Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1 Quy định pháp luật về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
2.1.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh trong đó “tiền tệ” là hàng hóa. Lãi suất với vai trò giá cả của tiền tệ luôn đóng vai trò trung tâm và là một nội dung quan trọng của hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Đối với hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng thương mại, vấn đề lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất luôn có tác động chi phối rất lớn, ảnh hưởng đến chính sách cho vay và huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Căn cứ vào từng loại chính sách của Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng thương mại đưa ra mức lãi suất kinh doanh và mức lãi suất điều hòa vốn nội bộ trong toàn hệ thống của mình trên cơ sở tuân thủ lãi suất chỉ đạo của Ngân hàng Trung ương. Lãi suất huy động và lãi suất cho vay là hai công cụ quan trọng mà các ngân hàng dùng để nâng cao thế mạnh tài chính của mình, góp phần vào ổn định và phát triển nền kinh tế. Thông qua việc can thiệp vào lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn của Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương có thể thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ, ổn định lạm phát tỷ giá. Quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại phụ thuộc vào cơ chế lãi suất của NHTW. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
2.1.1.1 Quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Sau khi luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng có hiệu lực vào năm 1998, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã áp dụng cơ chế lãi suất trần để điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Bước đầu, các Ngân hàng thương mại đã có quyền tự chủ quyết định lãi suất huy động trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng công bố mức lãi suất cơ bản để các Ngân hàng thương mại tham khảo để ấn định lãi suất kinh doanh trên thị trường
Năm 2006, thời điểm Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực với điều khoản quy định về lãi suất hợp đồng vay tài sản: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố với loại cho vay tương ứng”[1].
Quy định này trên thực tế đã gây ra những xáo trộn rất lớn đối với việc điều hành cơ chế lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại hoang mang, hàng loạt các hợp đồng vay tiền liên quan đến các ngân hàng có khả năng bị xem là vô hiệu lực vì vi phạm điều khoản về lãi suất. Quy định về trần lãi suất cho vay trong Bộ luật Dân sự không chỉ áp dụng cho các quan hệ dân sự thuần túy mà áp dụng cả cho các hợp đồng vay trong “kinh doanh, thương mại, lao động”. Điều đó có nghĩa, xét từ góc độ văn bản, lãi suất trần cho vay được áp dụng cho tất cả các hợp đồng vay; hợp đồng giữa tổ chức tín dụng và cá nhân hay doanh nghiệp cũng chịu sự chi phối của các quy định này. Không chỉ vậy, quy định về lãi suất đã gây ra những cách hiểu và cách tính toán mức lãi suất cho vay tối đa của Bộ luật Dân sự năm 2005 khác nhau: giá trị 150% là của phần vượt quá so với lãi suất cơ bản (mức lãi suất thỏa thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản + lãi suất cơ bản x 150%) hay là tỷ lệ so sánh thuần túy giữa mức lãi suất thỏa thuận với lãi suất cơ bản trong giới hạn luật định là 150% (mức lãi suất thỏa thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản x 150%)[2]. Trong khi đó hợp đồng tín dụng cũng được coi là hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005[3]. Bên cạnh đó với cách quy định như vậy, có thể hiểu rằng đây chỉ là điều cấm chứ không có chế tài: Bộ luật cấm thỏa thuận lãi vượt qua một mức nào đó chứ không nêu chế tài khi thỏa thuận vượt quá mức cho phép. Trong thực tế, hợp đồng không vô hiệu mà chỉ có điều khoản về lãi là không có giá trị pháp lý và cần phải tính lại lãi. Do không có chế tài dân sự cụ thể, nên việc tính lại lãi suất không thực sự thống nhất trong thực tiễn pháp lý[4]. Trước tình hình đó, Ngân hàng Nhà nước không có câu trả lời cho hàng loạt các vướng mắc nảy sinh. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Sau hàng loạt những yêu cầu và kiến nghị, hai năm sau, với ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản trình Thường trực Chính phủ xem xét, nhất trí tại văn bản số 3168/VPCP-KTTH ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản của Văn phòng Chính phủ. Trên cơ sở đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng Đồng Việt Nam. Cụ thể, văn bản này quy định: “Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Định kỳ hàng tháng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố lãi suất cơ bản. Trong trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố điều chỉnh kịp thời lãi suất cơ bản”[5].
Văn bản này về cơ bản thiết lập lại sự thống nhất về đường lối điều chỉnh lãi suất cơ bản của hệ thống pháp luật tài chính ngân hàng và Bộ luật Dân sự năm 2005. Nhìn một cách tổng thể, sau một thời gian áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, chúng ta lại quay về với cơ chế lãi suất trần, tuy được thể hiện bằng một phương thức hiện đại hơn. Tuy nhiên Quyết định số 16/2008 chỉ giải quyết tạm thời trước mắt những khó khăn trong giai đoạn lạm phát trong nước có dấu hiệu gia tăng. Vì thiếu tính định hướng chiến lược cho nên các quy định về lãi suất huy động và lãi suất cho vay không phù hợp với các đối tượng khách hàng và các Tổ chức tín dụng có mức độ tín nhiệm khác nhau. Lãi suất trần không vượt quá 150% lãi suất cơ bản đã tạo ra sự bất bình đẳng khi Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định một mức lãi suất cơ bản với các thời hạn tín dụng khác nhau.
Năm 2010, Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng được ban hành đã có những thay đổi quan trọng trong việc điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Trên cơ sở Luật các Tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước đã có những điều chỉnh linh hoạt lãi suất huy động của Ngân hàng thương mại bằng việc ban hành hàng loạt
Thông tư cũng như Quyết định điều chỉnh mức lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam và mức lãi suất huy động vốn bằng đồng đô la Mỹ đối với các hình thức gửi tiền.
Từ năm 2010 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành cơ chế điều hành lãi suất thỏa thuận song song với cơ chế mức trần lãi suất huy động vốn.
- Lãi suất huy động vốn bằng đồng Việt Nam Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Từ việc quy định mức lãi suất trần đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam dưới mọi hình thức, Ngân hàng Nhà nước đã dần tạo sự chủ động linh hoạt cho các Ngân hàng thương mại trên cơ sở cung- cầu vốn trên thị trường khi áp dụng mức lãi suất tối đa với các hình thức khác nhau. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục giảm mức lãi suất huy động vốn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với hình thức gửi tiền không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 6 tháng. Đối với lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam có kỳ hạn lớn hơn 6 tháng, Ngân hàng Nhà nước cho phép Ngân hàng thương mại và khách hàng được thỏa thuận với nhau. Điều này chứng tỏ Ngân hàng Nhà nước đã từng bước xóa bỏ cơ chế trần lãi suất huy động, hướng tới cơ chế lãi suất thỏa thuận để phù hợp với nhu cầu cung-cầu về vốn trên thị trường, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên việc gỡ bỏ cơ chế trần lãi suất vẫn được Ngân hàng Nhà nước thực hiện một cách thận trọng để không gây ra những tác động xấu đến nền kinh tế.
- Lãi suất đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ
Để tiếp tục thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện chủ trương chống đô la hóa của Chính phủ, chuyển từ quan hệ huy động – cho vay bằng ngoại tệ sang quan hệ mua – bán bằng ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước cũng đã có những điều chỉnh về mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đô la Mỹ theo hướng giảm dần. Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất tối đa bằng đô la Mỹ đối với các hình thức gửi tiền không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác của tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân ở mức 0%/năm.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.1.2 Quy định về lãi suất trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Lãi suất cho vay là một trong những yếu tố quan trọng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Việc quyết định lãi suất cho vay sẽ phải dựa trên các thông số về mức độ kỳ vọng sinh lời của Ngân hàng thương mại, rủi ro tín dụng và tỷ lệ an toàn vốn.
Từ cuối năm 2001, các Ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận theo Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/2/2002 và Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 30/11/2001.
“1.Lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và Ngân hàng thương mại. Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
2.Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do tổ chức tín dụng ấn định vầ thoả thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp đồng tín dụng.”14
Quy định lãi suất cho vay theo cơ chế điều hành lãi suất cơ bản Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Đến năm 2006, cũng giống như lãi suất huy động vốn, khi Bộ luật Dân sự năm 2005 được ban hành, lãi suất cho vay đã bị giới hạn. Theo quy định tại Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN thì lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với các loại cho vay tương ứng. Tuy nhiên đối với khoản vay bằng đô la Mỹ mà doanh nghiệp đề nghị vay vốn ngân hàng để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu để mua máy móc, thiết bị để sản xuất các mặt hàng phục vụ xuất khẩu, các ngân hàng vẫn có quyền thỏa thuận lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ đối với khách hàng dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung-cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước do mức lãi suất cơ bản chỉ áp dụng với đồng Việt Nam.
Liên quan đến lãi suất quá hạn, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định 1627 đã quy định không thống nhất. Theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì trường hợp không trả được hoặc trả không đầy đủ nợ đến hạn, khách hàng vay phải trả cho ngân hàng khoản tiền lãi bằng lãi trong hạn cộng với lãi quá hạn. Lãi trong hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế và theo lãi suất cho vay trong hạn được quy định trong hợp đồng tín dụng. Lãi quá hạn được tính trên dư nợ gốc thực tế quá hạn và theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố với tương ứng với thời hạn cho vay tại thời điểm trả nợ. Trong khi đó Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số 1627 không phân chia lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc thực tế quá hạn bao gồm lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn như quy định nói trên của Bộ luật Dân sự mà cho phép khách hàng tự thỏa thuận nhưng không vượt quá lãi suất cho trong hạn. Điều này đã gây ra những cách hiểu khác nhau về cách tính lãi nợ quá hạn, dẫn đến những tranh chấp phát sinh giữa khách hàng và ngân hàng. Trên thực tế xét xử, Tòa án cũng không có được sự thống nhất về cách tính lãi nợ quá hạn này.
Quy định về lãi suất cho vay theo cơ chế lãi suất thỏa thuận
Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng được ban hành ngày 26/02/2010, theo đó, quy định Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng phù hợp với quy định của pháp luật trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, mức độ tín nhiệm khách hàng vay. Ngày 14/4/2010, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn Tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận: “TCTD thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống có hiệu quả[6]”. Như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu đối với các dự án, phương án “không có hiệu quả” hoặc không tính được hiệu quả thì lãi suất sẽ được tính như thế nào hay vẫn phải thực hiện chế độ trần lãi suất cho vay quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005? Thêm vào đó, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN cũng chưa giải thích tiêu chí cho việc đánh giá một dự án, phương án sản xuất, kinh doanh là có hiệu quả hay không có hiệu quả. Đây được coi là một trong những bất cập của pháp luật khi quy định về lãi suất cho vay theo cơ chế thỏa thuận. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 được thông qua ngày 16/6/2010 quy định Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật . Tuy nhiên trong trường hợp ngân hàng có diễn biến bất thường, để đảm bảo an toàn hệ thống Tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Tổ chức tín dụng. Từ đó cho thấy pháp luật trao cho các Tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn quyền thỏa thuận lãi suất trong hợp đồng tín dụng nhưng Ngân hàng Nhà nước vẫn đóng vai trò kiểm soát hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Ngày 24/11/2015, Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành trong đó có những thay đổi quan trọng trong quy định về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản đã gây ra những tranh cãi xung quanh quy định về lãi suất trong Luật các Tổ chức tín dụng khi quy định về lãi suất trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 có sự “vênh” nhau.
Luật các tổ chức tín dụng đã đưa ra một điều khoản riêng quy định về phí và lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tất cả các loại hình Tổ chức tín dụng. Theo đó, Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về mức lãi suất trong hoạt động cho vay. Như vậy, trong điều kiện bình thường lãi suất trong hoạt động ngân hàng sẽ thực hiện theo cơ chế tự thỏa thuận. Tuy nhiên cụm từ “theo quy định của pháp luật” trong Khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng đã gây ra những cách hiểu khác nhau khi so sánh với quy định mới về lãi suất tại Bộ luật Dân sự năm 2015: “Các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”[7].
Với quy định về lãi suất trong Luật các Tổ chức tín dụng, đã đặt ra câu hỏi liệu lãi suất áp dụng trong hoạt động ngân hàng có chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, trong đó có quy định về trần lãi suất cho vay? Trong khi đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định trực tiếp việc loại trừ áp dụng trần lãi suất cho vay đối với hoạt động ngân hàng mà chỉ loại trừ trong trường hợp “luật khác có liên quan có quy định khác” mà luật khác ở đây được hiểu là pháp luật chuyên ngành.
Về mặt bản chất, hợp đồng vay tài sản cũng như hợp đồng tín dụng là một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải bảo đảm tuân thủ quy định trong Bộ luật Dân sự, theo đó các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về lãi suất nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy định trần lãi suất giúp Nhà nước có thể điều tiết thị trường vay trong trường hợp cần có sự ổn định của kinh tế – xã hội, định hướng chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế việc cho vay nặng lãi.
Tuy nhiên để bảo đảm không biến lãi suất trần trở thành công cụ pháp lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với các quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng yêu cầu của những biến động về kinh tế – xã hội[8]. Chính vì vậy, tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế, đó là: i) Căn cứ vào tình hình thực tế, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam điều chỉnh lãi suất theo đề nghị của Chính phủ; ii) Luật khác có liên quan quy định mức lãi suất riêng cho các quan hệ cho vay đặc thù. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất thì sẽ áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật khác có liên quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho quan hệ tín dụng của các Ngân hàng thương mại mà còn có thể áp dụng cho loại vay đặc thù vay khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển, v.v nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay này bằng cơ chế lãi suất riêng. Điều đó có nghĩa là nếu Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các hợp đồng tín dụng thì các Tổ chức tín dụng sẽ áp dụng theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010.
Tuy nhiên, theo tinh thần quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng hiện hành, thực tiễn cho thấy chưa thực sự áp dụng một cơ chế lãi suất riêng cho các hợp đồng tín dụng, mặc dù xét về mục đích chính sách pháp luật thì quy định này là mong muốn của nhà làm luật. Nhưng xét về mặt kỹ thuật lập pháp quy định này đã và đang dẫn đến những cách hiểu khác nhau, kể cả trong công tác xét xử của Tòa án và điều đó không có lợi cho các chủ thể trong hợp đồng tín dụng trước những rủi ro pháp lý có thể xảy ra trong thi hành pháp luật. Khoản 2 Điều 91 cho phép Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất trong hợp đồng tín dụng trong giới hạn “theo quy định của pháp luật”. Cụm từ này khiến các Tổ chức tín dụng, khách hàng có quan hệ tín dụng với Tổ chức tín dụng và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật lúng túng không biết nên theo pháp luật tín dụng ngân hàng (không áp dụng trần lãi suất cho vay) hay theo pháp luật dân sự (áp dụng trần lãi suất cho vay). Vì “theo quy định của pháp luật” tức là vẫn có thể hiểu phải theo quy định của Bộ luật Dân sự, trường hợp Ngân hàng Nhà nước ban hành thông tư, quyết định có quy định riêng về lãi suất khác với quy định của Bộ luật Dân sự thì đâu là quy định ưu tiên áp dụng? Hiện nay, các ngân hàng đều cho rằng, việc doanh nghiệp vay tiền ngân hàng là các khoản vay thương mại, chứ không phải là khoản vay dân sự. Thực tế, việc tính lãi suất cho vay thương mại này không do Bộ luật Dân sự điều chỉnh mà do hướng dẫn ngành dọc của ngân hàng điều chỉnh[9]. Vì không có sự thống nhất và rõ ràng về nguồn luật điều chỉnh nên chưa có căn cứ để khẳng định, quy định trên có ảnh hưởng tới việc điều chỉnh lãi suất vay ngân hàng. Từ đó, rất nhiều tranh chấp liên quan đến vấn đề này, khi xét xử Tòa án đã căn cứ vào lãi suất quy định trong Bộ luật Dân sự để giải quyết.
Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN (Thông tư 39) quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/3/2017 đã giải quyết được những mâu thuẫn, tranh cãi xung quanh vấn đề lãi suất cho vay được quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 cũng như các bất cập nảy sinh trong quá trình áp dụng các Thông tư, Quyết định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước trước đó như sau:
Một là, Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thì lãi suất thỏa thuận không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định trong từng thời kỳ nhằm đáp ứng một số nhu cầu vốn. Như vậy, quy định về trần lãi suất chỉ áp dụng đối với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên quy định tại Thông tư 39. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Hai là, Thông tư 39 bổ sung quy định về nghĩa vụ trả lãi cho tiền lãi chậm trả, cụ thể: Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do Tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Ba là, Thông tư 39 cũng quy định trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên phần dư nợ gốc bị quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất áp dụng do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.
Bốn là, thỏa thuận cho vay giữa Tổ chức tín dụng và khách hàng phải có nội dung thỏa thuận về mức lãi suất cho vay và phương pháp tính lãi đối với khoản vay. Trường hợp mức lãi suất cho vay không quy đổi theo tỷ lệ %/năm và/hoặc không áp dụng phương pháp tính lãi theo số dư nợ cho vay thực tế, thời gian duy trì số dư nợ gốc thực tế đó, thì trong thỏa thuận cho vay phải có nội dung về mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm (1 năm là 365 ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó.
Năm là, trường hợp áp dụng lãi suất cho vay điều chỉnh, tổ chức tín dụng và khách hàng phải thỏa thuận nguyên tắc và các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh, thời điểm điều chỉnh lãi suất cho vay. Trường hợp căn cứ các yếu tố để xác định lãi suất điều chỉnh dẫn đến có nhiều mức lãi suất cho vay khác, thì tổ chức tín dụng áp dụng mức lãi suất cho vay thấp nhất.
Như vậy hiện tại, lãi suất cho vay trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại sẽ không chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự 2015 về trần lãi suất cho vay. Do đó các Ngân hàng thương mại được cho vay theo lãi suất thỏa thuận không có trần lãi suất trừ quy định về trần lãi suất áp dụng với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên.
2.1.2 Quy định về lãi suất trong hoạt động điều hành chính sách tiền tệ Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
NHNN không chỉ thực hiện quản lý lãi suất thông qua thị trường 1 mà còn thực hiện quản lý lãi suất thông qua thị trường 2 để điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất được Ngân hàng Trung ương dùng như là một công cụ thực thi chính sách tiền tệ, do đó Ngân hàng Trung ương áp dụng đối với các Ngân hàng thương mại với tư cách là người cho vay cuối cùng thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu các giấy tờ có giá; nghiệp vụ tái cấp vốn. Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu để điều tiết tiền tệ và tác động gián tiếp tới lãi suất kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Do đó các loại lãi suất này là cơ sở để các Ngân hàng thương mại áp dụng hình thành nên lãi suất giao dịch với các doanh nghiệp, khách hàng.
Điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 quy định:
“1. Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi.
2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.”
Đối với nước ta, cơ chế điều hành lãi suất có sự thay đổi qua nhiều giai đoạn. Trong giai đoạn từ năm 2008 trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã có những điều chỉnh về lãi suất trong quan hệ giữa Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại (lãi suất trên thị trường 2) cụ thể:
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, ngày 1/2/2009, thực hiện chủ trương của Chính phủ và căn cứ vào tình hình thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước cho phép các Ngân hàng thương mại thực hiện lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay tiêu dùng và khoản vay trung hạn, dài hạn phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN cho phép các Tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam theo cơ chế lãi suất thỏa thuận. Đồng thời để hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ và giảm sức hấp dẫn của việc nắm giữ USD, Ngân hàng Nhà nước cũng ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tối đa tiền gửi bằng ngoại tệ đối với khách hàng là tổ chức kinh tế, mức lãi suất tiền gửi theo cơ chế thỏa thuận đối với khách hàng là cá nhân. Trong giai đoạn này, Ngân hàng Nhà nước cũng công bố lãi suất cơ bản hàng tháng nhằm điều tiết lãi suất thị trường.
Năm 2010, tình hình lãi suất trong nước diễn ra khá ổn định và các loại lãi suất chạy sát với mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước. Nhưng đến tháng 11/2010 thì tình hình bắt đầu nóng lên, thanh khoản các ngân hàng bắt đầu thiếu hụt khi lượng vốn huy động từ dân cư bị hạn chế do lãi suất huy động thấp hơn lạm phát kỳ vọng. Lãi suất liên ngân hàng không những vượt lên những đỉnh cao mới mà còn bung ra khỏi mô mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước. Thời gian này, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam không còn phát huy tác dụng đối với chính sách tiền tệ vì lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố có tính chất hành chính vì nó được làm cơ sở để xác định trần lãi suất cho vay nhưng Ngân hàng Nhà nước không có cơ chế “bảo vệ hữu hiệu” cho mức lãi suất này nên trong thực tế khi thị trường khan hiếm vốn, các Ngân hàng thương mại tìm cách lách trần lãi suất. Hơn nữa, lãi suất cơ bản dường như tách rời không có liên hệ với hai công cụ còn lại của Ngân hàng Nhà nước là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu khi Ngân hàng Nhà nước sử dụng lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất trần còn lãi suất tái chiết khấu làm lãi suất sàn để điều tiết lãi suất liên ngân hàng nằm trong biên độ trần sàn, từ đó gián tiếp tác động đến lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại trong khi đó lãi suất cơ bản lại tác động trực tiếp tới dân chúng và doanh nghiệp. Tuy nhiên trên thực tế do việc xác định quy mô tổng hạn mức chiết khấu, tổng hạn mức tái cấp vốn chưa thật sự linh hoạt để một mặt bám sát với nhu cầu thị trường nhưng mặt khác vẫn đảm bảo được mục tiêu của mức cung tiền, nên lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu không hiếm lần trở nên lạc lõng, mất vai trò trần/sàn của mình khi nhiều lần lãi suất liên ngân hàng liên tục vượt trần, thậm chí gấp 2-3 lần lãi suất trần[10]. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Trong năm 2011, khi lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước đã tăng dần các mức lãi suất chủ chốt. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước đã 5 lần tăng lãi suất tái cấp vốn (từ mức 9%/năm lên mức 15%/năm) và lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng (từ mức 9%/năm lên mức 16%/năm); lãi suất tái chiết khấu cũng 3 lần tăng (từ mức 7%/năm lên mức 13%/năm) để ngăn chặn lạm phát và ổn định tỷ giá. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp (quy định trần lãi suất huy động và lãi suất cho vay đối với đồng Việt Nam và ngoại tệ). Việc Ngân hàng Nhà nước tăng mạnh các lãi suất chủ chốt trên thị trường liên ngân hàng cũng khiến nguồn cung tiền từ Ngân hàng Trung ương bị thắt lại mạnh mẽ, buộc các ngân hàng phải áp dụng biện pháp truyền thống tăng lãi suất huy động để hút vốn. Tuy nhiên, trần lãi suất huy động đã bị khống chế ở mức 14%/năm cũng khiến các Ngân hàng thương mại quy mô nhỏ gặp bất lợi so với các ngân hàng lớn trong việc hút vốn. Trong khi các ngân hàng nhỏ đang phải chịu áp lực về tăng trưởng. Điều này đã buộc các ngân hàng này thường xuyên phải lách luật, châm ngòi cho các cuộc đua lãi suất. Cạnh tranh hút vốn của các ngân hàng tái diễn không chỉ khiến mặt bằng lãi suất huy động đang vượt “trần”, mà còn tạo áp lực lạm phát do chi phí đẩy đang mạnh lên cùng với việc hàng loạt các mặt hàng thiết yếu tăng giá. Khi lãi suất đầu vào bị đẩy lên cao, lãi suất đầu ra cũng bắt buộc tăng để ngân hàng đảm bảo lợi nhuận, do đó cản trở quá trình giảm lãi suất theo chủ trương của Chính phủ. Bởi lãi suất đầu ra sẽ bằng lãi suất danh nghĩa gồm chi phí thu hút vốn, cộng với phần lợi nhuận dự kiến của ngân hàng. Hơn nữa, áp lực tăng lãi suất này đang tăng gánh nặng chi phí lên nền kinh tế. Không ít doanh nghiệp sẽ không thể “kham” được mức lãi suất vay quá cao, khi đó dòng vốn sẽ không thể hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, điều đó sẽ kìm hãm tăng trưởng. Hoặc nếu phải vay lãi suất cao, doanh nghiệp sẽ khó khăn trong việc cân đối lợi nhuận, thậm chí đứng trước nguy cơ thua lỗ, phá sản[11]. Như vậy vô tình rủi ro đẩy về phía ngân hàng khi nợ xấu tăng, nền kinh tế bị đe dọa về tăng trưởng bền vững. Trong bối cảnh các dòng tiền trong lưu thông đang bị siết lại để ngăn chặn lạm phát, nếu không quản lý được lãi suất đầu ra, áp lực lạm phát do chi phí đẩy lên nền kinh tế sẽ càng gia tăng.
Từ năm 2012 trở lại đây với mục tiêu giảm và ổn định lãi suất thị trường để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, các mức lãi suất này đã được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm dần. Ngân hàng Nhà nước từng bước cho phép các Tổ chức tín dụng được chủ động quyết định mức lãi suất huy động đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên và sau đó là kỳ hạn từ 6 tháng trở lên. Đến thời điểm hiện tại, mức lãi suất này được áp dụng theo Quyết định số 496/QĐ – Ngân hàng Nhà nước ngày 17/03/2014: Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
- Lãi suất tái cấp vốn: 6,5%/năm.
- Lãi suất tái chiết khấu: 4,5%/năm.
- Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng: 7,5%/năm.
Bên cạnh đó, ngày 9/9/2013, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 20/2013/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của Công ty Quản lý tài sản của các Tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC). Hiện Thông tư này đã được thay thế bởi Thông tư số 18/2015/TT-NHNN ngày 22/10/2015.
Trong đó, trái phiếu đặc biệt được phát hành dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử với mệnh giá có giá trị bằng giá mua của khoản nợ xấu. Trái phiếu đặc biệt được phát hành bằng đồng Việt Nam có thời hạn tối đa 5 năm và lãi suất bằng 0%; được sử dụng để vay tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước. Về mức lãi suất tái cấp vốn trái phiếu đặc biệt sẽ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ. Lãi suất tái cấp vốn quá hạn bằng 150% lãi suất tái cấp vốn ghi trên hợp đông tín dụng giữa Ngân hàng Nhà nước và Tổ chức tín dụng.
Theo Thông tư 18/2015/TT-NHNN, thì các Ngân hàng thương mại có thể vay tái cấp vốn Ngân hàng Nhà nước trên cơ sở trái phiếu đặc biệt VAMC, với giá trị lên đến 70% tổng mệnh giá trái phiếu đặc biệt, nhưng nếu là tổ chức tín dụng đang tái cơ cấu thì có thể được vay tái cấp vốn lên tới 100% mệnh giá trái phiếu đặc biệt. Hiện nay, lãi suất tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt VAMC hiện thấp hơn 2% mức lãi suất tái cấp vốn thông thường (theo Quyết định số 2358/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 4/12/2013), tức ở mức 4,5%.
Như vậy, các Ngân hàng thương mại khi cần vốn có thể cầm trái phiếu đặc biệt đến Ngân hàng Nhà nước và vay tái cấp vốn với lãi suất khá ưu đãi. Với giá trị trái phiếu đặc biệt VAMC hơn 230 nghìn tỷ đồng (cập nhật đến 22/12/2016), thì nguồn tái cấp vốn qua kênh này là rất lớn. Từ năm 2015 trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước cũng đã tăng tái cấp vốn qua trái phiếu đặc biệt VAMC để tái tạo nguồn cũng như hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng, từ đó góp phần ổn định mặt bằng lãi suất.
Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống từ mức 6,5% như hiện nay, thì dĩ nhiên lãi suất tái cấp vốn qua trái phiếu đặc biệt VAMC cũng sẽ giảm theo, đảm bảo chênh lệch duy trì ở mức 2%, và khi đó các Ngân hàng thương mại có thể tiếp cận nguồn vốn qua kênh này với chi phí rẻ hơn, do đó càng tạo điều kiện để không gây áp lực lên mặt bằng lãi suất huy động từ thị trường
2.1.3 Quy định về thanh tra, giám sát, tuân thủ quy định về lãi suất Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Để đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, an toàn hoạt động của tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ, Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước chính là kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và ngân hàng theo quy định của pháp luật. Nghị định số 26/2014/NĐ-CP ngày 7/4/2014 đã quy định chi tiết về tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Theo quy định tại Điều 55 và Điều 57 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và trong các quy định của Nghị định số 26/2014/NĐ-CP thì việc thanh tra, giám sát tuân thủ quy định về lãi suất cũng là một nội dung của thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, quy định về thanh tra, giám sát tuân thủ quy định về lãi suất cũng được quy định trong các thông tư của Ngân hàng Nhà nước, cụ thể:
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (Cục I, Cục II) và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố chủ động theo dõi, nắm bắt thông tin và giám sát việc chấp hành lãi suất huy động của các Tổ chức tín dụng thuộc chức năng quản lý trên địa bàn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về lãi suất huy động đối với các Tổ chức tín dụng thuộc chức năng quản lý trên địa bàn; xử lý nghiêm theo quy định đối với những trường hợp vi phạm, quy trách nhiệm cụ thể đối với cá nhân, tổ chức liên quan (nếu có).
Trường hợp phát hiện và áp dụng các hình thức xử lý Tổ chức tín dụng có vi phạm liên quan đến việc chấp hành quy định về lãi suất, đề nghị đơn vị gửi báo cáo nhanh (kèm văn bản, quyết định xử lý) về Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Văn phòng Ngân hàng Nhà nước) để công bố trên Website của Ngân hàng Nhà nước.
2.2 Ưu điểm và hạn chế trong các quy định hiện hành về lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
2.3.1 Hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại
Việc ban hành cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận nhằm đảm bảo sự ổn định hoạt động của thị trường tiền tệ, đáp ứng tăng vốn cho các nhu cầu hợp lý, chính đáng của nền kinh tế. Cơ chế này cũng nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống ngân hàng và giảm mặt bằng lãi suất. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Trước đây khi áp dụng cơ chế trần lãi suất với trần lãi suất là 12%, nhưng trên thực tế nhiều ngân hàng đã tìm mọi cách để áp dụng các mức phí để tăng lãi suất cho vay lên cao đến 14-15%. Điều này vô hình chung đã làm méo mó thị trường, gây ra nhiều tiêu cực trong quá trình giải quyết bài toán về vốn.
Các quy định về lãi suất cho vay theo thỏa thuận được áp dụng đã có những hiệu ứng tích cực với hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại cũng như nền kinh tế cụ thể:
Một là, Cơ chế cho vay thỏa thuận hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu thị trường, chống những tiêu cực như tự do khuyến mãi, tự do cộng phí… chấm dứt tình trạng “phí ngầm” mà Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát.
Hai là, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng, mức độ rủi ro của từng khách hàng, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh của khách hàng và một số yếu tố liên quan khác. Sự phân hóa khách hàng cũng sẽ diễn ra rõ hơn: khách hàng có uy tín cao sẽ được hưởng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín sẽ phải chịu lãi suất cao với mức độ khác nhau rõ rệt.
Ba là, tăng tính cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại, đòi hỏi các ngân hàng phải có những mức lãi suất hợp lý để thu hút khách hàng qua đó làm giảm lãi suất cho vay.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi mà cơ chế lãi suất thỏa thuận mang lại thì việc áp dụng cơ chế này đã gây ra không ít khó khăn bất cập trong thực tiễn thi hành: Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Một là, cơ chế lãi suất thỏa thuận sẽ làm tăng tính cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại khi không còn kiểm soát sẽ dẫn đến tình trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn.
Hai là, tăng trưởng tín dụng tăng lên do các Ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa là sẽ tạo ra sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định của hệ thống ngân hàng và kinh tế vĩ mô trong nước.
Ba là, đối với doanh nghiệp khi lãi suất cho vay được thỏa thuận giữa các ngân hàng với khách hàng, mặt bằng lãi suất sẽ bị đẩy lên. Bởi theo quy định pháp luật hiện hành chỉ áp trần lãi suất cho khoản vay ngắn hạn thuộc một số ngành lĩnh vực ưu tiên, còn các khoản vay khác được thả nổi sẽ đẩy mặt bằng lãi suất cho vay lên cao, nhất là trong bối cảnh tín dụng phục vụ cho tăng trưởng tín dụng vẫn đến từ khối ngân hàng. Do đó, chỉ có doanh nghiệp nào có khả năng, phương án, dự án sản xuất kinh doanh, trình độ có trình độ khoa học công nghệ tốt, có khả năng xử lý đầu ra thì lúc đó mới có khả năng chịu được áp lực chi phí vốn vay cao. Còn lại các doanh nghiệp khác, chịu tác động của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ gặp khó khăn lớn khi chi phí đầu vào liên tục tăng và việc tiêu thụ đầu ra chưa có nhiều chuyển biến. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán thì kênh huy động vốn chủ yếu vẫn dựa vào việc vay ngân hàng. Xu hướng lãi suất cho vay tăng cao sẽ khiến các doanh nghiệp khó tìm được nguồn vốn phù hợp để tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới sự tăng trưởng chung của cả nền kinh tế.
Ngoài ra theo quy định về lãi suất thỏa thuận, các Tổ chức tín dụng và khách hàng đươc quyền thỏa thuận với nhau về mức lãi suất cũng như phí tín dụng, do đó mỗi doanh nghiệp đi vay sẽ chịu một mức lãi suất khác nhau. Những doanh nghiệp có mối quan hệ thân thiết và sử dụng các hình thức vận động không minh bạch đối với các Tổ chức tín dụng sẽ được vay với lãi suất thấp, trong khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ phải chịu chi phí đi vay cao gây ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của CIEM cho biết, có đến 75% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phải đi vay vốn từ nguồn phi chính thức với lãi suất có thể lên tới 5%-6%/tháng để tồn tại và phát triển[12]. Do hạn chế vốn, doanh nghiệp càng khó tìm được mặt bằng sản xuất và rơi vào vòng luẩn quẩn vì thiếu vốn không thể thuê, mua tài sản để sản xuất kinh doanh và tức là không có tài sản thế chấp để vay vốn.
2.3.2 Hoạt động huy động vốn của các ngân hàng thương mại Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại có vai trò rất quan trọng vì nó là tiền đề để thực hiện các hoạt động kinh doanh tiếp theo của Ngân hàng thương mại. Nhưng với tình hình hình nền kinh tế hiện nay đang khó khăn. Thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng Việt Nam luôn đối mặt với những thử thách từ nhiều phía. Trong hoàn cảnh đó, kinh doanh ngân hàng hết sức phức tạp. Khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, trần lãi suất huy động vốn cũng dần được tháo gỡ. Điều này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực đối với các Ngân hàng thương mại khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra mức lãi suất huy động từng bước giảm.
Lãi suất huy động luôn có mối quan hệ tỷ lệ thuận với lãi suất cho vay.
Việc tăng hay giảm lãi suất huy động cũng làm tăng hay giảm lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại. Khi lãi suất huy động giảm thì lãi suất cho vay cũng giảm theo, điều này góp phần tháo gỡ những khó khăn cùng với doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn tín dụng với mức lãi suất hợp lý để thực hiện các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh việc giảm lãi suất huy động nhưng Ngân hàng Nhà nước lại cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận, sẽ tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại mở rộng mạng lưới để huy động vốn với mức lãi suất phù hợp đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu về vốn của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
Tuy nhiên, lãi suất huy động giảm sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn huy động từ nhân dân, bởi người dân thường có xu hướng đầu tư vào những gì mang lại lợi nhuận cao hơn. Khi lãi suất huy động thấp, người gửi tiền có thể rút tiền từ các Ngân hàng thương mại để đầu tư vào các kênh khác mang lại lợi nhuận cao hơn như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán. Điều này đã gây áp lực lớn cho hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hơn nữa, việc chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận đã làm xuất hiện những vấn đề phát sinh. Lãi suất đầu ra không có trần trong khi lãi suất đầu vào lại có trần thì lợi ích sẽ nghiêng về các Ngân hàng thương mại, chứ không nghiêng về người gửi tiền, cũng không nghiêng về người đi vay.
Không chỉ dừng lại ở đó, với chính sách lãi suất tiền gửi Đô la Mỹ của Ngân hàng Nhà nước khi đưa về mức 0%/năm đã có những mặt trái nhất định. Thứ nhất, do tâm lý găm giữ ngoại tệ của người dân đã tăng lên, sẽ càng có ít người dân muốn bán USD nắm giữ thành tiền đồng để gửi vào hệ thống ngân hàng hưởng lãi, dù lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi USD (đã xuống còn 0% từ cuối năm 2015), trong khi tỷ giá tiền đồng thì được trấn an là sẽ không có biến động mạnh nữa, nhất là kể từ khi Ngân hàng Nhà nước đưa ra cơ chế tỷ giá trung tâm biến động hàng ngày. Thứ hai, nếu người dân có gửi USD vào hệ thống ngân hàng thì họ chỉ gửi không kỳ hạn, có nghĩa là họ có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào có hại cho họ. Từ hai điều trên có thể thấy rằng do tác động bất lợi gây ra bởi chính sách lãi suất tiền gửi USD 0% của Ngân hàng Nhà nước nên hệ thống ngân hàng Việt Nam đã không nhận được một lượng USD cần thiết từ nguồn tiền gửi của dân cư (và cả doanh nghiệp) để đáp ứng nhu cầu cho vay hoặc kinh doanh trong nước. Quan trọng không kém, lượng tiền gửi USD của dân cư và doanh nghiệp trong nước nếu có thì đã bị rút ngắn thời hạn, hầu hết thành không kỳ hạn, thay vì có kỳ hạn như trước khi Ngân hàng Nhà nước ra chính sách hạ lãi suất tiền gửi USD về 0%. Do không cố định được kỳ hạn của tiền gửi ngoại tệ, trong khi các tổ chức tín dụng vẫn có nhu cầu cấp tín dụng ngoại tệ vì nhu cầu vốn ngoại tệ của doanh nghiệp luôn tồn tại. Sự không khớp nhau giữa kỳ hạn đầu vào và đầu ra, đã khiến cho nhiều ngân hàng phải tìm cách lách luật vì trả lãi 0%/năm, ngân hàng khó huy động USD trong khi lãi suất vay USD lên tới 3%- 4%/năm.
2.3 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại và chế tài xử lý Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
2.3.1 Một số hành vi vi phạm quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
Với cơ chế lãi suất thỏa thuận, các Ngân hàng thương mại được tự do ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng trong khi đó trần lãi suất huy động vẫn còn được áp dụng. Điều đó đã dẫn đến các hành vi vượt trần lãi suất huy động của Ngân hàng thương mại bởi các ngân hàng đang đứng trước nhiều áp lực huy động vốn để tăng trưởng tín dụng, xử lý nợ xấu… Các ngân hàng có rất nhiều biện pháp, kỹ thuật “lách” trần lãi suất. Một số ngân hàng chi trả phần chênh lệch bằng cách cho khách hàng tham gia các chương trình khuyến mại như tri ân khách hàng, gửi tiết kiệm giờ vàng, gửi tiền trúng thưởng, mở sổ tiết kiệm tặng tặng thẻ ATM có tài khoản sẵn… Có ngân hàng lại chi trả phần cộng thêm cho khách hàng bằng tiền mặt ngay khi mở sổ tiết kiệm…
Kể từ khi Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng được ban hành năm 2010. Hàng loạt các thông tư quy định về lãi suất huy động vốn được ban hành và thay đổi liên tục. Mặc dù Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 đã ghi rõ các Tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất huy động, thoả thuận với khách hàng về lãi suất, phí cấp tín dụng nhưng đầu tháng 03/2011, Ngân hàng Nhà nước lại ban hành Thông tư số 02/2011/TT-NHNN luật hóa trần lãi suất huy động ở mức 14%. Các ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, và để đối phó với mức trần lãi suất huy động do Ngân hàng Nhà nước đưa ra, các ngân hàng này tăng lãi suất huy động không kỳ hạn và các kỳ hạn ngắn 1-2 tuần lên gần mức trần 14%. Nhiều ngân hàng đồng loạt giở các “chiêu” mà phổ biến nhất là nâng lãi suất tới 9% – 11%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn để hút vốn mặc dù đang áp dụng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn là 2,4%/năm – 3%/năm. Trong khi việc chạy đua lãi suất đối với tiền gửi không kỳ hạn khiến nhiều ngân hàng mất vốn chưa được giải quyết thì một loại sản phẩm khác là “tiền gửi có kỳ hạn” nhưng được “rút gốc linh hoạt” và “được hưởng lãi suất theo thời gian thực gửi” hay “tiết kiệm lãi suất thả nổi” bung ra như nấm, đang làm thị trường méo mó và phức tạp thêm[13].Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-NHNN về việc áp dụng lãi suất không kỳ hạn thấp nhất đối với tiền gửi rút trước hạn. Tuy nhiên, thông tư này dường như cũng bị vô hiệu hoá với các cách lách khéo của các Tổ chức tín dụng. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Trong bối cạnh lạm phát tăng cao những năm 2010-2012, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn về thanh khoản, hàng loạt các Ngân hàng thương mại cũng đua nhau huy động vốn vượt trần lãi suất huy động. Mặc dù các mức lãi suất huy động đã được Ngân hàng Nhà nước quy định cụ thể đối với từng loại kỳ hạn, nhưng các Ngân hàng thương mại vẫn đi “cửa sau”, lách luật để vượt trần lãi suất bằng nhiều hình thức khác nhau. Ngoài việc khách hàng gửi càng nhiều tiền thì càng được mức lãi suất cao thậm chí còn cao hơn mức mà Ngân hàng Nhà nước quy định, các Ngân hàng thương mại còn thực hiện các chiến dịch khuyến mại rầm rộ khi khách hàng gửi tiền bằng việc bốc thăm trúng thưởng, tặng chuyến du lịch trọn gói, tặng quà tặng như xe ô tô, phiếu mua hàng, tặng vàng … Đây là một cách lách luật của các Ngân hàng thương mại, vì mức chi khuyến mại với lãi suất thực tế luôn vượt quá mức lãi suất đã quy định. Tùy vào giá trị từng khoản tiền gửi khác nhau mà khách hàng có thể mặc cả với ngân hàng để có được mức lãi suất kỳ vọng. Ngược lại, các ngân hàng, nhất là những ngân hàng quy mô nhỏ cũng không thể từ chối khách hàng và ngồi nhìn khách hàng mang tiền gửi ở nơi khác, nên đã sẵn sàng trả thêm mức chênh lệch ngoài lãi suất thực ghi trên sổ tiết kiệm. Có trường hợp thực tế, khách hàng gửi tiền với số tiền lớn, yêu cầu lãi suất cao mới gửi, Ngân hàng thương mại không thể làm trái quy định mà cũng không thế mất khách hàng, đã thực hiện biện pháp là trên giấy tờ, sổ sách ghi lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhưng thực tế chi trả lãi suất lại cao hơn gấp nhiều lần.
Một số vụ việc nghiêm trọng về các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam “xé rào” lãi suất huy động vốn điển hình trong thời gian qua:
Vụ việc Oceanbank vượt trần lãi suất nghiêm trọng đã đẩy nhiều người vi phạm pháp luật. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 02 ngày 3/3/2011 quy định về trần lãi suất 14% thế nhưng Ngân hàng Oceanbank đã vượt trần lãi suất bằng việc chủ động chi lãi ngoài cho khách hàng bởi việc huy động đúng theo trần lãi suất là một việc làm rất khó khăn khi lạm phát lên cao đến 18-19% và nếu không làm thì sẽ dẫn đến đổ vỡ hệ thống[14]. Điểm đáng chú ý trong vụ án này là từ chủ trương và sự chỉ đạo trái với quy định pháp luật của Hà Văn Thắm, lúc đó là Chủ tịch HĐQT OceanBank, về việc chi trả lãi ngoài huy động vốn cho khách hàng đã khiến hàng trăm cán bộ của OceanBank vi phạm theo. Hành vi vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng trong việc cho vay, huy động tiền gửi, chi lãi suất vượt trần, chi lãi suất ngoài hợp đồng cho khách hàng đã gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với Oceanbank và các cổ đông, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Ngân hàng HD Bank đã vượt trần lãi suất bằng việc chủ trương thưởng thêm lãi suất cho người giới thiệu khách hàng gửi tiết kiệm nên nhân viên giao dịch đã cộng thêm 1% ngoài lãi suất niêm yết 14% một năm cho người đi cùng. Tuy nhiên, mọi thỏa thuận chỉ diễn ra bằng miệng mà không có biên nhận hay văn bản chứng nhận,việc vượt trần lãi suất đã bị cơ quan chức năng phát hiện và bị xử lý theo quy định của pháp luật[15].
Vụ việc vi phạm lãi suất ở ngân hàng Đông Á Tây Ninh: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tây Ninh đã miễn nhiệm chức danh Giám đốc DongA Bank chi nhánh Tây Ninh sau khi phát hiện chi nhánh này vi phạm vượt trần lãi suất huy động khi thực hiện giao dịch tiền gửi 1,5 tỷ đồng lãi suất 15,5%/năm, cao hơn mức trần quy định của Ngân hàng Nhà nước 1,5%/năm của khách hàng là Giám đốc chi nhánh một ngân hàng khác trên địa bàn[16].
Bên cạnh đó, cũng từ kết quả thanh tra của cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng (NHNN), Agribank đã quyết định kỷ luật nặng hàng loạt cán bộ ở các chị nhánh Ba Đình (Thanh Hóa) và Phòng giao dịch Tôn Đức Thắng (Chi nhánh Sài Gòn) vì vi phạm Chỉ thị 02. Báo cáo Kiểm toán nhà nước năm 2014 cũng từng cho biết những “ông lớn” Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước cũng từng vượt trần lãi suất năm 2012. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Ngoài ra hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng mức lãi suất tối đa đối với các hình thức gửi tiền bằng USD tổ chức, cá nhân khi gửi tiền vào các Tổ chức tín dụng ở mức 0%/năm đã ảnh hưởng đến việc huy động vốn bằng USD của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt, bối cảnh hiện nay là các ngân hàng phải tiến tới không cho vay bằng USD mà chỉ bán USD thì việc huy động bằng USD với lãi suất 0%/năm chưa tạo thuận lợi để các ngân hàng bổ sung thêm nguồn vốn bằng USD. Một số ngân hàng đang lách trần lãi suất huy động USD bằng cách mời chào người gửi tiền rồi tạo điều kiện để người gửi thế chấp bằng tài khoản USD, vay một số lượng tiền Việt tương đương để mua trái phiếu doanh nghiệp của ngân hàng, lãi suất được trả tuy thấp nhưng vẫn cao hơn mức huy động USD 0%/năm theo quy định. Mọi thủ tục, giấy tờ đều được nhân viên ngân hàng tư vấn và hợp lý hóa giúp người gửi tiền.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tài khoản tiền gửi USD được xem như một tài sản có giá trị được phép cầm cố, như tài sản bằng bất động sản. Nên ngân hàng dựa vào đó để cho vay tiền đồng, mua trái phiếu DN và trả lãi cho người gửi bằng tiền đồng thì không hề vi phạm, chỉ là lãi suất sẽ chỉ bằng một nửa, ít hơn nhiều so với huy động thông thường. Ngân hàng chỉ vi phạm nếu lách luật mà trả lãi bằng tiền USD, còn nếu không thì hoàn toàn bình thường.
Luật sư Trương Thanh Đức – Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng (Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam) cho rằng với “chiêu thức” này, các NHTM cũng có thể “hợp lý hóa” mục tiêu chống “đô-la hóa” khi toàn bộ số tiền bằng USD được chuyển vào ngân hàng, chỉ vài trường hợp được vay bằng ngoại tệ còn lại trở thành tài sản đảm bảo có giá chứ không phải trôi nổi trên thị trường, nhằm vào mục đích đầu cơ, tích lũy[17].
2.3.2 Chế tài xử lý
Chế tài xử lý đối với các vi phạm về lãi suất huy động đa phần là chế tài hành chính. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 202/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Trong Nghị định này, có phần xử phạt hành chính trong hoạt động huy động, cụ thể là nhận tiền gửi nhưng chỉ quy định phạt tiền Tổ chức tín dụng phi ngân hàng tại Điều12 “Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với tổ chức tín dụng phi ngân hàng không thực hiện đúng quy định về nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật”, còn các Tổ chức tín dụng cụ thể là Ngân hàng thương mại thì không có đề cập về xử phạt nếu vi phạm. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Khi Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 ra đời và Ngân hàng Nhà nước ban hành hàng loạt các Thông tư, Quyết định thay đổi lãi suất, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP nhưng cũng không đề cập đến xử phạt đối với hành vi vi phạm trong hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng thương mại. Chỉ thị 02/2011 mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành đã đề cập đến biện pháp xử lí nếu như các Ngân hàng thương mại vi phạm về các quy định lãi suất: Đình chỉ hoặc miễn nhiệm chức vụ của người quản lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; Hạn chế mở rộng phạm vi, quy mô, địa bàn hoạt động của tổ chức tín dụng trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày bị xử lý; Hạn chế hoặc tạm đình chỉ hoạt động huy động và cho vay của đơn vị vi phạm thuộc tổ chức tín dụng đó. Cụ thể như trường hợp Ngân hàng Nhà nước đã xử phạt Ngân hàng thương mại Cổ phần Phát triển Nhà Thành phố Hồ Chí Minh (HD Bank) về việc vượt trần lãi suất huy động. Ngân hàng Nhà nước giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2012 đối với HD Bank không quá 10% và ngừng mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày 20/11/2011. Với vụ việc của DongA Bank chi nhánh Tây Ninh, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh Tây Ninh có Quyết định số 119/QĐ- TNI ngày 14-9-2011 về việc xử lý vi phạm huy động vốn vượt trần lãi suất 14%/năm tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á (DongA Bank) chi nhánh Tây Ninh. Quyết định này đã miễn nhiệm chức danh Giám đốc đối với ông Nguyễn Thái Hậu- Giám đốc DongA Bank chi nhánh Tây Ninh. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày 14-9-2011, DongA Bank không được mở chi nhánh, phòng giao dịch, đặt máy ATM trong phạm vi toàn quốc.
Ngày 17/10/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 96/2014/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng đã đề cập đến biện pháp xử lí Ngân hàng thương mại vi phạm lãi suất huy động tiền gửi. Theo đó vi phạm quy định về lãi suất huy động vốn mức xử phạt cao nhất là 100 triệu đồng. Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với hành vi áp dụng mức lãi suất cao hơn mức lãi suất theo quy định của pháp luật. Đồng thời, nếu có hành vi không niêm yết công khai lãi suất huy động vốn và niêm yết công khai nhưng không rõ ràng gây nhầm lẫn cho khách hàng sẽ bị phạt tiền từ 10 – 20 triệu đồng. Phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 40 triệu đồng đối với hành vi áp dụng lãi suất huy động vốn, cao hơn mức đã niêm yết. Ngoài ra còn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả như:
“a) Buộc nộp vào ngân sách nhà nước số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm mức phí cung ứng dịch vụ quy định tại Điều này; Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
b) Đề nghị hoặc yêu cầu cấp có thẩm quyền xem xét, áp dụng biện pháp đình chỉ từ 01 tháng đến 03 tháng hoặc miễn nhiệm chức danh quản trị, điều hành, kiểm soát; không cho đảm nhiệm chức vụ quản trị, điều hành, kiểm soát tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với cá nhân vi phạm và/hoặc cá nhân chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều này.
Yêu cầu tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cách chức và thực hiện các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật đối với cá nhân vi phạm thuộc thẩm quyền của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.”[18]
Ngoài ra, trong các văn bản mà Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành (Công văn số 297/NHNN-TTGSNH ngày 19/1/2016 và Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 23/2/2016; các văn bản số 3254/NHNN-TTGSNH và 3255/NHNN-TTGSNH ngày 6/5/2016) về việc chấn chỉnh việc thực hiện quy định lãi suất huy động gần đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước yêu cầu:
Các Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nghiêm túc chấp hành các quy định hiện hành cũng như chỉ đạo của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy động, đặc biệt là huy động USD; nghiêm cấm việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật để lách, vượt trần lãi suất huy động USD; nghiêm cấm cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, chủ động phát hiện những vi phạm về mức lãi suất huy động; chỉ đạo chấn chỉnh và xử lý nghiêm người đứng đầu các chi nhánh, đơn vị của Tổ chức tín dụng để xảy ra vi phạm, không chấp hành các quy định và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước. Đối với các Tổ chức tín dụng vi phạm, người quản lý, điều hành sẽ bị đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ trong vòng 3 năm[19]. Đồng thời, các Tổ chức tín dụng chủ động phát hiện và báo cáo về Ngân hàng Nhà nước các trường hợp cạnh tranh không lành mạnh vi phạm quy định trong huy động vốn của Tổ chức tín dụng khác.
NHNN không xem xét, chấp thuận đề nghị của Tổ chức tín dụng về việc mở mới chi nhánh, phòng giao dịch, máy ATM, văn phòng đại diện, cung cấp dịch vụ mới hoặc triển khai nghiệp vụ kinh doanh mới; hạn chế, đình chỉ, tạm đình chỉ một hoặc một số hoạt động ngân hàng (nếu xét thấy cần thiết) đối với các TCTD để xảy ra tình trạng vi phạm các quy định về lãi suất huy động cho đến khi chấm dứt vi phạm.
Bên cạnh việc xử lý hành chính, pháp luật còn quy định xử lý hình sự với một số đối tượng theo đúng quy định của pháp luật hình sự điển hình như vụ án Oceanbank. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
Tóm lại, lãi suất có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận của các ngân hàng, cho nên những hành vi vi phạm quy định lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là điều không thể tránh khỏi. Xuất phát từ những mục đích tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, các Ngân hàng thương mại đã chạy đua trong việc vượt trần lãi suất để thu hút nguồn vốn tìm kiếm lợi nhuận cũng như giải quyết nhu cầu thanh khoản. Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý hoạt động của các Ngân hàng thương mại trong cả nước, phải điều chỉnh các hoạt động, hành vi của Ngân hàng thương mại đi đúng đường lối, chủ trương theo quy định của pháp luật, mang lại những tín hiệu tích cực cho hệ thống ngân hàng trước những cơ hội, thách thức của giai đoạn hội nhập. Không thể phủ nhận rằng, trong bối cảnh tỷ giá biến động khó lường, lãi suất có dấu hiệu tăng lên, Ngân hàng Nhà nước đã rất nỗ lực để ổn định lãi suất, ghìm cương tỷ giá. Với chủ trương mạnh tay, nghiêm túc xử lý các trường hợp vi phạm quy định về lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản điều chỉnh cũng như các chế tài xử lý hành vi vi phạm. Các biện pháp xử lý đã mang tính răn đe “cứng rắn”, “quyết liệt” hơn để điều chỉnh lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Kết luận chương 2
Trên đây là những phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại hiện nay từ đó chỉ ra những ưu điểm và những hạn chế bất cập trong các quy định hiện hành về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam; phân tích các hành vi vi phạm pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và các chế tài xử lý. Để điều chỉnh lĩnh vực này, pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá rõ ràng, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng các quy định về lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng thương mại. Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật còn những hạn chế trong các quy định về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Những hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn cũng như hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại. Do vậy cần có những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Khóa luận: Thực trạng PL lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH