Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận Tốt Nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Khóa luận: Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay cùng với sự phát triển nhanh chóng của ngành kinh doanh du lịch dịch vụ trên toàn thế giới, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng du lịch to lớn, không chỉ bởi hệ thống cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, sơn thủy hữu tình mà còn bởi vốn văn hóa tinh thần vừa đa dạng phong phú vừa độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã tạo dựng và để lại những giá trị văn hóa vô cùng quý giá, là nguồn lực quan trọng cho sự phát triển đất nước.
Tuy nhiên di sản văn hóa cũng rất dễ bị mai một và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến mất nhanh chóng. Đặc biệt trong những năm gần đây dưới tác động của cơ chế thị trường, của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã dẫn đến sự biến đổi văn hóa của dân tộc. Sự tác động mạnh mẽ đó giúp cho các tộc người tiếp thu những tinh hoa văn hóa làm phong phú thêm vốn văn hóa của mình, nhưng đồng thời cũng đứng trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa tộc người. Bởi vậy chủ trương xây dựng Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam (sau đây viết tắt là Làng VHDL các DTVN) của Nhà nước và ngành du lịch nhằm bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa trong sự phát triển toàn diện đất nước, làm cho các giá trị văn hóa tiếp tục tỏa sáng trong xu thế giao lưu hội nhập là thực sự cần thiết. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Với vị trí thuận lợi, kết nối giao thông với nhiều tuyến giao thông đường thủy, đường bộ, đường hàng không, lại tiếp giáp với nhiều điểm du lịch nổi tiếng như sân Golf Đồng Mô, Làng Việt cổ Đường Lâm, khu công nghệ cao Hòa Lạc… nên Bộ VHTT và DL cùng với UBND thành phố Hà Nội đã quyết định lựa chọn làng Đồng Mô thị xã Sơn Tây để xây dựng Làng VHDL các DTVN.
Từ khi đi vào khai trương từ ngày 19/9/2010, Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa – du lịch có ý nghĩa nhằm tôn vinh giá trị văn hóa của các tộc người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Thời gian gần đây Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công Đêm tôn vinh văn hóa các dân tộc Việt Nam, chương trình nghệ thuật Chào mừng ngày di sản Văn hóa Việt Nam, phiên chợ vùng cao được tổ chức, ngày hội đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam…Với việc tổ chức thành công một số sự kiện nói trên cùng với những lợi thế về vị trí Làng VHDL các DTVN hoàn toàn có thể trở thành nơi bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống dân tộc, một trung tâm du lịch, một điểm đến hấp dẫn trong cả nước và khu vực. Tuy nhiên hiện nay du lịch tại Làng VHDL các DTVN phát triển chưa xứng với những tiềm năng của mình, chưa khai thác một cách hiệu quả, hệ thống cơ sở kĩ thuật, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, hoạt động du lịch còn nhiều vấn đề bất cập. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là việc khai thác các hoạt động du lịch chưa thực sự thu hút khách và còn nhiều hạn chế.
Từ những lý do trên người viết đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam, Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội” cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài đi sâu tìm hiểu hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN – Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội dung nhằm:
- Đánh giá 1 cách tương đối và đầy đủ về tiềm năng phát triển du lịch tại Làng VHDL các DTVN.
- Khái quát về thực trạng hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN, từ đó thấy được những tích cực và hạn chế trong việc phát triển các hoạt động du lịch tại đây.
Đưa ra các khuyến nghị nhằm khai thác du lịch một cách có hiệu quả hơn nữa tại Làng VHDL các DTVN trong thời gian tới.
3. Ý nghĩa của đề tài Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Đối với Làng VHDL các DTVN: đề tài góp phần nhỏ bé trong việc đưa ra những đánh giá khách quan về thực trạng khai thác du lịch hiện nay của Làng, đồng thời đề xuất những gợi ý nhằm giúp cho hoạt động quản lý và tổ chức các sự kiện văn hóa du lịch của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN được hoàn thiện và hiệu quả hơn; từ đó hy vọng góp công sức vào sự phát triển du lịch của địa phương nói riêng và của Hà Nội nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là Làng VHDL các DTVN bao gồm Qui hoạch không gian Làng, công tác quản lý và Hoạt động du lịch tại Làng.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài, về không gian: Đề tài được thực hiện trong phạm vi Làng VHDL các DTVN tại Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội. Về thời gian, đề tài nghiên cứu hoạt động của Làng kể từ khi chính thức khai tương ngày 19/9/2010 cho đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra thực địa: Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, người viết đã đến quan sát, tìm hiểu, nghiên cứu, điều tra thực tế tại địa phương nơi xây dựng Làng VHDL các DTVN và thực hiện phỏng vấn những người dân địa phương cũng như một vài thành viên Ban quản lý.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Người viết đã thu thập và sử dụng thông tin từ các nguồn khác nhau như giáo trình, sách báo, tạp chí, các trang web, các báo cáo, tư liệu của chính quyền địa phương để đảm bảo khối lượng thông tin đầy đủ, chính xác.
Phương pháp phân tích tổng hợp: Trên cơ sở tài liệu thu thập được người viết đã tổng hợp, phân tích và rút ra những kết luận trong việc đánh giá tiềm năng và thực trạng khai thác hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN.
6. Bố cục của đề tài Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Ngoài Lời cảm ơn, phần mở đầu, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề tài được trình bày trong 3 chương. :
Chương 1: Tổng quan về Làng VHDL các DTVN – Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội.
Chương 2: Thực trạng phát triển du lịch Làng VHDL các DTVN – Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội
Chương 3: Một số khuyến nghị và giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại Làng VHDL các DTVN – Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LÀNG VĂN HÓA DU LỊCH CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM – ĐỒNG MÔ, SƠN TÂY, HÀ NỘI
1.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam
1.1.1 Mục đích xây dựng
Trải qua nhiều ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam tự hào là một trong những quốc gia đa dạng về sắc màu văn hóa các dân tộc. Trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay có sự chung sống của 54 tộc người, mỗi tộc người là một bức tranh đặc sắc, phong phú về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của xã hội công nghiệp hiện đại, cùng với xu thế hội nhập toàn cầu, dần dần có những tộc người ở nước ta đang đứng trước nguy cơ bị mai một về bản sắc văn hóa. Vì thế, việc nghiên cứu giữ gìn bản sắc văn hóa các tộc người ở nước ta từ lâu đã được các giới chức của ngành văn hóa và du lịch quan tâm tìm hiểu. Một giải pháp được đưa ra là cần thiết phải nhanh chóng xây dựng một Khu Làng văn hóa dành riêng cho các dân tộc. Mô hình Làng văn hóa vốn không lạ trên thế giới, đặc biệt là ở châu Á. Ở Trung Quốc và Campuchia, mô hình Làng văn hóa được vận hành dưới dạng để người đóng thế chủ nhân ngôi làng tái hiện lại các hoạt động trong đời sống thường nhật như làm nông nghiệp, làm nghề thủ công; “người dân” cũng đồng thời đóng vai trò là các hướng dẫn viên hướng dẫn khách tham quan, và tham gia trình diễn dân ca, dân vũ. Còn ở Malaysia và Indonesia, mô hình Làng văn hóa của họ thiên về bảo tồn, truyền dạy văn hóa, nghệ thuật dân tộc với sự tham gia của các chủ thể văn hóa đích thực [26]. Tuy nhiên mô hình xây dựng Làng văn hóa ở Việt Nam có điểm khác biệt và được gọi tên là Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam (tên viết tắt là Vinaculto). Mục đích đầu tiên của việc xây dựng công trình này là nhằm biến nơi đây trở thành trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch mang tầm quốc gia. Qua việc tái hiện và giới thiệu lịch sử – văn hóa các dân tộc ở Việt Nam, Làng văn hóa du lịch này sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu giao lưu văn hóa trong nước, giới thiệu về văn hóa Việt Nam với nước ngoài; tăng cường tính phong phú, đa dạng trong đời sống tinh thần của nhân dân thủ đô và các tỉnh thành khác. Đây cũng sẽ là điểm tựa giáo dục lịch sử truyền thống dân tộc cho nhân dân, nhất là cho thế hệ trẻ (ở trong nước và đồng bào nước ngoài về thăm quê hương), tăng cường tình đoàn kết, hiểu biết lẫn nhau, giáo dục lòng tự hào dân tộc và tình yêu quê hương đất nước của công dân Việt Nam, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Không chỉ có vậy, việc xây dựng mô hình Làng văn hóa du lịch các dân tộc còn nhằm tạo nên một cảnh quan thiên nhiên thoáng rộng; góp phần cân bằng sinh thái cho môi trường của thủ đô Hà Nội, là nơi phục vụ nhu cầu tham quan du lịch và tìm hiểu nghiên cứu của nhân dân trong nước và du khách quốc tế. Hơn thế nữa, dự án xây dựng Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam còn nhằm biến nơi đây trở thành một trung tâm du lịch, dịch vụ nghỉ ngơi, vui chơi giải trí có quy mô lớn đồng bộ, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn khai thác các lợi thế sẵn có về tài nguyên văn hóa, thiên nhiên tạo động lực cho sự phát triển bền vững của ngành du lịch Việt Nam.
1.1.2. Quá trình xây dựng Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Cuối năm 1988 đầu năm 1989, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và UBND thành phố Hà Nội đã đề xướng xây dựng dự án Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam với định hình ban đầu đây chỉ là một dự án với một làng nhỏ với vài chục nhà bên hồ Tây.
Ngày 26/09/1992, Văn phòng Chính phủ có Công văn số 4375/KG nêu yêu cầu về việc cần kết hợp thêm mục đích du lịch cho Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Do đó, ngày 19/10/1992, Bộ văn hóa thông tin cùng với UBND thành phố Hà Nội gửi công văn số 3387. VX/UB báo cáo thủ tướng Võ Văn Kiệt và Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh nội dung cuộc họp giữa Bộ văn hóa Thông tin và UBND Thành phố Hà Nội về việc thống nhất xây dựng Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, ngày 05/4/1993, Bộ Văn hóa thông tin ra quyết định 503 TC/QĐ thành lập Ban chuẩn bị đầu tư với nhiệm vụ xây dựng đề án chung tay xây dựng Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Ban Chuẩn bị đầu tư đã làm việc với Hội văn hóa các dân tộc Việt Nam, Viện Văn hóa dân gian về nội dung văn hóa dân tộc của dự án và đã tổ chức “Trưng cầu ý tưởng” quy hoạch Làng văn hóa các dân tộc việt Nam. Ban Chuẩn bị đầu tư đã mời 05 đơn vị trong nước và 01 đơn vị nước ngoài tham vấn. Đồng thời tổ chức một số triển lãm các ý tưởng quy hoạch để giới thiệu, xin ý kiến các nhà chuyên môn, trí thức và đông đảo nhân dân trong nước về việc xây dựng thực hiện dự án tiền khả thi Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Sau đó, đơn vị được chỉ định để thực hiện dự án tiền khả thi là Ban Chuẩn bị đầu tư và liên danh 3 đơn vị khác là Viện Quy hoạch Đô thị- Nông thôn, Viện Thiết kế công trình Văn hóa và Công ty Goh Hock Guan and Asociates [19].
Đầu tháng 09/1995 dự án tiền khả thi được hoàn thành trình Chính phủ và Bộ Kế hoạch Đầu tư. Ngày 21/8/1997 Chính Phủ ra quyết định số 667/TTg do Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký phê duyệt Quy hoạch tổng thể và nêu rõ tên dự án “Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam” (viết tắt Làng VHDL các DTVN) khẳng định dự án phục vụ du lịch bằng hoạt động văn hóa.
Mặc dù ý tưởng đã được thành hình từ năm 1995, nhưng đến ngày 03/10/1999, Dự án Làng VHDL các DTVN mới chính thức được khởi công xây dựng, đánh dấu sự ra đời trên thực tế. Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã nhanh chóng chuẩn bị các hạng mục đầu tư xây dựng, đồng thời tổ chức nhiều hội nghị với các Bộ, Ngành và các đơn vị liên quan cũng như tiến hành hàng loạt các công việc cần thiết trong đó đặc biệt coi trọng công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác rà phá bom mìn, khảo sát cổ học và thực hiện các dự án bước đầu về hạ tầng kỹ thuật chung.
Với chủ chương để chủ thể văn hóa tự giới thiệu mình, tạo điều kiện để các địa phương, đồng bào các dân tộc tham gia từ khâu thiết kế thi công đến quản lý vận hành, khai thác các làng, các dân tộc; Ban quản lý Làng VHDL các DTVN luôn tích cực xin ý kiến các nhà chuyên môn, nhân sĩ trí thức, già làng, trưởng bản, các nhà quản lý về văn hóa dân tộc và kịp thời áp dụng vào công trình. Từ năm 2005-2007 cơ bản hoàn tất việc xin ý kiến chủ thể văn hóa, các cấp địa phương, các cơ quan Trung ương liên quan về xây dựng Khu các làng dân tộc với 17 hội nghị, hội thảo và tổ chức thành công “Ngày hội văn hóa các dân tộc Việt Nam” [19]. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, do còn những bất cập tồn tại trong quá trình triển khai các dự án đầu tư xây dựng, lãnh đạo Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã chỉ đạo xây dựng lại đề án tổng thể xây dựng phát triển Làng VHDL các DTVN giai đoạn 2006-2010. Đề án này đã được chuẩn bị công phu nhằm đề xuất với Bộ văn hóa Thông tin các giải pháp đồng bộ, tổng thể để khắc phục những vướng mắc tồn tại. Cuối cùng, ngày 19/8/2005, đề án đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin phê duyệt tại quyết định số 6630/QĐ- BVHTT [19].
Sau khi đề án đươc phê duyệt, từ 2007 trở đi, Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã triển khai đồng bộ các giải pháp về chỉ đạo, điều hành quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, hợp tác huy động các nguồn lực xã hội, xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao… hướng tới mục tiêu khai trương Làng VHDL các DTVN vào năm 2010. Trên cơ sở đó Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN đã đề xuất với Bộ VHTT và DL, UBND tỉnh Hà Tây (cũ) và Chính Phủ về việc chuyển giao Nông trường Đồng Mô về trực thuộc Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN. Theo đó đến năm 2008, công tác đền bù và giải phóng mặt bằng được hoàn thiện. Bên cạnh đó, Ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã đề xuất và xây dựng đề án về Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam và được thủ tướng Chính Phủ phê duyệt tại quyết định số 1668/ QĐ-TTg ngày 17/11/2008, lấy ngày 19/4 là Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam và tổ chức thành công Lễ công bố ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Làng VHDL các DTVN vào đúng ngày 19/4/2009.
Ngày 19/4/2010 ban quản lý Làng VHDL các DTVN đã tổ chức thành công hội nghị cơ chế phối hợp với các địa phương, dân tộc trong quản lý, khai thác vận hành khu các làng dân tộc thuộc Làng VHDL các DTVN với sự tham dự của 270 đại biểu, các nhà quản lý của các Bộ, Ban, Ngành, Tổng cục, Cục, Vụ, Viện ở Trung ương, UBND, sở VHTTDL, UB dân tộc của 40 tỉnh, thành phố, các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về văn hóa dân tộc, nhân sĩ trí thức, già làng nghệ nhân dân gian của 47 dân tộc trong 54 dân tộc anh em. [19].
Cũng trong năm 2010, nhằm góp phần thiết thực kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN đã tập trung hoàn thành xây dựng hạ tầng kỹ thuật chung, thúc đẩy hoàn thiện không gian văn hóa tiêu biểu của 54 dân tộc Việt Nam và tổ chức thành công sự kiện khai trương, chính thức đưa vào hoạt động một phần Làng VHDL các DTVN vào ngày 19/9/2010. Bên cạnh đó, song song với việc đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tư và từng bước vận hành, khai thác Khu các làng dân tộc (thuộc Làng VHDL các DTVN), tổ chức thành công nhiều sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch với sự tham gia của các chủ thể văn hóa, các địa phương trong cả nước, Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN cũng đồng thời tiếp tục triển khai Kế hoạch đầu tư phát triển Làng VHDL các DTVN giai đoạn từ 2010 đến 2015 và hy vọng đến năm 2015, toàn bộ hạng mục đầu tư của Dự án sẽ được hoàn thành, đưa Làng VHDL các DTVN trở thành một trong những mô hình Làng văn hóa đặc sắc và thành công trên thế giới.
1.2. Tổ chức bộ máy và công tác quản lý Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
1.2 1. Ban Quản lý Làng VHDL các DTVN
Làng VHDL các DTVN do Ban quản lý Làng VHDL các DTVN trực tiếp quản lý. Ban quản lý Làng VHDL các DTVN là cơ quan trực thuộc Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch, là cơ quan tương đương tổng cục, có tư cách pháp nhân, sử dụng con dấu hình quốc huy, được mở tại kho bạc nhà nước, ngân hàng ; là đầu mối kế hoạch đầu tư và ngân sách trực thuộc Trung ương (đơn vị dự toán cấp 1), được quyết định thu chi ngân sách thuộc các lĩnh vực đầu tư phát triển hành chính sự nghiệp, các chương trình mục tiêu và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Theo Quyết định số: 95/2008/QĐ-TTg ngày 10/7/2008, nhiệm vụ chính của Ban là:
- Quy hoạch, kế hoạch phát triển hàng năm và dài hạn đối với Làng Văn hóa
- Du lịch các dân tộc Việt Nam.
- Chỉ đạo lập, phê duyệt, quản lý và giám sát thực hiện quy hoạch chi tiết các khu chức năng tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.
- Quản lý, kiểm tra việc thực hiện các biện pháp bảo vệ tài nguyên và môi trường trong Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam; xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường theo quy định của pháp luật.
- Quản lý thống nhất các hoạt động khai thác, kinh doanh, dịch vụ, sử dụng các công trình đầu tư trên địa bàn Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam; trực tiếp khai thác, kinh doanh và sử dụng các công trình do Nhà nước đầu tư và các công trình do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giao.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, nghiên cứu khoa học, sưu tầm, bảo tồn, phổ biến và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc.
- Tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, quảng bá, giới thiệu ở trong nước và nước ngoài để thu hút các nguồn vốn đầu tư cho dự án Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam bằng các hình thức phù hợp theo quy định của pháp luật; tiếp nhận hồ sơ, giải quyết theo thẩm quyền những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.
- Quản lý và tổ chức việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động và phát triển Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam.. .
Lãnh đạo của Ban gồm Đồng chí Hồ Anh Tuấn – Thứ Trưởng Bộ VHTT và DL chịu trách nhiệm là Trưởng ban quản lý Làng VHDL các DTVN (2004 đến nay) và 3 phó trưởng ban là các đồng chí Nguyễn Đình Lợi (2007 đến nay), đồng chí Nguyễn Hữu Thinh (2007 đến nay) và đồng chí Lâm Văn Khang (2011 đến nay).
1.2.2. Các đơn vị tham mưu Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Theo quyết định số: 167/2009/ QĐ- LVH ngày 23/7/ 2009 của Trưởng Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, đóng vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho Ban quản lý gồm các đơn vị trực thuộc sau:
Văn phòng: Văn phòng là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban Quản lý Làng Văn hóa Du lịch các dân tộc Việt Nam tổng hợp, điều phối, xử lý các thông tin trong chỉ đạo, điều hành đơn vị theo chương trình, kế hoạch công tác của Ban; tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ, quản trị, y tế, bảo vệ; quản lý tài chính, tài sản, cơ sở vật chất, đảm bảo điều kiện và phương tiện làm việc của Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Văn phòng có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, là đơn vị dự toán cấp II, có tài khoản tại kho bạc nhà nước và ngân hàng, được sử dụng ngân sách thuộc các lĩnh vực hành chính sự nghiệp, các chương trình mục tiêu và các lĩnh vực khác theo quyết định của Trưởng ban và quy định của pháp luật [19].
Ban tổ chức cán bộ: Ban Tổ chức Cán bộ là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam trong công tác quản lý bộ máy, tô chức cán bộ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban Tổ chức Cán bộ có Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ [19].
Ban kế hoạch- tài chính: Ban Kế hoạch Tài chính là cơ quan chuyên môn thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu, giúp Trường Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du Lịch các dân tộc Việt Nam quản lý và tổ chức thực hiện về lĩnh vực kế hoạch, đầu tư phát triển, tài chính, kế toán, thống kê theo quy định của pháp luật. Ban Kế hoạch Tài chính có Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Ban đối ngoại và xúc tiến đầu tư: Ban Đối ngoại và Xúc tiến đầu tư là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam trong công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế, xúc tiến thu hút đầu tư tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban đối ngoại và xúc tiến đầu tư có Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trường: Ban Quy hoạch, Kiến trúc và Môi trường là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban Quản lý Làng Vãn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực quy hoạch, kiến trúc và môi trường tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Là đầu mối, phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên quan tổ chức việc lập, điều chỉnh quy hoạch tổng thể, quy hoạch chung của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam để Trưởng ban trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên cạnh đó, Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trường còn chịu trách nhiệm chủ trì giúp Trưởng ban tổ chức lập, điều chỉnh, phê duyệt quy hoạch chi tiết các Khu chức năng thuộc Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam theo quy định của pháp luật. Ban quy hoạch, kiến trúc và môi trường có Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc: Ban Nghiệp vụ Văn hóa dân tộc là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng tham mưu giúp Trưởng Ban Quản lý làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch, nghiên cứu khoa học, sưu tầm, bảo tồn, phổ biến, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Xây dựng, báo cáo Trưởng ban các kế hoạch, chương trình nghiên cứu khoa học, bảo tồn, phổ biến, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc (văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể) và tinh hoa văn hóa thế giới phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam và chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện sau khi được phê duyệt. Đồng thời, Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc cũng chịu trách nhiệm chủ trì tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các hội nghị, hội thảo khoa học; biên soạn, xuất bản các tài liệu, các ấn phẩm, tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về văn hóa dân tộc phục vụ cho hoạt động và phái triên Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Ban nghiệp vụ văn hóa dân tộc có Trưởng Ban, các Phó Trưởng Ban, các công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Thanh tra: chịu trách nhiệm thanh kiểm tra các hoạt động của các đơn vị thuộc Ban quản lý Làng VHDL các DTVN.
1.2.3. Các đơn vị sự nghiệp Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Trung tâm thông tin – Dữ liệu: Trung tâm Thông tin – Dữ liệu là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa các Dân tộc Việt nam, có chức năng thu thập và quản lý thông tin, dữ liệu phục vụ cho các hoạt động của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam. Trung tâm Thông tin – Dữ liệu có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản tại kho bạc nhà nước và ngân hàng. Nhiệm vụ của Trung tâm Thông tin – Dữ liệu là nghiên cứu, thu thập, xử lý lưu trữ thông tin tư liệu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ thông tin để phục vụ cho hoạt động của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam; Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin điện tử phục vụ cho sự phát triển của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam; Quản trị hệ thống, quản trị mạng thông tin và là đầu mối kết nối kỹ thuật công nghệ với mạng thông tin của Chính phủ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các cơ quan có liên quan theo quy định của pháp luật; Tổ chức thiết kế, xây dựng, biên tập nội dung thông tin và vận hành trang Web của Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam; Tổ chức các hoạt động dịch vụ thông tin nhằm quảng bá, giới thiệu, phổ biến và phát huy các giá trị vãn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và quy định của pháp luật. (Trích theo Quyết định số: 143/2009/ QĐ – LVH ngày 23/7/2009 của Trưởng Ban quản lý Làng VHDL các DTVN)
Ban quản lý khu các làng dân tộc: Ban Quản lý Khu các làng dân tộc là đơn vị sự nghiệp có thu trực thuộc Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, có chức năng quản lý, khai thác các công trình, dự án thuộc Khu các làng dân tộc, tổ chức giữ gìn, bảo tồn, phổ biến và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật. Ban Quản lý Khu các làng dân tộc có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng; trụ sở đặt tại Đồng Mô – Sơn Tây – Hà Nội. Nhiệm vụ của Ban Quản lý Khu các làng dân tộc là tổ chức các hoạt động văn hóa, thông tin, vui chơi giải trí và các hình thức tuyên truyền giới thiệu về di sản văn hóa dân tộc phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao; Hướng dẫn, phục vụ nhân dân trong nước và khách nước ngoài tham quan, nghiên cứu tại Khu các làng dân tộc; thực hiện các hình thức tuyên truyền về văn hóa dân tộc thông qua các tài liệu, hiện vật trưng bày tại Khu các làng dân tộc; Tổ chức, sưu tầm, bảo quản tài liệu, hiện vật; trưng bày giới thiệu các tư liệu, hiện vật về văn hóa (vật thể và phi vật thể) và nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào hóat động của Ban Quản lý Khu các làng dân tộc; Tổ chức thực hiện việc duy tu, bảo dưỡng hạ tầng, cảnh quan và các công trình thuộc Khu các làng dân tộc [19].
Ban Quản lý Khu các làng dân tộc có Giám đốc và 2 Phó Giám đốc, đồng thời gồm các phòng chuyên môn nghiệp vụ như: Phòng Hành chính – tổng hợp, Phòng Tài vụ – Kế toán, Phòng Nghiệp vụ và Phòng Bảo vệ.
Tạp chí Làng Việt: Tạp chí Làng Việt là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, có chức năng nghiên cứu thông tin về văn hóa, dân tộc và du lịch, tuyên truyền phổ biến đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao. Tạp chí Làng Việt có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, có tài khoản mở tại kho bạc nhà nước và của ngân hàng. Nhiệm vụ chủ yếu của tạp chí Làng Việt là tổ chức biên tập, xuất bản, phát hành Tạp chí Làng Việt và các ấn phẩm khác theo giấy phép hoạt động, quy định của pháp luật về báo chí; Thông tin tuyên truyền chủ chương, đường lối chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và chỉ đạo của Trưởng ban về quản lý và hoạt động của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN; Nghiên cứu, giới thiệu biên soạn, dịch thuật, xuất bản các công trình nghiên cứu, sưu tầm, sưu tập phê bình, học thuật về lĩnh vực văn hóa dân tộc của Việt Nam và của nước ngoài theo quy định của pháp luật [19].
Các Ban Đầu tư và Xây dựng: gồm Ban đầu tư và xây dựng 307, Ban Đầu tư và Xây dựng 195, Ban Đầu tư và Xây dựng hạ tầng kĩ thuật chung. Nhiệm vụ chính của các Ban Đầu tư và xây dựng là thực hiện chức năng chủ đầu tư đối với các dự án nhóm B, C đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước tại Làng Văn hóa Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Du lịch các dân tộc Việt Nam đo Trưởng Ban Quản lý Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam giao. Mỗi Ban Đầu tư và Xây dựng đều là các đơn vị có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản tại kho bạc nhà nước và ngân hàng, được sử dụng ngân sách thuộc lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và các lĩnh vực khác theo quyết định của Trưởng ban và quy định của pháp luật [19].
1.3. Quy hoạch chi tiết Làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam
1.3.1. Giới thiệu chung
Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam nằm ở khu phía Nam hồ Đồng Mô (Sơn Tây, Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội về phía Tây khoảng 40 km; về phía Bắc giáp xã Kim Sơn (Sơn Tây); phía Đông giáp doanh trại quân đội, xã Sơn Đông (Sơn Tây), phía Nam giáp đường Hòa Lạc kéo dài, Sân bay Hòa Lạc, xã Yên Bình, huyện Thạch Thất và phía Tây giáp sân Goft Đồng Mô, xã Yên Bài, huyện Ba Vì, Hà Nội.
Tổng diện tích của Làng VHDL các DTVN là 1500ha, được chia thành nhiều khu vực khác nhau như: Khu các làng dân tộc, Khu Di sản văn hóa thế giới, Khu trung tâm văn hóa và vui chơi giải trí, Khu công viên bến thuyền, Khu dịch vụ, du lịch tổng hợp, Khu cây xanh mặt nước hồ Đồng Mô, Khu Quản lý điều hành văn phòng. Các công trình của Làng văn hóa nằm rải rác trên đồi, thung lũng với địa hình phong phú thể hiện sự phân bố các làng dân tộc trải rộng trên mọi miền đất nước. Các làng của các dân tộc đều được xây dựng thành quần thể tái hiện các cấu trúc làng, bản của dân tộc với kiến trúc dân gian nhằm gìn giữ, phát triển và giới thiệu các giá trị văn hóa truyền thống cộng đồng của cả 54 dân tộc Việt Nam. Mỗi một khu chức năng lại được qui hoạch riêng với nhiều công trình, hạng mục trong đó. Quan trọng nhất và là trung tâm của Làng VHDL các DTVN chính là Khu các Làng dân tộc. Đây cũng là khu vực được xây dựng hoàn chỉnh nhất so với các khu chức năng khác.
1.3.2. Khu các Làng dân tộc Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Với diện tích 198, 61 ha, nằm giữa bán đảo phía Bắc của Làng VHDL các DTVN, trên khu đất có đồi cao, có thung lũng, mặt nước, địa hình phong phú, thể hiện sự phân bố các làng dân tộc trải rộng trên mọi miền đất nước, Khu các làng dân tộc được xây dựng thành quần thể tái hiện các cấu trúc làng, bản của các dân tộc Việt Nam với quy hoạch và kiến trúc dân gian nhằm giới thiệu, gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Không chỉ tái hiện không gian văn hóa tiêu biểu của 54 dân tộc Viêt Nam, giới thiệu văn hóa và đất nước Việt nam qua các thời kì dựng nước, giữ nước, đây còn là nơi gặp gỡ, giao lưu của đồng bào các dân tộc, nơi tổ chức các hoạt động văn hóa du lịch nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam và tăng cường củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các chỉ tiêu quy hoạch xây dựng của khu đã kế thừa theo quy hoạch chi tiết được duyệt tại quyết định số 1151/ QĐ- BXĐ ngày 26 tháng 8 năm 2003 của Bộ Trưởng Bộ Xây dựng và Điều chỉnh quy hoạch chi tiết theo quyết định số 276/QĐ – LVH ngày 26/11/ 2008 của Trưởng ban quản lý Làng VHDL các DTVN với các chỉ tiêu cụ thể: Mật độ xây dựng : 11, 3% và tầng cao trung bình là 1, 1 tầng.
Khu các làng dân tộc có 04 cụm:
Cụm các Làng dân tộc I (Khu làng I): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan đặc trưng 28 dân tộc vùng rẻo cao, thung lũng, trung du thuộc các vùng văn hóa Việt Bắc, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ với hệ ngôn ngữ Tày – Thái, Tạng – Miến, Mông – Dao, Việt – Mường, Ka Đai như: Lô Lô, Pu Péo, Hà Nhì, Mường, Hmông, Dao, Thái, Khơ mú, Tày, Cống, La Hủ, Phù Lá, Si La, Bố Y, Giáy, Lào, Lự, Nùng, Sán Chay, Kháng, Mảng, Ơ đu, Xinh mun, Pà Thẻn, Cơ Lao, La Chí, La Ha, Thổ [19].
Cụm các Làng dân tộc II (Khu làng II): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan 18 dân tộc vùng cao nguyên, đồi núi thuộc các dân tộc vùng văn hóa Bắc Trung Bộ, Trường Sơn, Tây Nguyên với hệ ngôn ngữ Môn – Khơ me, Nam Đảo như: Ba na, Bru-Vân Kiều, Tà ôi, Mnông, Mạ, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Xtiêng, Rơ măm, Hrê, Cơ ho, Co, Raglai, Giarai, Ê đê, Cơ tu, Brâu, Chứt [19].
Cụm các Làng dân tộc III (Khu làng III): gồm các dân tộc cư trú ở các vùng có cảnh quan bán sơn địa, cao nguyên, đồi núi, triền sông. Với tổng diện tích 14, 91 ha, đây là khu vực tái hiện làng của những dân tộc thuộc vùng Nam Trung Bộ, Nam Bộ, bao gồm các công trình chủ yếu thuộc 4 làng dân tộc: Chăm, Khơ me, Chơ Ro, Chu ru. 12 công trình kiến trúc thuộc khu các làng dân tộc III có đặc trưng kiến trúc là nhà sàn, cột gỗ, vì kèo gỗ, mái lợp tranh, mái lá và bên cạnh các nhà ở thường có các công trình phụ phục vụ cho sinh hoạt gia đình. Làng dân tộc Chăm An Giang có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chăm Ninh Thuận có: 02 nhà ở, 01 nhà bếp, 01 chuồng gia súc, làng dân tộc Khơ me có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chu ru có: 02 nhà ở, làng dân tộc Chơ ro có: 02 nhà ở. Ngoài ra, Khu các làng dân tộc III còn có các công trình phụ trợ như cổng chào, khu dịch vụ đón tiếp, nhà triển lãm quản lý điều hành, nhà dịch vụ phục vụ nghỉ ngơi, nghiên cứu khoa học, lầu vọng cảnh và các công trình cảnh quan, cây xanh.
Trong tổng thể làng III, Tháp Chăm là công trình quan trọng nhất vì đây là biểu tượng của nền văn hóa, tôn giáo của dân tộc Chăm và là một trong những điểm nhấn của khu làng III, giữ vai trò quan trọng trong không gian kiến trúc chính. Tiếp đến là Khu chùa Khơ me, cũng là một điểm nhấn trong tổng thể của Khu các làng dân tộc III [19].
Cụm các Làng dân tộc IV (Khu làng IV): gồm các công trình văn hóa và cảnh quan các dân tộc đa văn hóa, cư trú ở vùng bán sơn địa, đồi núi, đồng bằng, duyên hải, triền sông, thị trấn, thị tứ thuộc nhiều vùng văn hóa khác nhau như: Kinh, Hoa, Ngái, Sán Dìu thuộc hệ ngôn ngữ Hán, Việt – Mường [19]. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
1.3.3. Các khu chức năng khác
Khu Trung tâm văn hóa và khu vui chơi giải trí: Diện tích 125, 22 ha, nằm trung tâm của Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, kết nối với cổng chính và các khu chức năng. Đây là một trung tâm hoạt động văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí hiện đại, đa chức năng nhưng mang đậm nét văn hóa dân tộc [19].
Khu di sản văn hóa thế giới: Với diện tích 46, 50 ha, đây là một quần thể tái hiện các công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới nhưng với qui mô thu nhỏ như Vạn Lý Trường Thành, tháp Effen, Kim tự tháp… và là một trung tâm hoạt động văn hóa sinh động giới thiệu di sản văn hóa đặc sắc của các nền văn minh trên thế giới. Các chỉ tiêu quy hoạch của khu là: Mật độ xây dựng không quá 23%; Tầng cao trung bình 1, 7 tầng;
Khu công viên bến thuyền: Quy mô diện tích 341, 53 ha( gồm 310, 04 ha mặt nước hồ Đồng Mô và 31, 49 ha đất có mặt nước). Đây là khu vực dịch vụ du lịch, nơi tổ chức các hoạt động tham quan, thể thao, du lịch dịch vụ gắn với mặt nước hồ Đồng Mô và cổng B làng VHDL các DTVN. Khu có chỉ tiêu quy hoạch là mật độ xây dựng không quá 20% (cho phần mặt đất) [19].
Khu cây xanh mặt nước hồ Đồng Mô: Quy mô diện tích 600, 9 ha (được xác định bằng phần diện tích mặt nước có ranh giới cốt nước + 20, 0 m của hồ Đồng mô). Đây là không gian sinh thái cảnh quan, mặt nước hồ Đồng Mô có sử dụng khai thác phát triển một số hoạt động sinh thái phù hợp để tăng tính hấp dẫn cảnh quan, cây xanh, mặt nước trên cơ sở đảm bảo môi trường và phát triển du lịch bền vững. [19]
Khu dịch vụ du lịch tổng hợp: Quy mô diện tích 138, 89ha. Đây là khu phức hợp các dịch vụ du lịch tổng hợp, thể thao có quy mô lớn để khai thác có hiệu quả không gian cảnh quan tự nhiên, tăng tính hấp dẫn của dự án, thu hút đầu tư phát triển. Các chỉ tiêu quy hoạch của khu: Mật độ xây dựng không quá 23%, Tầng cao trung bình 3, 5 tầng. [19]
Khu quản lý điều hành văn phòng: Quy mô diện tích 78, 5ha, bao gồm: khu 1 rộng 10, 53 ha và khu 2 rộng 67, 97ha. Khu 1 là khu văn phòng, quản lý điều hành trung tâm toàn Làng VHDL các DTVN; Khu 2 là khu nhà công vụ của cán bộ nhân viên của Làng VHDL các DTVN thực hiện nhiệm vụ quản lý, khai thác, vận hành thường xuyên; là nơi ăn ở, sinh hoạt của đồng bào trong cả nước trong các hoạt động thường xuyên, theo các dịp lễ hội nhằm tái hiện đời sống lao động sản xuất, sinh hoạt văn hóa lễ hội của 54 dân tộc và là nơi đón tiếp các đoàn khách trong nước và quốc tế tới tham quan hàng năm. Các chỉ tiêu quy hoạch dự kiến: Khu 1- khu quản lý điều hành văn phòng: Mật độ xây dựng không quá 22%, Tầng cao trung bình là 3, 0 tầng; Khu 2 – khu nhà công vụ và đón tiếp: Mật độ xây dựng không quá 28, 0%, Tầng cao trung bình là 6, 0 tầng [19].
Mặc dù có qui hoạch tổng quan như vậy, nhưng phần lớn các khu chức năng tại Làng VHDL các DTVN vẫn chưa được hoàn thành và đang được kêu gọi hợp tác đầu tư, cụ thể là: Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
- Khu Trung tâm văn hóa và vui chơi giải trí: kêu gọi các dự án đầu tư Tổ hợp vui chơi giải trí; Dự án đầu tư trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật biểu diễn; Dự án đầu tư trong lĩnh vực thể thao có gắn với mặt nước hồ Đồng Mô.
- Khu Dịch vụ, du lịch tổng hợp: kêu gọi đầu tư Phức hợp các dịch vụ thể thao, nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khoẻ; Các khách sạn, biệt thự cao cấp, có sử dụng mặt nước hồ Đồng Mô.
- Khu Di sản văn hóa thế giới: kêu gọi Các dự án đầu tư giới thiệu các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của thế giới; Các dự án đầu tư giới thiệu các tinh hoa văn hóa của nhân loại.
- Khu Công viên bến thuyền và Khu cây xanh mặt nước hồ Đồng Mô: kêu gọi các dự án đầu tư trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch có gắn với mặt nước hồ Đồng Mô; Phức hợp các dịch vụ nghỉ dưỡng, chăm sóc sức khoẻ có gắn với mặt nước hồ Đồng Mô.
Ngay cả Khu các Làng dân tộc, cho đến nay là khu chức năng được nhà nước đầu tư hoàn thiện và hoàn chỉnh nhất, cũng đang kêu gọi đầu tư một số hạng mục mới, cụ thể là:
Khu đón tiếp khách và dịch vụ: Là nơi trưng bày và bán các sản phẩm đặc trưng của mỗi dân tộc, hội chợ mua bán quà tặng, các cửa hàng ăn đồ dân tộc, các thuyền xưa của các dân tộc, làng nghề làm thuyền, khu câu cá, . ..
Khu nghi lễ dân gian và biểu tượng các dân tộc: Những công trình mang tính biểu tượng, xác định sự hiện diện của các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Khu lễ hội lịch sử: Nơi sẽ diễn ra các hoạt động Hội mùa, biểu diễn và thể thao dân tộc, với các không gian đa năng, phù hợp với nhiều chủ đề, phục vụ các hoạt động đông người như: biểu diễn, lễ hội, trò chơi, thể thao với quy mô hoành tráng, hấp dẫn.
Khu nghi lễ thờ tổ: Bao gồm trung tâm nghi lễ thờ tổ, khu truyền thuyết Âu Lạc, công viên không gian, trung tâm nghi lễ hội mùa, khu vườn điêu khắc dân gian, tháp vọng cảnh.. .
Khu Lâm viên: Bao gồm các khu vực trồng cây xanh, mặt nước tạo cho du khách có được cảm giác hòa mình vào thiên nhiên trong lành.
Hy vọng trong tương lai gần, với sự quan tâm của nhà nước, sự nỗ lực không ngừng của Ban quản lý Làng VHDL các DTVN, cùng với sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như của những người có tâm với dự án bảo lưu, giữ gìn những vốn quí của văn hóa dân tộc, một mô hình Làng VHDL các DTVN hoàn chỉnh sẽ được hoàn thành, trở thành một trong những trung tâm văn hóa du lịch lướn của cả nước, là điểm dừng chân không thể thiếu của mỗi du khách khi đến với thủ đô Hà Nội – Việt Nam. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của đề tài đã tổng quan được Làng VHDL các DTVN, quá trình hình thành và phát triển cũng như công tác quản lý Làng VHDL các DTVN. Chương 1 có cái nhìn hoàn chỉnh về quy hoạch của Làng VHDL các DTVN. Những kết quả nghiên cứu của chương 1 sẽ là tiền đề cho những nghiên cứu sẽ được triên khai ở chương 2 và chương 3.
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, 54 dân tộc anh em đã đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; đồng thời không ngừng sáng tạo, trao truyền, bồi đắp nền văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, kết tinh thành giá trị văn hóa truyền thống, mang bản sắc dân tộc Việt Nam hết sức đặc sắc, độc đáo. Ðảng và Nhà nước ta luôn chú trọng thực hiện nhất quán chính sách bình đẳng, đại đoàn kết các dân tộc, quan tâm chăm lo phát triển văn hóa, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Các chủ trương, chính sách phát triển văn hóa ngày càng được hoàn thiện, nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đẩy mạnh giao lưu quốc tế, xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Khóa luận: Tìm hiểu Làng Văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cũng khẳng định: Hoạt động giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, các địa phương, vùng, miền, tôn vinh bản sắc văn hóa của các dân tộc sẽ góp phần tích cực trong bảo tồn, quảng bá và phát triển văn hóa Việt Nam, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam và tạo động lực cho sự phát triển phồn vinh của đất nước.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Thực trạng làng văn hóa du lịch các dân tộc Việt Nam