – Thái Bình Dương, trước hết với Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về kinh tế – xã hội, Đức thực hiện đường lối “Kinh tế thị trường xã hội” với phương châm “ít nhà nước như có thể, nhiều nhà nước như cần thiết”. Nhà nước không can thiệp vào việc hình thành giá cả và lương bổng mà chỉ tạo điều kiện khung cho các quá trình kinh tế phát triển sao cho có hiệu quả cao và đảm bảo công bằng và ổn định xã hội.
Đức là một trong những nước công nghiệp phát triển nhất thế giới, đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nhật Bản về GDP, đứng đầu thế giới về xuất khẩu (năm 2008 xuất 1.530 tỷ USD). Các ngành công nghiệp chủ yếu là: Chế tạo xe hơi, chế tạo máy móc, thiết bị, công nghiệp hóa chất, công nghiệp kỹ thuật điện và điện tử. Từ 1975 Đức là thành viên của G8.
- Tỷ lệ thất nghiệp 2008: 7,9 %
- GDP: 2.863 tỷ USD, đứng thứ 3 thế giới sau Mỹ và Nhật Bản (trong đó nông nghiệp: 0,9%, công nghiệp: 30,1% và dịch vụ: 69%)
- Tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt: 1,3 %
- Đức có khoảng 0,9 % dân số làm việc trong nông nghiệp được tổ chức theo kiểu trang trại và tạo ra một lượng sản phẩm vượt cầu.
1.3.2. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Liên bang Đức
1.3.2.1. Quan hệ chính trị và ngoại giao
Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23-9-1975. Nhưng chỉ từ những năm 90 của thế kỷ 20, quan hệ ngoại giao giữa hai nước mới thực sự đi vào chiều sâu thể hiện qua việc trao đổi các đoàn cấp cao:
- Đoàn ta thăm bạn: Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1993); Thủ tướng Phan Văn Khải (2001); Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (2004); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (2008).
- Đoàn bạn thăm ta: Thủ tướng Helmut Kohl (1995); Chủ tịch Quốc hội Liên bang Wolfgang-Thierse (2001); Thủ tướng Gerhard Schroeder (2003); Thủ tướng Gerhard Schroeder (2004); Tổng thống Horst Koehler (2007); Chủ tịch Hội đồng Liên bang Harald Ringstorff (2007); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Frank-Walter Steinmeier (2008).
1.3.2.2. Quan hệ kinh tế Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Về trao đổi thương mại: CHLB Đức là đối tác thương mại lớn nhất của Việt nam trong khối EU. Năm 2008, tổng kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam và Đức đạt 3,26 tỷ USD. Những mặt hàng chủ yếu của Việt nam sang Đức là hàng dệt may, giầy dép, cà fê, thủy sản và các mặt hàng sành sứ, gốm. Những mặt hàng chính mà Việt nam nhập khẩu từ Đức bao gồm máy móc, máy đo, sản phẩm hóa học, thuốc men, sợi đặc biệt và dệt may (đặc biệt là các sản phẩm phụ trợ phục vụ cho ngành dệt may).
Về đầu tư: CHLB Đức đứng vị trí thứ 19/81 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam và đứng vị trí thứ 5-25 trong các nước EU. Đầu tư của Đức vào Việt Nam còn rất khiêm tốn so với tiềm năng và mong muốn của hai bên. Cho đến nay đầu tư của Đức ở Việt Nam khoảng 600 triệu USD với 98 dự án. Một số tập đoàn lớn của Đức đã có mặt tại Việt Nam như Metro, DaimlerChrysler, Siemens, Deutsche Bank, Allianz, Bayer …
1.3.2.3. Hợp tác phát triển
Việt Nam là một nước trọng tâm của Hợp tác phát triển Đức, đứng thứ 3 về nhận cam kết hợp tác phát triển, sau Trung quốc và Ấn độ ở châu Á. Từ khi thiết lập lại quan hệ Hợp tác phát triển với Việt nam từ năm 1990, Bộ Hợp tác kinh tế và Phát triển Đức (BMZ) đã viện trợ cho Việt nam gần 572 triệu Euro. Tại đàm phán chính phủ năm 2008, phía Đức cam kết cung cấp cho Việt Nam 117 triệu Euro cho hai năm 2008-2009. Tại hội nghị CG2009 Đức cam kết viện trợ cho Việt Nam 137,89 triệu USD (giảm 25,87% so với 2008).
Những dự án Hợp tác Tài chính do Ngân hàng tái thiết (KfW) thực hiện. Tổ chức hợp tác kỹ thuật (GTZ) là cơ quan lớn nhất thực hiện những dự án về Hợp tác kỹ thuật. Để nâng cao hiệu quả hợp tác, năm 2000 Việt nam và Đức đã thống nhất tập trung vào 3 lĩnh vực trọng tâm sau đây:
- Hỗ trợ các chính sách cải cách, bao gồm cả thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân và đào tạo nghề
- Môi trường, bảo vệ và sử dụng lâu dài nguồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm cung cấp nước và xử lý nước và rác thải.
- Y tế, kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV-AIDS.
Ngoài ra, Đức còn đóng góp cho các chương trình về Hợp tác phát triển của các tổ chức hợp tác phát triển quốc tế như Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), của Ngân hàng thế giới và Ngân hàng phát triển châu Á của Ủy ban châu Âu v.v..
1.3.2.4. Quan hệ văn hóa, khoa học và kỹ thuật Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Năm 1990 Việt Nam và Đức ký Hiệp định hợp tác văn hóa tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hợp tác và trao đổi văn hóa giữa hai nước. Được sự cho phép của Chính phủ Việt Nam, năm 1997 Đức thành lập Trung tâm văn hóa Đức (hay còn còn gọi là Viện Gớt) tại Hà Nội. Đây là địa điểm thường xuyên tổ chức các hoạt động nhằm giới thiệu văn hóa Đức và giảng dạy tiếng Đức tại Việt Nam. Việt Nam cũng thường xuyên cử các đoàn nghệ thuật sang Đức phục vụ bà con Việt Kiều tại Đức, đồng thời qua đó giới thiệu nền nghệ thuật Việt Nam tới công chúng Đức.
Hợp tác khoa học và công nghệ giữa Việt Nam và Đức phát triển mạnh mẽ. Trước năm 1995, hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ chủ yếu thông qua các chương trình đào tạo, nâng cao trình độ cho các cán bộ nghiên cứu với sự tài trợ của cá tổ chức, các quỹ của Đức.
Năm 1996 Nghị định thư hợp tác nghiên cứu khoa học giữa Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Bộ Giáo dục và Nghiên cứu Liên bang Đức được ký kết, tạo môi trường và nền tảng pháp lý thuận lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai nước. Hai bên thường xuyên trao đổi thông tin, chuyên gia, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học và thực hiện các dự án nghiên cứu khoa học chung.
Trong lĩnh vực công nghệ xử lý nước và môi trường, Đức đã dành 15 triệu Euro cho các chương trình nghiên cứu với tổng 54 tiểu dự án tại Việt Nam. Đức còn giúp Việt Nam đào tạo gần 30 tiến sỹ, 40 thạc sỹ và hàng trăm cán bộ khoa học. Ngoài ra Đức đã viện trợ cho Việt Nam một số trang thiết bị nghiên cứu với tổng giá trị 800.000 USD.
Năm 1998, Đức hợp tác với ta xây dựng Trung tâm trao đổi khoa học – kỹ thuật trong khuôn viên Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Đức cũng muốn Việt Nam gửi nhiều sinh viên sang học ở Đức. Đức đã ký với Việt Nam một thoả thuận hỗ trợ sinh viên Việt Nam sang du học ở Đức bằng học bổng của Việt Nam. Cơ quan trao đổi hàn lâm của Đức (DAAD) thường xuyên cấp học bổng cho cán bộ khoa học của Việt Nam đi bổ túc ngắn hạn ở Đức. Tháng 9-2008 Trường Đại học Việt – Đức đã được khánh thành và đưa vào hoạt động. Trường dự kiến sẽ trở thành một trường Đại học có trình độ quốc tế đầu tiên của Việt Nam và sẽ trở thành một biểu hiện cụ thể cho quan hệ hữu nghị Việt Nam – Đức. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
Hai nước nhất trí lấy năm 2010 là “Năm Đức tại Việt Nam” và “Năm Việt Nam tại Đức” với việc tổ chức nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, thể thao, giao lưu nghệ thuật… nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.
1.3.2.5. Cộng đồng người Việt tại Đức
Theo công bố của Đức, hiện nay số người Việt Nam ở Đức là khoảng 85.000 người, trong đó Đức đã cho phép ở lại trên 60.000. Nhìn chung, công dân Việt Nam được cư trú hợp pháp ở Đức có điều kiện sinh hoạt và làm việc khá và ổn định.(5)
Tiểu kết chương 1
Thông qua việc tìm hiểu khái quát về các quốc gia Nga, Pháp, Đức, có thể khẳng định rằng đây đều là những quốc gia tiến bộ, có trình độ khoa học kỹ thuật và kinh tế – xã hội hàng đầu châu Âu. Bên cạnh đó, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và những quốc gia này những năm gần đây không ngừng được thúc đẩy và củng cố. Đó là những tiền đề vô cùng quan trọng để Việt Nam nói chung và ngành du lịch Việt Nam nói riêng tiến hành những chính sách kêu gọi đầu tư, hợp tác và thu hút ngày càng nhiều hơn nữa khách du lịch của các quốc gia này đến Việt Nam. Và việc tổ chức những sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại các quốc gia này chính là một trong những chìa khóa quan trọng để thực hiện những mục tiêu chiến lược đó. Khóa luận: Tìm hiểu sự kiện Ngày Văn hóa Việt Nam tại châu Âu.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Những ngày văn hóa Việt Nam tại Nga Pháp Đức