Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Trước hết, hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cần đảm bảo quyền quản lý, giám sát Nhà nước về lãi suất. Hiện nay, nhà nước đang dần chuyển sang cơ chế lãi suất thỏa thuận. với việc thực thi cơ chế này, lãi suất được thiết lập là sự thể hiện xác thực động thái của thị trường, đây cũng là xu hướng được các quốc gia có nền kinh tế thị trường ủng hộ. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương thức này cũng chính là một khi thiếu sự can thiệp của nhà nước, các yếu điểm của thị trường dễ dàng bị bộc lộ, các phần tử của nó không tự điều chỉnh được những nguy cơ tiềm tàng này, chính vì vậy rất dễ gây ra sự biến động đối với thị trường tài chính, có thể gây sụp đổ hệ thống. Tại những nước công nghiệp hàng đầu thế giới, có hàng mấy trăm năm kinh tế thị trường, trong khi thực hiện tự do hoá lãi suất, các nhà chức trách của đất nước vẫn có những can thiệp cần thiết khi xuất hiện những dấu hiệu bất thường trong biến động của lãi suất có thể gây hại cho hoạt động kinh doanh và đời sống của dân chúng. Có lẽ vì không quán triệt tư tưởng này nên chúng ta đã thất bại trong việc điều tiết chính sách tiền tệ trong giai đoạn từ những năm 2000 đến năm 2008, hiện tượng các ngân hàng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn, đẩy vốn cho vay lên cao ngất ngưởng, các doanh nghiệp lao đao vì lãi suất, các ngân hàng buộc phải hi sinh lợi nhuận, bù lỗ để giữ khách,… và lạm phát. Để nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với lãi suất trong hoạt động của các Ngân hàng thương mại khi thực hiện lãi suất theo cơ chế thị trường, điều đầu tiên là cần phải làm đó đảm bảo được sự quản lý giám sát của nhà nước về lãi suất. Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về lãi suất cần đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Trong quá trình tự do hóa lãi suất, sự tăng hay giảm lãi suất huy động vốn và cho vay đã được xây dựng trên nguyên tắc “tín hiệu thị trường”. Điều đó có nghĩa là lãi suất sẽ dựa trên mức cung cầu về vốn. Cơ chế lãi suất thỏa thuận thể hiện tính tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Tuy nhiên vì mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng Trung ương có thể can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng bởi các quyết định và chính sách của Ngân hàng Trung ương. Do đó việc hoàn thiện các quy định pháp luật về lãi suất cần phù hợp với sự phát triển của kinh tế – xã hội để tạo lập được một môi trường pháp lí thông thoáng, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các ngân hàng.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của NHTM cần được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng. Đặc biệt pháp luật cần hoàn thiện theo hướng khắc phục những bất cập phát sinh về lãi suất phù hợp với thực tiễn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
3.2 Các kiến nghị cụ thể
3.2.1 Quy định nguyên tắc xác định lãi suất trong Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng
Luật Ngân hàng Nhà nước với phạm vi điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước, trong đó có các nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ như điều hòa lưu thông tiền tệ, hỗ trợ nền kinh tế, Luật Ngân hàng Nhà nước cần điều chỉnh theo hướng Ngân hàng Nhà nước thống nhất quản lý lãi suất một cách ổn định mang tính định hướng, còn các lãi suất cụ thể phải do thị trường quyết định và hướng tới mục tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Trong khi đó Luật các Tổ chức tín dụng lại quy định về hoạt động của các Tổ chức tín dụng trong đó có những quy định điều chỉnh lãi suất giữa Tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo quy định hiện hành, Luật các Tổ chức tín dụng đã để các bên tự do thỏa thuận lãi suất, điều này đã tạo ra được những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế như đã phân tích ở chương 2. Do vậy, để hạn chế các tiêu cực có thể xảy ra, các quy định về lãi suất trong Luật các tổ chức tín dụng cần đảm bảo lợi ích cân đối của các chủ thể đồng thời tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên.
Lãi suất không chỉ là công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, tác động và phản ánh cung cầu vốn nội tệ, ngoại tệ trong nền kinh tế mà lãi suất cũng phản ánh mối quan hệ và lợi ích giữa ba bên: người gửi tiền, người vay vốn và Ngân hàng thương mại[1]. Theo ông Phạm Huy Hùng, Chủ tịch Hội đồng quản trị VietinBank: “Mặc dù hệ thống ngân hàng có nhiều cố gắng để duy trì hoạt động của nền kinh tế nhưng trong điều kiện nền kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn, xu hướng giảm lãi suất xuống là tất yếu nhưng có thể nói ngân hàng cũng có những cái khó, bởi người gửi tiền luôn mong muốn lãi suất cao trong khi người đi vay ngân hàng thì muốn lãi suất thấp. Một chính sách lãi suất được coi là hợp lý phải coi trọng lợi ích của cả 3 phía, người gửi tiền, người vay và phải giữ được ổn định cho cả hệ thống ngân hàng”[2]. Như vậy, quy định về lãi suất cần phải được tính toán một cách hợp lý, đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên khi tham gia quan hệ tín dụng ngân hàng.
Bên cạnh đó, quy định về lãi suất cần phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên. Lãi suất và quyền tự do kinh doanh có thể tác động theo chiều hướng bất lợi cho nhau nếu chúng được quy định một cách lạm dụng và không phù hợp. Do vậy cần tránh được những quyết định mang tính cưỡng chế, hành chính, cái mà có thể gây ra những tác động ngược chiều, gây ra những hiệu ứng không tốt cho việc thực thi chính sách tiền tệ và hạn chế quyền tự chủ trong hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại. Bởi lãi suất đươc ấn định đôi khi là những con số mang nặng tính chủ quan của nhà cầm quyền mà không thể hiện được bản chất thực của nó – nhu cầu thực của thị trường, nó có khả năng gây ra những xáo trộn bất thường đối với thị trường tài chính.
Không chỉ thế, lãi suất ấn định còn làm ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh của ngân hàng khi các ngân hàng hầu như không có cơ hội quyết định giá cả của các sản phẩm mà mình cung cấp ra thị trường. Như vậy, pháp luật về lãi suất cần phải gắn liền với việc quy định về quyền tự do kinh doanh. Đây là yêu cầu đề ra mang tính khách quan trong quá trình hoàn thiện pháp luật ngân hàng. Để thực hiện yêu cầu này, nhà làm luật phải đánh giá được các biện pháp can thiệp vào lãi suất có ảnh hưởng đến quyền tự do kinh doanh hay không, nếu có thì mức độ ảnh hưởng như thế nào. Đồng thời là xem xét tác động ngược trở lại của quyền tự do kinh doanh đối với lãi suất trên thị trường.
3.2.2 Quy định về giới hạn lãi suất tiền gửi Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Hiện nay, lãi suất huy động được Ngân hàng Nhà nước quy định theo mức giảm dần và chỉ giữ mức lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam với tiền gửi không có kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng. Đối với tiền gửi có thời hạn trên 6 tháng, tiền gửi trung hạn và dài hạn Ngân hàng Nhà nước để cho Ngân hàng thương mại và khách hàng tự thỏa thuận đồng thời Ngân hàng Nhà nước cũng không quy định trần về lãi suất cho vay. Điều này đã tạo ra chênh lệch rất lớn giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Khi nhìn nhận nội dung kinh tế của lãi suất. Việc gửi tiền ngân hàng được xem là quyết định đầu tư. Lãi suất huy động được coi là chi phí cơ hội của việc nắm giữ tiền mặt hoặc đầu tư khác. Người gửi tiền đánh đổi cơ hội tiêu dùng họăc cơ hội đầu tư khác của mình để đem tiền gửi ngân hàng trong kỳ hạn xác định. Đổi lại, người gửi tiền được trả lãi vay ở mức tương xứng đủ để bù đắp cho những rủi ro có thể xảy ra trong thời hạn gửi tiền và có lãi thực[3]. Mỗi nhà đầu tư đều có kỳ vọng riêng về lãi suất thực dương, bởi vì cơ hội đầu tư giữa họ là khác nhau. Theo các chuyên gia của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), việc sớm dỡ bỏ trần lãi suất huy động là cần thiết để thị trường có thể linh hoạt tự điều chỉnh, cân đối cung cầu về vốn. Nếu vẫn cần giữ trần, chỉ nên áp dụng trần lãi suất với các kỳ hạn huy động rất ngắn (dưới 1 tháng). Trong khi đó, ở chiều ngược lại, lãi suất cho vay của ngân hàng với các khách hàng đang được “cởi trói”. Thông tư 39/2016/TTNHNN mới ban hành có hiệu lực từ 15/3/2017 thì quy định rõ các tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng (trừ 5 lĩnh vực ưu tiên). Như vậy, trong khi lãi suất huy động bị “kìm” khá sát thì lãi suất cho vay lại được “thả nổi” theo thị trường. Nhìn từ phía khách hàng, điều này dường như không công bằng khi họ đi vay với lãi suất thả nổi còn gửi tiền lại có giới hạn cứng về lãi suất[4]. Do vậy lãi suất tiền gửi cần được quy định ở mức hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của Ngân hàng thương mại cũng như quyền lợi của người gửi tiền.
3.2.3 Đảm bảo tính hợp lý trong mối quan hệ giữa các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Chính sách thỏa thuận đã làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam. Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của Ngân hàng Nhà nước để điều hành chính sách tiền tệ. Ngân hàng Nhà nước công bố các loại lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ đồng thời là cơ sở để các ngân hàng thương mại áp dụng để hình thành nên lãi suất giao dịch với các doanh nghiệp, khách hàng. Để các loại lãi suất mang tính chủ đạo này thực sự mang lại những hiệu quả tích cực với nền kinh tế thì quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ phải đáp ứng được các yêu cầu: thể hiện được quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường; tác động trực tiếp đến việc điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng phù hợp trong từng giai đoạn, thời kỳ của nền kinh tế; là lãi suất cho vay cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng thương mại.
Trên cơ sở đó, cần thiết lập một mức lãi suất định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới thì mức lãi suất cơ bản hay còn được hiểu là lãi suất mục tiêu, mà Ngân hàng Trung ương công bố chỉ mang tính định hướng cho thị trường không mang tính hành chính, không có ràng buộc nào với các Ngân hàng thương mại, khác với nước ta đây được coi là mệnh lệnh hành chính. Ngân hàng Trung ương tại các quốc gia này sẽ can thiệp để đạt được mức lãi suất định hướng bằng các công cụ thị trường nhằm tiến tới mức lãi suất định hướng. Để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân Ngân hàng Trung ương của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng về lạm phát, tăng trưởng hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, cần phải hiểu đúng chức năng, vai trò của mức lãi suất cơ bản và việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản – làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện.
Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các chủ thể trên thị trường tiền tệ. Theo thông lệ quốc tế, Ngân hàng Trung ương sẽ phải công bố một hay hai trong số các lãi suất này. Như thế, lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.
Ngân hàng Nhà nước cần điều hành linh hoạt hơn lãi suất tái cấp vốn, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất phù hợp kết hợp với các công cụ chính sách tiền tệ khác để kiểm soát lãi suất thị trường ở mức hợp lý, phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát. Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Ngoài ra khi thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận, trong trường hợp cần thiết, cần có sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước tránh để tình trạng mặt bằng lãi suất cho vay bị đẩy lên cao kéo lãi suất huy động lên theo gây nhiều bất ổn cho nền kinh tế
3.2.4 Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện quy định về lãi suất
Hệ thống Ngân hàng thương mại là một kênh dẫn truyền quan trọng để các công cụ của chính sách tiền tệ tác động vào lãi suất thị trường, mức cung tiền tệ và qua đó thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Việc các ngân hàng trong đó điển hình là vụ việc Ocean Bank chi trả lãi ngoài huy động vốn cho khách hàng lên tới 1000 tỷ đồng; chưa kể đến việc các ngân hàng thậm chí cho nhau vay qua đêm với lãi suất cắt cổ 30 -50% để giải quyết yêu cầu thanh khoản trong giai đoạn năm 2010-2012 đã làm méo mó thị trường. Vì các ngân hàng nếu không vượt trần lãi suất huy động sẽ rơi vào tình trạng mất thanh khoản và hệ lụy là sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Do vậy Ngân hàng Nhà nước cần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro tài chính – ngân hàng; tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về lãi suất; các hoạt động thông tin; chủ động phòng ngừa, xử lý các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng để đảm bảo được tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng cũng như đảm bảo an toàn trong hệ thống ngân hàng.
Kết luận chương 3
Để phát huy được hết những vai trò của lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam cần phải thực hiện nhiều giải pháp, trong đó việc hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất hợp lý là cần thiết. Trên đây là một số định hướng và giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Việc hoàn thiện pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại được đặt trong mối quan hệ chung với pháp luật ngân hàng và các bộ phận pháp luật khác có liên quan như Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật cạnh tranh để tạo sự đồng bộ, thống nhất, tránh mâu thuẫn chồng chéo gây khó khăn trong quá trình áp dụng. Hy vọng rằng việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều chỉnh của hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam đối với lãi suất, từ đó góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng cũng như việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước.
KẾT LUẬN Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
Trong quá trình nghiên cứu, bằng tất cả các phương pháp nghiên cứu đã chọn, khóa luận đã đưa ra quan điểm phân tích các vấn đề pháp lý về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cũng như thực trạng các quy định pháp luật đã được áp dụng trong thực tiễn, các bất cập, vướng mắc cần khắc phục. Để từ đó đưa ra hướng xử lý cho phù hợp, đưa ra các giải pháp để hoàn thiện hơn pháp luật về lãi suất mà cụ thể hơn là lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Trong nền kinh tế thị trường, mà hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách mạnh mẽ, vai trò của Ngân hàng thương mại với chức năng trung gian tài chính hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong và ngoài nước đồng thời thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm ổn định kinh tế, góp phần giảm lạm phát, ổn định xã hội và tạo lợi ích cho mọi thành phần kinh tế. Vai trò của lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là hết sức quan trọng, là cơ sở để Ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh tạo lợi nhuận cho chính mình và cho cả xã hội. Xuất phát từ bản chất quan trọng của lãi suất trong hoạt động này, khóa luận đi sâu vào nghiên cứu và phân tích đánh giá về các quy định pháp luật đã thực sự điều chỉnh được hoạt động này chưa, còn những vấn đề nào chưa hợp lý cần sự điều chỉnh. Quá trình thực tế các Ngân hàng thương mại thực thi các quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động của mình như thế nào, có áp dụng đúng tinh thần mà pháp luật điều chỉnh hay không, hay chỉ đối phó lách luật để tạo lợi ích cho Ngân hàng thương mại, làm ảnh hướng xấu đến nền kinh tế. Từ đó mà đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng trên, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, đảm bảo cho việc thực thi chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả. Trên cơ sở các văn bản pháp luật Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng ban hành, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết, là phù hợp với tình hình chung, đảm bảo sửa đổi kịp thời các quy định cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội. Khóa luận: Giải pháp PL về lãi suất hoạt động kinh doanh ở NH.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Pháp luật về lãi suất trong hoạt động kinh doanh ở NH