Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới và tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
I: HOẠT ĐỘNG MARKETING ĐA CẤP TRÊN THẾ GIỚI
Marketing đa cấp trên thế giới đã ra đời gần 100 năm nay, mặc dù trước đây có rất nhiều dư luận, điều tiếng nhưng qua thời gian, marketing đa cấp đã chứng tỏ được sự hiệu quả trong bán hàng và đóng góp to lớn cho nền kinh tế thế giới.
Theo thống kê của Hiệp hội các quốc gia kinh doanh theo mạng marketing đa cấp, các quốc gia có áp dụng phương thức marketing đa cấp có doanh thu lên tới con số hàng chục tỷ đô la Mỹ và số người tham gia đạt tới hàng chục nghìn, thậm chí hàng triệu người tham gia.
Bảng 1: Thống kê các quốc gia điển hình áp dụng phương thức marketing đa cấp
Theo thống kê trên, có thể thấy ngoài các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ (doanh thu 30,8 tỷ đô la Mỹ với 15.000.000 người tham gia), Nhật Bản (doanh thu 20,39 tỷ đô la Mỹ với 2.700.000 người tham gia), Đức (doanh thu 8,297 tỷ đô la Mỹ với 713.537 người tham gia), Vương quốc Anh (3,564 tỷ đô la Mỹ cùng 419.500 người tham gia), Mexico (doanh thu 3.986 tỷ đô la Mỹ với 1.900.000 người tham gia) thì các nền kinh tế châu Á cũng là địa điểm lý tưởng để marketing đa cấp phát triển vượt bậc, điển hình như Hàn Quốc (9 tỷ đô la Mỹ doanh thu với 3.187.933 người tham gia, Malayxia (2,06 tỷ đô la Mỹ doanh thu với 4.000.000 người tham gia) và Đài Loan (1,7 tỷ đô la Mỹ với 4.530.000 người tham gia). Điều đó chứng tỏ, các nền kinh tế ở khu vực châu Á cũng nhanh nhạy nắm bắt xu hướng của thị trường, mau chóng áp dụng và có được những thành quả nhất định.
1. Tăng trưởng về doanh số
Cũng theo thống kê của Hiệp hội các quốc gia kinh doanh theo mạng (WFDSA), doanh số bán lẻ và lượng người tham gia ngày càng gia tăng lên theo từng năm.
Như ta có thể thấy trên biểu đồ, trong vòng 9 năm (2013 – 2022), doanh thu từ marketing đa cấp đã tăng lên đến 30% từ 81.87 tỷ đô la Mỹ (năm 2013) lên tới 114 tỷ đô la Mỹ năm 2022. Hàng năm marketing đa cấp đều có sự tăng trưởng khá đều đặn trung bình 5,1%/năm. Điều đó chứng tỏ ngành nghề này mang lại không ít lợi nhuận và doanh thu cho nền kinh tế các quốc gia trên thế giới.
2. Tăng trưởng về số lượng người tham gia
Bên cạnh sự tăng trưởng về doanh thu là sự tăng trưởng về lượng phân phối viên tham gia vào các công ty marketing đa cấp trên thế giới.
Số lượng người tham gia vào hệ thống marketing đa cấp trên toàn thế giới ngày càng tăng cao. Theo như biểu đồ ta có thể thấy, từ năm 2013 tới nay số lượng phân phối viên tăng từ 33,6 triệu người (năm 2013) lên tới 62,7 triệu người (năm 2022) chứng tỏ ngày càng có nhiều người quan tâm và thử sức với mô hình mới mẻ này.
Ngày nay, vai trò quan trọng của mô hình MLM trong nền kinh tế toàn cầu đã được thừa nhận rộng rãi. Báo chí kinh doanh đưa tin không ngớt về những thành công trong lĩnh vực này. Công chúng xem MLM như một giải pháp cho vấn đề việc làm – một trong những vấn đề rất nóng của xã hội mọi thời đại. Khác với doanh nghiệp MLM trước kia, các doanh nghiệp làn sóng thứ tư đã hòa nhập vào thế giới doanh nghiệp nói chung; và cùng với Thương mại điện tử, MLM đang tạo thành một “làn sóng mới” trong thế giới doanh nghiệp hôm nay. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM
1. Khái quát các doanh nghiệp bán hang đa cấp tại Việt Nam.
1.1.Khái quát giai đoạn đầu tiên 2022 – 2025
So với ngành công nghiệp bán hàng đa cấp thế giới, ngành bán hàng đa cấp Việt Nam còn rất non trẻ với tuổi đời mới hơn 10 năm.. Từ năm 2013 đã xuất hiện một vài công ty đa cấp ở nước ta, đầu tiên là Incomex, tiếp theo là Thế Giới Mới, rồi đến Sinh Lợi, Lô Hội, Vision. Những công ty này phân phối các dòng sản phẩm chăm sóc sức khỏe, thực phẩm chức năng, hoạt động với quy mô ban đầu nhỏ lẻ thường va chạm với pháp luật và khiến báo chí tốn không ít giấy mực. Không phải công ty nào cũng làm ăn nghiêm túc nên nảy sinh nhiều sự hiểu nhầm về mô hình kinh doanh này.
Đến cuối năm 2019 Việt Nam đã có khoảng 20 công ty bán hàng đa cấp phân phối chủ yếu những dòng sản phẩm tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe và sắc đẹp được sản xuất bởi các tập đoàn ở nước ngoài. Ngành bán hàng đa cấp Việt Nam ngày càng mở rộng trên phạm vi toàn quốc khi các công ty phát triển mạng lưới phân phối và lập ra nhiều chi nhánh.
Năm 2020 hành lang pháp lý bán hàng đa cấp tại Việt Nam dần dần hình thành các điều luật và các quy định về bán hàng đa cấp mở ra con đường lớn cho ngành bán hàng đa cấp Việt Nam phát triển và tạo điều kiện cho nước ngoài đầu tư.
Ngày 01-07-2020, luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành trong đó có những điều khoản quy định về bán hàng đa cấp
Ngày 24-08-2020, Nghị định 110/2020/NĐ-CP của chính phủ về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp được ban hành phần nào đã tạo ra một hành lang pháp lý để bảo vệ các công ty và nhà phân phối chân chính. Tuy nhiên, nghị định vẫn còn nhiều kẽ hở khiến cho một số công ty lợi dụng.
Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) cũng đã có Thông tư 19/2020/TT-BTM ngày 8/11/2020 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110/2020/NĐ-CP, chủ yếu liên quan đến thủ tục đăng ký tổ chức BHĐC tại các Sở Thương mại, Sở TM-DL (nay là Sở Công Thương). Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Nghị định 120/2020/NĐ-CP ngày 30/9/2020 về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh đã quy định thẩm quyền của Cục Quản lý cạnh tranh trong việc xử lý các hành vi bán hàng đa cấp bất chính. Tính đến đầu tháng 7/2020 nước ta đã có gần 30 công ty kinh doanh đa cấp cả trong và ngoài nước.
Đầu tháng 10, năm 2024, Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam được thành lập. Hiệp hội được thành lập và bổ nhiệm bà Trương Thị Nhi (Tổng giám đốc công ty TNHH TM Lô Hội, nhà đại diện tại Việt Nam của tập đoàn Forever Living Products Hoa Kỳ) là chủ tịch nhiệm kỳ 2024-2014
Năm 2021 nhà nước đã thực thi nghiêm pháp luật xử lý và rút giấy phép kinh doanh công ty Sinh Lợi do vi phạm nghiêm trọng các quy đinh của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng đánh dấu việc quản lý chặt hơn và đi vào quỹ đạo hơn của hoạt động bán hàng đa cấp.
Giai đoạn 2022-2025
- Về tốc độ phát triển
Tiêu chí | 2022 | 2023 | 2024 | 2025 |
Số doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh | 42 | ~50 | ~52 | 63 |
Số xin rút, chuyển đổi hoặc bị rút giấy phép | 8 | ~10 | 13 | 20 |
Số doanh nghiệp còn tiến hành kinh doanh | 34 | ~40 | ~33 | 43 |
Doanh thu (tỷ vnđ ) | ~700 | 1.581 | 2.526 | 2.799 |
Số người tham gia ước tính | ~235.783 | ~500.000 | ~700.000 | 874.281 |
Từ bảng số liệu trên ta thấy trong giai đoạn 2022-2025 chứng kiến sự phát triển vượt bậc của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp Việt Nam. Số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng nhanh qua các năm. Số lượng doanh nghiệp được phép kinh doanh năm 2.007 là 42 và tới năm 2.010 con số đó là 63 doanh nghiệp. Doanh thu của hoạt động bán hàng đa cấp cũng tăng mạnh hàng năm, năm 2022 chỉ đạt 700 tỷ vnđ nhưng năm 2025 doanh thu qua phân phối hàng hóa dịch vụ qua phương thức bán hàng đa cấp đạt 2.799 tỷ vnđ ,tăng gần 400% sau 4 năm trung bình hàng năm tăng trưởng ~100% , một kết quả đáng ghi nhận vì so với các nước khác tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 20-30%/ năm. Một lý do cho tốc độ phát triển đáng kinh ngạc này là thi trường nước ta còn mới và tiềm năng. Đó cũng là nguyên nhân thu hút hàng loạt các tập đoàn bán hàng đa cấp đa quốc gia xâm nhập thị trường nước ta. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Năm 2023, trong bối cảnh thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế, đại gia làng công nghệ là FPT cũng đã nhảy vào bán hàng đa cấp với sự ra đời của FPT Network (FN), thành viên của FPT Telecom với kỳ vọng hình thức kinh doanh này sẽ giúp FPT Telecom tiết giảm những chi phí quản lý, chi phí quảng cáo, giảm thiểu những rủi ro và tạo ra sự đột phá trong việc kinh doanh.
Giai đoạn 2022-2025 cũng đã chứng kiến nỗ lực của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp trong việc lấy lại hình ảnh của mình sau khi bán hàng đa cấp biến tướng lan tràn và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận và hiểu lầm về hoạt động bán hàng đa cấp. Số lượng người tham gia bán hàng đa cấp theo thống kê năm 2025 đã tăng đạt gần 900.000 người nhưng trên thực tế con số này có thể đã vượt qua 1 triệu người. Theo đó hoạt động bán hàng đa cấp đã bùng nổ trong giới trẻ nhất là sinh viên , những người có nhiều thời gian rãnh rỗi và có đam mê kinh doanh thử.
Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận ràng hình ảnh của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp vẫn còn rất kém trong xã hội và việc kinh doanh bán hàng đa cấp biến tướng vẫn diễn ra mạnh mẽ. Chứng minh điều này là rõ ràng khi trong báo cáo tổng kết về hoạt động bán hàng đa cấp của cục quản lý cạnh tranh, số lượng doanh nghiệp vi phạm và bị rút giấy phép kinh doanh còn rất lớn và có xu hướng tăng. Năm 2022 có 8 doanh nghiệp vi phạm và bị rút giấy phép kinh doanh nhưng năm 2025 con số này không giảm mà tăng lên thành 20 doanh nghiệp. Không chỉ vậy, sự vi phạm kinh doanh đa cấp biến tướng không chỉ xảy ra tại các doanh nghiệp ‘chui’ không có giấy phép mà còn xảy ra ngay cả với các doanh nghiệp được cấp phép, điển hình như Angel Việt Nam một công ty liên doanh với nước ngoài và được đánh giá là có uy tín. Sự việc như của Angel Việt Nam đã khiến cho danh tiếng của các công ty bán hàng đa cấp suy giảm nghiêm trọng và tác động gây thiệt hại lớn cho các đối tượng hữu quan.
- Về độ bao phủ
Có thể nói rằng bán hàng đa cấp đã có mặt tại hầu hết các tỉnh thành phố lớn của nước ta với sức lan tỏa rất mạnh. Tuy nhiên nếu xem xét kỹ hơn qua độ bao phủ của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bằng việc khu vực đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại một tỉnh thành không phải là chỉ kinh doanh trên địa bàn của tỉnh thành đó, họ có thể sử dụng giấy đăng ký đó để kinh doanh ở các tỉnh thành khác, nhưng nơi đăng ký giấy phép kinh doanh cho thấy trọng tâm phát triển của họ tại từng khu vực khác nhau.
Tính đến tháng 6/2011, theo báo cáo của Bộ Công Thương, nước Việt Nam đã có 63 doanh nghiệp được cấp giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp. Trong đó, Hà Nội đi đầu với 30 doanh nghiệp, thành phố Hồ Chí Minh 29 doanh nghiệp còn lại thuộc về các tỉnh Đồng Nai (2 doanh nghiệp), Bình Dương và Hải Dương.
Danh sách các công ty bán hàng đa cấp tại Việt Nam ( tính đến hết 2024 ).
Từ bảng trên ta thấy sự phát triển của bán hàng đa cấp ở nước ta là không đồng đều. Phân theo khu vực ta thấy có sự chênh lệch, các doanh nghiệp bán hàng đa cấp phát triển rất mạnh ở khu vực phía Nam và phát triển nhanh tại khu vực phía Bắc. Hàng loạt các doanh nghiệp đăng ký mới và xin giấy phép kinh doanh. Miền Bắc riêng Hà Nội đã câp19 giấy phép kinh doanh ( 4 trong số đó bị rút hoặc xin chấm dứt ). Mền Nam phát triển bán hàng đa cấp sớm hơn và có sự phát triển mạnh, Th.p Hồ chí Minh đã cấp tới 20 giấy phép, Bình Dương 1 và Đồng Nai 2 .Trong khi đó miền Trung gần như ‘ trống’ doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới mà chỉ có chi nhánh của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tồn tại và phát triển. Hoặc là do các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp mang hoạt động này về khu vực này để mở rộng hệ thống chứ gần như không có doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trực tiếp tại khu vực miền Trung.
Không chỉ có sư chênh lệch về khu vực Bắc, Trung, Nam mà còn có sự thiếu đồng đều ngay trong các khu vực. Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp chỉ có mặt chính thức tại các thành phố lớn như Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh. Các thành phố lớn này có sự phát triển nhanh hơn và có sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan chức năng và bản thân các công ty, trong khi đó khu vực nhỏ hơn chỉ có chi nhánh do các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp tự lập, không giấy phép và thiếu sự quản lý từ các đối tượng hữu quan. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
- Về cơ cấu doanh nghiệp trong nước và nước ngoài
Giai đoạn 2022-2025 cho thấy sự bắt nhịp của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp ‘thuần Việt’. Số lượng các doanh nghiệp Việt đăng ký tham gia bán hàng đa cấp gia tăng nhanh điển hình là sự gia nhập của tập đoàn FPT với công ty FNC với doanh thu hơn 58 tỉ đồng cùng mạng lưới 17.000 nhà phân phối, chỉ sau 1 năm thành lập (4.2025) qua đó giảm thiểu sự độc chiếm thị trường của các tập đoàn bán hàng đa cấp đa quốc gia như Amway, Oriflame…Tuy nhiên sự xuất hiện này của các doanh nghiệp vẫn chưa cân bằng được với các công ty nước ngoài. Sự đổ bộ hàng loạt của các thương hiệu nước ngoài kinh doanh nhiều loại sản phẩm vẫn chiếm thị phần rất lớn tại thị trường Việt Nam. Tính riêng nhãn hiệu Sophie Paris ( một nhãn hiệu thời trang kinh doanh đa cấp của Indonesia ), đạt doanh thu khoảng 2 triệu USD và hơn 13.000 nhà phân phối, chỉ sau chưa đầy 5 tháng kinh doanh (từ cuối năm 2025). Ngoài ra riêng Amway Việt Nam đạt mức doanh thu cả năm 2025 hơn 30 triệu USD, chiếm hơn 22% thị phần. Hai ví dụ trên cho thấy sự chênh lệch giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài ( ngay cả các doanh nghiệp từ khu vực Đông Nam Á ). Các doanh nghiệp nước ngoài họ có nhiều kinh nghiệm kinh doanh quản lý hình thức này trên nhiều quốc gia và lợi thế về công nghệ sản phẩm nên có sự vượt trội hơn so với các doanh nghiệp Việt.
1.2. Thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp tại Việt Nam
1.2.1.Về sản phẩm
Như đã đề cập bán hàng đa cấp cũng là một hình thức tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, tuy nhiên không phải sản phẩm nào cũng phân phối hiệu quả qua phương thức này. Có 3 nhóm sản phẩm phù hợp nhất cho việc phân phối qua hình thức này là: Hàng tiêu dùng, Mỹ phẩm, Thực phẩm ăn uống và Thực phẩm dinh dưỡng chức năng. Thực tiễn Việt Nam cũng chứng minh cho điều kiện này với 5 nhóm hàng là : vật dụng gia đình, thực phẩm chức năng, chăm sóc cá nhân ( mỹ phẩm, trang sức, quần áo..), các loại dịch vụ ( du lịch…) và các sản phẩm giải trí, học tập ( sách, videos…)
Trong hội nghị tổng kết hoạt động quản lý bán hàng đa cấp của cục quản lý cạnh tranh cuối năm 2025 cho thấy bán hàng đa cấp tại Việt Nam phân phối hơn 1000 dòng sản phẩm trong đó chiếm 80% lại là các dòng thực phâm chức năng và thuốc. Các loại thực phẩm chức năng có mặt gần như trong tất cả danh mục sản phẩm đăng ký kinh doanh của các công ty đa cấp. Riêng trong danh mục thực phẩm chức năng lại có hàng loạt các sản phẩm khác nhau với nhiều loại nhãn hiệu như Herbalife, Noni Vina, Vina-link Group, Eternal Sunshine Company and Kim Do Corporation…. Tổng quan thì các thực phẩm chức năng là các sản phẩm mới xuất hiện ở nước ta có nhiều chức năng đa dạng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng như thực phẩm hỗ trợ giảm cân, bổ sung vitamin các loại, các loại nước uống…. Tuy nhiên chính sự mới mẻ của các dòng sản phẩm này lại mang lại sự khó khăn trong kiểm định chất lượng và khó khăn trong hoạt động quản lý.
Xếp thứ hai sau các sản phẩm thực phẩm chức năng là các sản phẩm thuộc dòng chăm sóc cá nhân như các loại mỹ phẩm chiếm khoảng 10% các dòng sản phẩm, thời trang quần áo..Nổi bật nhất là các dòng mỹ phẩm của Amway, Avon, and Oriflame. Các mỹ phẩm này được người tiêu dùng đánh giá cao về mặt chất lượng so với các dòng sản phẩm thông thường khác do tính năng vượt trội tuy giá thành vẫn khá cao. Ngoài mỹ phẩm, các sản phẩm thời trang như áo quần và trang sức cũng bắt đầu được phân phối theo hình thức bán hàng đa cấp điển hình là thời trang của Sophie Paris. Các sản phẩm thời trang đều là các sản phẩm cao cấp nhắm có giá thành trung bình tới cao. Hầu hết là các mẫu độc quyền của nhà sản xuất thiết kế và sản xuất. Đây là khoảng trống thị trường do các sản phẩm thấp cấp bán lẻ và các sản phẩm cao cấp giá thành rất cao đê lại.
Thứ ba là các máy gia đình như cleaning, nấu ăn…tiện ích hỗ trợ nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. các sản phẩm này có giá thành cao. Nổi tiếng trong phân phối các loại sản phẩm này là IANSHI Light Company Limited and Viet-Am international JSC. Đây là nhóm sản phẩm thường bị các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính lợi dụng để lừa đảo do giá thành cao khó nhận biết và dễ dàng áp đặt người mua. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Ngoài các nhóm sản phẩm trên sản phẩm phân phối qua hình thức bán hàng đa cấp tại nước ta ngày càng trở nên đa dạng , không chỉ là sản phẩm mà còn có cả dịch vụ như dịch vụ du lịch, đào tạo … như HỌC ĐƯỜNG cung cấp việc đào tạo kỹ năng mềm cho người tham gia.FNC ( thuộc FPT ) cung cấp dịch vụ mạng và lắp đặt ADSL.
Một điểm yếu của các sản phẩm phân phối đa cấp ở Việt Nam là hầu hết chúng có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập khẩu về nước ta, có rất ít các sản phẩm thuần Việt. Gần như toàn bộ các loại mỹ phẩm, máy móc, thực phẩm chức năng đều do các tập đoàn đa quốc gia phân phối tại nước ta. Nhưng bên cạnh đó cũng có sự xuất hiện dần của các sản phẩm Việt và các nhà máy sản xuất trực tiếp tại Việt Nam . Như Amway đã đầu tư 14,8 triệu USD để xây dựng nhà máy sản xuất thứ 3 của họ trên thế giới tại Việt Nam.
1.2.2. Về doanh thu
Từ bảng 1 trang 19, doanh thu của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp tăng nhanh qua các năm. Đặc biệt năm 2024 doanh thu đạt hơn 2500 tỷ vnđ tăng 150 % so với năm 2023 ( > 1500 tỷ ). Tốc độ phát triển này là thành tựu đáng ghi nhận vơi hoạt động bán hàng đa cấp ở nước ta. Tuy thị trường Việt Nam còn non trẻ nhưng so sánh với các thị trường trẻ khác tương tự thì tốc độ của họ chỉ đạt từ 20-30% năm. Con số 150% /năm cho thấy sự hấp dẫn của thị trường nước ta với ngành hàng kinh doanh đa cấp.
Tuy nhiên, so với Malaysia một nước trong khu vực với 28 triệu dân nhưng mức doanh thu từ bán hàng đa cấp đạt tới con số hơn 2 tỷ USD ,nước ta quy mô dân số 89 triệu nhưng mức doanh thu xấp xỉ 2800 tỷ tương đương 140 triệu USD thì hiệu quả của hoạt động bán hàng đa cấp của nước ta còn thấp và tiềm năng thị trường là rất lớn để có thể mở rộng.
Trong mức doanh thu gần 2.800 tỷ vnđ năm 2.010 thì chiếm phần lớn trong số đó là của các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này cũng không khó hiểu khi mà phần lớn thị trường và các sản phẩm đều có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài.
Một vấn đề gây bức xúc với hoạt động bán hàng đa cấp là việc quản lý và xác định doanh thu của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Cơ quan quản lý nhà nước không dễ gì nắm được 100% doanh thu của doanh nghiệp. Là người trong cuộc, tổ chức điều hành mạng lưới bán hàng, doanh nghiệp đương nhiên có các biện pháp để quản lý được doanh thu của họ, chí ít ra thì cũng quản lý tốt hơn cơ quan nhà nước nhưng thực sự việc kết nối giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý là chưa tốt. Thực tế là có rất nhiều doanh nghiệp bán hàng đa cấp sử dụng thủ thuật để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ khi bị điều tra thì họ mới xin nộp bổ sung vì lý do kê khai thiếu. Ví dụ điển hình là công ty Hưng Thời Đại khi bị kiểm tra thì xin nộp bổ sung 2,2 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp do kê khai thiếu.
1.2.3. Về mô hình hoạt động Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Trong số các mô hình hoạt động bán hàng đa cấp đã đề cập trên phổ biến nhất ở nước ta là 2 mô hình : nhị phân và bậc thang ly khai.
Mô hình nhị phân được áp dụng sớm hơn ở nước ta. Nó xuất hiện từ khi bán hàng đa cấp có mặt tại nước ta và rất phổ biến ở giai đoạn sau đó. Ưu điểm dễ thấy của mô hình này là sự khuyến khích với người tham gia cần có sự quan tâm tới sự phát triển hệ thống của mình. Tuy nhiên mô hình này tiềm ẩn nhiều nguy cơ và nhiều quốc gia trên thế giới coi mô hình này là mô hình bất chính do sự kém minh bạch, hạn chế sự phát triển của các cá nhân gia nhập sau so với người gia nhập trước, và quản lý chặt chẽ hoặc cấm sử dụng. Nước ta cũng chứng minh tính bất ổn của mô hình này vì hầu hết các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính bị xử phạt sử dụng mô hình này, ví dụ như công ty Sinh Lợi…Tuy vậy cho đến này mô hình này vẫn được sử dụng, và khá phổ biến ở các doanh nghiệp nội và các doanh nghiệp nhỏ.
Sau khi có sự gia nhập của các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực kinh doanh đa cấp thì mô hình tiên tiến nhất là mô hình bậc thang ly khai được đưa vào nước ta và dần trở nên phổ biến vì tính ưu việt của nó. Hầu hết các công ty nước ngoài kinh doanh đa cấp sử dụng mô hình bậc thang ly khai. Điển hình là các công ty như Amway, Oriflame ..
Vấn đề quản lý trong viêc sử dụng mô hình kinh doanh đa cấp gặp khá nhiều khó khăn do thiếu hụt kinh nghiệm và sự hướng dẫn của hệ thống luật pháp của nước ta. Một vấn đề khác với việc sử dụng mô hình kinh doanh đa cấp là tỷ lệ hoa hồng, tỷ lệ hoa hồng do mỗi công ty xác định nhưng khi xác định chi phí của mô hình khi thì xuất hiện tranh cãi về việc tỷ lệ % hoa hồng có được tính tòan bộ vào chi phí khi xác định thu nhập chịu thuế của DN hay phải chịu tỷ lệ % khống chế, qua đó để có thể xác định thuế thu nhập doanh nghiệp. Hiện nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định này.
1.2.4. Về nhân viên bán hàng
Nhân viên bán hàng hay thực chất là các nhà phân phối trong bán hàng đa cấp. Dựa trên báo cáo của cục quản lý cạnh tranh tính đển hết năm 2025 số lượng người tham gia bán hàng đa cấp ở nước ta đạt xấp xỉ 900.000 người nhưng thực tế con số này có thể đã vượt qua 1 triệu người ( gấp 4 lần so với năm 2022 với gần 250.000 người ) . So với tổng số dân của nước ta là 89 triệu người thì lượng người tham gia vào bán hàng đa cấp là chưa cao so với hình thức phân phối bán lẻ truyền thống.
Theo điều tra nghiên cứu ở các nước trên thế giới, tỷ lệ phụ nữ tham gia bán hàng đa cấp cao hơn nam giới. có thể kể đến như Mỹ tỷ lệ nữ tham giam gia bán hàng đa cấp chiếm tới 81,8%. Thực tế nước ta tuy chưa có thống kê chính thức nhưng với đặc điểm các sản phẩm phân phối đa cấp thì phần lớn vai trò quyết định tiêu dùng các sản phẩm loại này thường là phụ nữ là chủ yếu nhất là các loại mỹ phẩm hay đồ dùng gia đình. Thêm vào đó là đặc điểm văn hóa nước ta phụ nữ thường ở nhà lo nội trợ nên có nhiều thời gian rảnh và họ thường chia sẻ hơn là nam giới nên tỷ lệ phụ nữ tham gia bán hàng đa cấp ở nước ta sẽ cao hơn nam giới và phụ nữ cũng là đối tượng chính để được mời chào để tham gia bán hàng đa cấp.
Nếu xét theo độ tuổi của các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp thì có thể thấy người tham gia chủ yếu là người thuộc độ tuổi từ 18- 30, sau đó là người từ 30 – 46 tuổi. theo thống kê ước lượng tỷ lệ người tham gia bán hàng đa cấp tuổi từ 18 – 30 chiếm khoảng 40% còn người từ 30 – 46 chiếm khoảng gần 30 % ( con số so sánh ước lượng với các nước trong khu vực ). Giai đoạn 2022-2025 cũng thấy sự gia nhập mạnh mẽ của đội ngũ sinh viên vào trong hoạt động bán hàng đa cấp với mục đích kiếm thêm thu nhập, nâng cao kinh nghiệm và tận dụng thời gian rỗi.
Hầu hết các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp đều chọn nó như một công việc Part time của họ chứ không phải là một công việc chính thức full-time. Chỉ một số ít chọn bán hàng đa cấp là công việc chính thức do yêu cầu của bán hàng đa cấp không cần phải đầu tư nhiều thời gian, thời gian làm việc là tự do và hơn hết đa số người tham gia coi nguồn thu từ bán hàng đa cấp là phụ vì không dễ dàng để có thể có được doanh thu cao trong bán hàng đa cấp bởi lẽ bán hàng đa cấp cũng có khó khăn và yêu cầu riêng. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Yếu điểm chung của nhân viên bán hàng đa cấp là họ thiếu hiểu biết về hoạt động bán hàng đa cấp do nguồn thông tin còn hạn chế và việc đào tạo của các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào cách bán hàng và mời người hiệu quả chứ chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho người tham gia bán hàng đa cấp. Nguồn thông tin về bán hàng đa cấp không chính thức trong khi từ các nguồn không chính thức thì có vô vàn và mâu thuẫn lẫn nhau về hoạt động này. Chính vì thế gây ra sự hoang mang và thiếu hiểu biết của các cá nhân tham gia, là điều kiện lý tưởng cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính.
Tồn tại khác trong phương diện nhân viên bán hàng ở nước ta chủ yếu là do sụ thiếu hiểu biết và tâm lý muốn phát triển nhanh, có thu nhập cao từ bán hàng đa cấp nên không ít người chọn cách thổi phồng lợi ích và sự dễ dàng của bán hàng đa cấp để có thể lôi kéo nhiều người tham dự hơn qua đó kiếm hoa hồng nhanh hơn chứ không tập trung vào hoạt động bán và phân phối sản phẩm để có hoa hồng nên gây ra sự hiểu nhầm về hình thức kinh doanh này. Gây ra sự hụt hẫng, cảm giác bị lừa đảo khi chính thức bước chân vào bán hàng đa cấp của nhiều người. Và chính họ là những người sẽ phê phán mạnh hình thức bán hàng đa cấp.
1.2.5. Chiến lược bán hàng
Hiện nay các doanh nghiệp sử dụng 2 loại chiến lược bán hàng cơ bản là: bán hàng trực tiếp cá nhân mặt đối mặt (Individual/Person-to-Person selling ) , bán hàng theo nhóm và qua các hội nghị (Party plan/group selling ).
Bán hàng cá nhân trực tiếp mặt đối mặt là chiến lược phổ biến nhất có thể chiếm tới 80% , do các cá nhân trực tiếp lấy hàng từ công ty rồi trực tiếp bán lại cho người tiêu dùng cuối cùng.
Ngoài ra các công ty còn sử dụng một chiến lược khác là tổ chức các hội nghị và bán hàng theo nhóm. Thông qua việc tổ chức hội nghị tạo cơ hội cho các cá nhân biết tới sản phẩm và dịch vụ của công ty và trực tiếp tạo điều kiện để thu hút cá nhân tham gia bán hàng đa cấp. thông thường ở nước ta việc bán hàng qua hội nghị hay bán hàng theo nhóm thường kèm theo cả các hoạt động đào tạo khác. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
1.2.6. Chính sách thuế với hoạt động bán hàng đa cấp
Chính sách thuế là tồn tại khá gay gắt trong việc quản lý hoạt động bán hàng đa cấp với hai loại thuế cơ bản là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân từ các cá nhân tham gia bán hàng đa cấp. Theo báo cáo của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp, trong những năm qua, tổng số thuế các doanh nghiệp này đã nộp vào ngân sách nhà nước đạt trên 1.200 tỷ đồng, số thuế thu nhập cá nhân đạt trên 170 tỷ đồng.
Tuy nhiên các quy định và việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp bán hàng đa cấp nói riêng còn nhiều hạn chế. Khó khăn trong việc xác định doanh thu bán hàng của các doanh nghiệp và việc xác định chi phí để làm cơ sở tính lợi nhuận qua đó có được cơ sở tính thuế còn phức tạp chưa minh bạch. Ngoài ra việc khấu trừ thuế thu nhập cá nhân (TNCN): Người tham gia hệ thống bán hàng đa cấp đương nhiên nhận được thu nhập từ tỷ lệ % hoa hồng được hưởng, doanh nghiệp bán hàng đa cấp sẽ phải thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khấu trừ theo tỷ lệ 10% đối với những món chi trả có trị giá 500.000 đồng/lần trở lên hay khấu trừ theo Biểu thuế lũy tiến từng phần? Tính khấu trừ trên tổng số tiền cá nhân được hưởng hay cho loại trừ một phần bởi thu nhập thực của cá nhân là bao nhiêu khi họ phải tự trả tiền chi phí đi lại, bảo quản, vận chuyển hàng hóa, mở các lớp huấn luyện người tham gia mới, tổ chức các cuộc hội thảo,… chỉ trong khuôn khổ tỷ lệ % hoa hồng có được ? Việc xem xét đánh thuế TNCN đối với người tham gia được nhận % hoa hồng có được xem xét trong mối liên quan tính vào chi phí của doanh nghiệp bán hàng đa cấp hay không ? còn là các câu hỏi khó trả lời.
1.2.7. Nhận thức của người dân Việt Nam về marketing đa cấp
Thời gian gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là báo chí lên án rất mạnh mẽ Marketing đa cấp bởi những biểu hiện không lành mạnh của hoạt động kinh doanh này. Dư luận hoang mang lo sợ không phân biệt được đâu là hoạt động Marketing đa cấp chân chính, đâu là hoạt động bất chính. Bên cạnh những người ủng hộ Marketing đa cấp tại Việt Nam, do nhận thức chưa đầy đủ và toàn diện về tình hình phát triển của Marketing đa cấp, một số người đã cho rằng:
Marketing đa cấp là hoạt động kinh doanh bất chính vì bản chất của nó là lừa đảo. Kênh thông tin để người dân tiếp cận với hình thức kinh doanh đa cấp chủ yếu qua phương tiện thông tin đại chúng mà như chúng ta biết các phương tiện thông tin đều đăng tải các công ty kinh doanh bất chính do đó người dân không phân biệt đâu là Kinh doanh đa cấp chân chính đều là bất chính do đó họ đều có một ý niệm chung rằng kinh doanh đa cấp là lừa đảo. Cần nhận thấy ngay nhận định này là không chính xác vì Marketing đa cấp là một phương thức kinh doanh tiến bộ, là một công cụ phục vụ cho kinh doanh. Cũng như bất kỳ phương thức kinh doanh nào khác, nếu mục đích của người sử dụng là làm ăn chân chính thì hoạt động kinh doanh này là tiến bộ, có ích cho xã hội và ngược lại. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Hình thức tuyển người tham gia không minh bạch. Việc sử dụng các hành vi không minh bạch để lôi kéo người khác tham gia như chỉ ra các khoản “siêu lợi nhuận” không có cơ sở; trả tiền thưởng chỉ chủ yếu từ việc giới thiệu người khác tham gia, dụ dỗ mua chuộc hay sử dụng các thủ đoạn bất chính khác để lôi kéo người tham gia từ doanh nghiệp khác đến với Doanh nghiệp mình. Đây là một hiện tượng có thực và Doanh nghiệp Marketing đa cấp và những người tham gia cần có những biện pháp xử lý, xử phạt những phân phối viên có những biểu hiện sai trái để trách làm hại uy tín của Doanh nghiệp và những nhà phân phối khác.
Chất lượng, công dụng sản phẩm được quảng cáo rất sai lệch so với thực tế. Chất lượng, công dụng của sản phẩm trong Marketing đa cấp được quảng cáo truyền miệng từ người này sang người khác nên chắc chắn không trách khỏi một bộ phận tham gia thổi phồng sản phẩm lên nhiều lần với mục đích bán được hàng. Ví dụ như: Nước ép Noni – cuộc cách mạng về sức khoẻ; Herbalife – vì sức khoẻ và sắc đẹp thực phẩm dưỡng sinh số 1 Hoa Kỳ…. Thực chất, đây chỉ là thực phẩm chức năng, có tác dụng bồi bổ và nâng cao sức khoẻ, không thể trị được bách bệnh. Do đó, người nghe cần tỉnh táo, tiếp cận thông tin có chọn lọc để tránh tình trạng bị chính người thân quen của mình lừa.
Giá bán của sản phẩm cao gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Bản chất của marketing đa cấp là bán sản phẩm lòng vòng trong hệ thống những người tham gia mà không chú ý đến việc cung cấp sản phẩm đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng.
1.2.8. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động marketing đa cấp Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Marketing đa cấp mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam hơn 10 năm gần đây nhưng thực tiễn hoạt động kinh doanh marketing ở Việt nam đang diễn biến phức tạp, gây ra nhiều tranh cãi gay gắt trong xã hội về việc thừa nhận hay không thừa nhận sự tồn tại của nó cũng như các hậu quả phát sinh cho xã hội. Trong thời gian đầu khi hoạt động marketing đa cấp mới du nhập vào Việt Nam, do chưa có khung pháp lý điều chỉnh cũng như sự quản lý về mặt nhà nước, hoạt động Marketing đa cấp tại Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng tự phát. Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng kẽ hở để thực hiện phương thức kinh doanh lừa dối khách hàng, lừa dối những người tham gia, gây tổn hại về mặt vật chất cho họ và tạo những phản ứng tiêu cực trong xã hội. Cho đến cuối tháng 4 năm 2020, vẫn chưa có văn bản pháp luật cụ thể nào điều chỉnh hoạt động marketing đa cấp ở Việt Nam, chỉ có một số quy định điều chỉnh những vấn đề chung của kinh doanh có thể áp dụng đối với hình thức kinh doanh mới mẻ này như đăng ký kinh doanh, giao kết hợp đồng, vấn đề chất lượng sản phẩm, nhãn hàng hoá, quảng cáo, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng,… Tuy nhiên, những quy định này nằm rời rạc trong các văn bản khác nhau và không hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của marketing đa cấp.
Cho đến cuối năm 2020, sau gần 5 năm hoạt động Marketing đa cấp tiến hành tại thị trường Việt Nam, Chính phủ mới ban hành Nghị định số 110/2020 ngày 24/08/2020 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Đây là cơ sở để điều chỉnh một số hoạt động bán hàng đa cấp, mối quan hệ giữa người tham gia và Doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Theo đó những hành vi: yêu cầu người tham gia phải mua hàng hoá để được quyền tham gia, người tham gia phải trả tiền gia nhập, trả phí đào tạo v.v…. đã bị cấm. Tuy nhiên, các quy định về chế tài xử phạt đối với các vi phạm chưa cụ thể và rõ ràng. Như vậy, hoạt động Marketing đa cấp ở Việt Nam thiếu sự quản lý, giám sát của Nhà nước trong thời gian khá lâu, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc lợi dụng nó để thực hiện hoạt động lừa đảo, chiếm dụng tiền của người tham gia.
Vấn đề quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh đa cấp còn rất yếu và thiếu.
1.2.8.1- Quản lý đối với doanh nghiệp:
Cơ quan có thẩm quyền quản lý doanh nghiệp thông qua đăng ký kinh doanh, các báo cáo của doanh nghiệp và thông qua kiểm tra, giám sát. Trước đây, các doanh nghiệp kinh doanh đa cấp đều đăng ký kinh doanh với ngành hàng mua bán, ký gửi hàng hoá nhưng giấy tờ đăng ký kinh doanh lại không thể hiện nội dung kinh doanh đa cấp. Nhiều doanh nghiệp lách luật bằng cách nhập hàng từ nước ngoài về dưới dạng quà biếu rồi sau đó lại ngay lập tức bán ra thị trường nên nhà nước không thu được một khoản thuế nào từ hoạt động marketing đa cấp của các doanh nghiệp này.
Ngoài ra, quan hệ giữa phân phối viên và doanh nghiệp kinh doanh đa cấp được quy định trong hợp đồng là quan hệ hợp đồng đại lý tiêu thụ chứ không phải quan hệ lao động. Các văn phòng đại diện của các công ty Marketing đa cấp, theo luật, không được tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trên thực tế, các văn phòng này thường đứng ra tổ chức mạng, quản lý mạng, tổ chức tập huấn kinh doanh. Như vậy, các doanh nghiệp này đã vi phạm pháp luật mà không bị xử lý.
Chính sự buông lỏng trong quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp Marketing đa cấp đã dẫn đến tình trạng phát triển tự phát, lộn xộn và gây nhiều thiệt hại cho xã hội. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
1.2.8.2 – Quản lý của đối với người tham gia kinh doanh đa cấp:
Do đặc trưng của marketing đa cấp là chia sẻ thông tin truyền miệng từ người này sang người khác nên cả nhà nước và Doanh nghiệp đều không thể quản lý hoạt động của từng phân phối viên. Kết quả là nhiều phân phối viên đã thực hiện những hành vi quảng cáo gian dối, mang tính lừa đảo…. mà không bị xử lý.
Hoạt động marketing đa cấp của phân phối viên diễn ra thường xuyên, liên tục và mang lại thu nhập ổn định cho phân phối viên nhưng nhà nước không quản lý được hoạt động này. Nhiều phân phối viên có thu nhập cao nhưng lại tránh được khoản thuế thu nhập cho nhà nước, gây nên sự thiếu công bằng.
Tóm lại, marketing đa cấp ngày càng phát triển ồ ạt ở Việt Nam nhưng thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, các doanh nghiệp cũng chưa có các biện pháp hiệu quả để quản lý phân phối viên nên đã dẫn đến tình trạng quá đông người tham gia mạng lưới, gây lộn xộn, khó kiểm soát.
2. Phân tích hoạt động marketing đa cấp của một số công ty tại Việt Nam Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
2.1. Giới thiệu về Amway
2.1.1. Tập đoàn Amway
Armway là một trong những công ty kinh doanh theo mạng thành công nhất trên thế giới. Trong lịch sử hình thành ngành kinh doanh theo mạng gắn liền với tên tuổi nhà hóa học Karl Renborg.
Karl Renborg trong thời gian sống ở Trung Quốc đã có quan sát những ảnh hưởng của chế độ ăn uống không đủ chất tác động lên cư dân trong vùng. Karl Renborg đã bắt đầu cuộc thí nghiệm bằng cách chiết xuất và cô đặc các chất dinh dưỡng từ nguồn thực vật khác nhau cho đến khi ông sản xuất thành công sản phẩm đầu tiên mà ngày nay người ta biết đến như là thực phẩm bổ xung dinh dưỡng Nutrilite.
Ông đã thành lập công ty mang tên Nutrilite Products Inc để bán các sản phẩm của mình theo mô hình bán hàng trực tiếp. Từ đó ngành kinh doanh theo mạng ra đời.
Rich Devos và Jay Van Adel là hai nhà phân phối sản phẩm Nutrilite trong 10 năm. Đến năm 1959 hai ông cùng đứng ra thành lập công ty American Way Coporation, viết tắt là Amway và đã đưa AmWay trở thành một câu chuyện kinh doanh theo mạng thành công nhất từ trước tới nay.
Rich và jay thành lập Amway với 2 triết lý căn bản:
Sản suất ra những sản phẩm có chất lượng tốt, an toàn cho sức khỏe người sử dụng và thân thiện với môi trường.
Đem lại cơ hội kinh doanh công bằng cho tất cả mọi người.
Ngay trong những ngày đầu sáng lập Amway, hai ông đã lập ra Hiệp hội các nhà phân phối Amway(ADA) với mục tiêu bảo vệ quyền lợi các nhà phân phối. Tất cả chính sách công ty Amway đưa ra có ảnh hưởng đến quyên lợi nhà phân phối đều phải thông qua sự chấp thuận của ADA. Chính điều này làm cho các chính sách phân phối của Amway ổn định và hướng đến quyền lợi cao nhất cho nhà phân phối Amway trong hơn 52 năm qua.
Sau 10 năm hoạt động và phát triển lớn mạnh, Công ty Amway đã mua lại hàng Nutrilite. Ngày nay, Nutrilite đã trở thành một phần của Tập đoàn Amway. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Trụ sở chính của công ty Amway đặt tại thành phố ADA bang Michigan của Mỹ với tổng diện tích 137,6 hecta. Amway có hơn 65 phòng thí nghiệm trên toàn cầu (Việt Nam có 01 phòng thí nghiệm) với đội ngũ hơn 700 nhà khoa học, kỹ sư và chuyên viên luôn nghiên cứu để thay đổi và cải thiện tốt nhất những sản phẩm của mình. Amway hiện đang sở hữu trên 1000 bằng sáng chế độc quyền và hơn 700 bằng sáng chế khác đang trong giai đoạn chờ cấp. Có 9 trang trại hữu cơ với 6.400ha.
Các sản phẩm của Amway hầu hết được sản xuất từ nguồn nguyên liệu hữu cơ và thiên nhiên nên rất an toàn cho người sử dụng và không gây ô nhiễm môi trường. Amway là tập đoàn thứ 2 trên thế giới được tổng thư ký của UNO(United Nations Environment) trao giải thưởng cao quí về bảo vệ môi trường.
Ngày nay Amway đã có mặt ở hơn 108 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 3 triệu nhà phân phối và hơn 15.000 nhân viên. Amway sản xuất ra trên 450 mặt hàng tiêu dùng và phân phối hơn 10.000 sản phẩm các loại có tính năng độc đáo của các hãng nổi tiếng trên thế giới như Sharp, Phillips, Sony, Valentino…
Tốc độ tăng trưởng của tập đoàn Amway rất đều. Doanh số năm 2021 là 6,3 tỷ USD, năm 2022 là 7,1 tỷ USD, năm 2023 là 8,2 tỷ USD, năm 2024 là 8,3 tỷ USD, năm 2025 là 9,2 tỷ USD. Các thị trường lớn nhất của Amway là: Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Hàn Quốc, Thái lan….
Năm 2011 – 2012, Amway đứng trong top 10 các tập đoàn có giá trị thương hiệu cao nhất thế giới. Mercedes, IBM và Amway là 3 tập đoàn lớn có giá trị thương hiệu vô thời hạn.
2.1.2. Amway Việt Nam
Năm 2021, Amway vào Việt Nam với giấy phép đầu tư 50 năm và xây dựng nhà máy tại khu công nghiệp Amata, Biên Hòa, Đồng Nai với số vốn đầu tư 14 triệu USD, năng lực sản suất 30 triệu USD giá trị sản phẩm trong 1 năm. Với nhà máy này, Việt Nam trở thành quốc gia thứ 2 có nhà máy Amway ngoài lãnh thổ nước Mỹ. Vào tháng 2/2023, Amway chính thức tung ra sản phẩm tại thị trường Việt Nam. Trụ sở chính đặt tại 391 Điện Biên Phủ, Q3, TP.HCM. Đến nay đã có trung tâm phân phối tại Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Đà Nẵng và Vinh. Đặc biệt có 2 siêu thị tự chọn tại Hà Nội và TP-Hồ Chí Minh.
Tại Amyway Việt Nam có 4 dòng sản phẩm chính với 60 sản phẩm: dòng sản phẩm chăm sóc đồ da dụng; dòng sản phẩm bổ sung dinh dưỡng Nuttrilite; dòng sản phẩm chăm sóc da Artistry và dòng sản phẩm chăm sóc cá nhân.
Amyway Việt Nam trong 3 năm vừa qua là thị trường có tốc độ tăng trưởng doanh số nhanh nhất thế giới. Năm 2023 doanh số là 8 triệu USD, năm 2024 là 16 triệu USD, năm 2025 là 34 triệu USD.
2.1.2.1. Am way thực hiện quy tắc mua lại sản phẩm Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Khi hợp đồng hết thời hạn hoặc Nhà phân phối tự nguyện chấm dứt hợp đồng, Nhà PP có thể hoàn trả cho Amway số lượng sản phẩm chưa bán hết với điều kiện: Sản phẩn còn nguyên vẹn, mới, chưa sử dụng, Amway sẽ mua lại với giá mà Nhà PP đã mua, trừ lại 10% để chi phí quản lý hành chính, lưu kho và các khoản thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác….
2.1.2.2. Cách tính hoa hồng Amway
- Lợi nhuận bán lẻ.
- Hoa hồng thành tích 6-21%.
- Hoa hồng hổ trợ bảo trợ.
- Hoa hồng lãnh đạo 4%
- Hoa hồng Ruby 2%.
- Hoa hồng lãnh đạo quốc tế.
- Hoa hồng Emerald.
- Hoa hồng Diamond.
- Hoa hồng Diamond Plus.
- Phần thưởng tiền mặt một lần.
Đặc biệt là chính sách hoa hồng Amway không có điểm năng động. Hoa hồng tính trên giá bán lẻ
Mua 100 bán 115. Bạn được hưởng hoa hồng tương đương với 15% giá trị sản phẩm mà bạn bán được.
Hoa hồng thành tích hàng tháng 6 – 21%
Với mỗi sản phẩm bán ra bạn được tính điểm PV tích lủy để tính hoa hồng thành tích hàng tháng:
1 PV =1 $ (đô la Mỹ) (Hiện tại 1$ tương đương với 15.500 VND thời điểm năm 2025)
1 BV = 1 VN
% Hoa hồng tính theo PV
PV | % Hoa Hồng |
600 | 6% |
1200 | 9% |
2400 | 12% |
4000 | 15% |
7000 | 18% |
10000 | 21% |
Tiền hoa hồng của Nhà phân phối hàng tháng được công ty lập trình sẵn qua kết nối máy chủ qua mạng máy chú và được chuyển vào tài khỏan của Nhà phân phối (nếu lớn hơn 50.000VNĐ).
Amway chỉ áp dụng 2 giá cho sản phẩm: Giá bán lẻ cho những người chưa có thẻ NPP và giá bán sỉ cho NPP. Chênh lệch 2 giá này là 15%. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Khi bạn mở thẻ NPP của Amway thì bạn được mua giá sỉ (giảm 15%). Đó là lợi ích đầu tiên khi mở thẻ NPP với Amway.
Về hoa hồng (thực chất đây là chi phí quảng cáo): Tổng tất cả các loại hoa hồng thì có tới hơn 10 loại hoa hồng khác nhau, nhưng cơ bản nhất đó là “HOA HỒNG THÀNH TÍCH” (21%) và đây cũng là loại hoa hồng cơ bản nhất mà chúng ta được hưởng. Các loại hoa hồng khác khi các bạn đạt 21% ta tìm hiểu sau chưa muộn.
Tất cả chính sách về hoa hồng của Amway đã được lập trình sẵn và rất công bằng, ai làm được nhiều hưởng nhiều, ai làm được ít hưởng ít.
HOA HỒNG THÀNH TÍCH: Được phân theo mức độ phần trăm như sau: Doanh số được tính theo điểm: 1PV = 15.500vnd. Việc quy đổi giá trị điểm này do Công ty Amway quy định, giá trị quy đổi này có thể thay đổi. Đây là căn cứ để tính hoa hồng thành tích. Nhưng ở đây tác giả quy ra tiền Việt Nam luôn cho dễ hiểu.
Doanh số được tính cho bạn sẽ là căn cứ để xác định bạn ở mức phần trăm nào theo sơ đồ trả thưởng. Doanh số này được cộng dồn của tất cả những NPP nằm trong tuyến của bạn (từ bạn trở xuống cho đến người mới nhất trong tuyến của bạn) và chỉ tính trong 1 tháng, tháng nào tính tháng đó.
Theo bảng quy định mức hoa hồng của Công ty:
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 9 triệu đồng -> dưới 18 triệu đồng) -> bạn ở mức = 6%.
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 18 triệu đồng -> dưới 36 triệu đồng) -> bạn ở mức = 9%.
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 36 triệu đồng -> dưới 60 triệu đồng) -> bạn ở mức = 12%.
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 60 triệu đồng -> dưới 105 triệu đồng) -> bạn ở mức = 15%.
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 105 triệu đồng -> dưới 150 triệu đồng) -> bạn ở mức = 18%.
- Doanh số nhóm của bạn đạt trong khoảng (từ 150 triệu đồng trở lên ) -> bạn ở mức = 21%.
Cách tính như sau: Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Trên mỗi đơn vị sản phẩm bán ra Amway luôn trả ngược lại hệ thống người tiêu dùng là 21%. doanh số toàn nhóm của bạn đạt ở mức phần trăm nào theo bảng quy định trên thì Amway trả thưởng về cho nhóm của bạn bấy nhiêu phần trăm, nhưng tối đa cho hoa hồng thành tích là 21%.
Giá thiết bạn đã thiết lập được 3 nhóm người tiêu dùng là A, B, C. Trong đó nhóm A có doanh số tiêu thụ trong tháng là 7 triệu đồng, nhóm B là 12 triệu đồng và nhóm C là 18 triệu đồng.
Như vậy tổng doanh số của 3 nhóm A + B + C được tính là doanh số của bạn = 7 + 12 + 18 = 37 triệu đồng.
Đối chiếu theo bảng quy định mức % ở trên thì:
- Bạn ở mức 12%
- Bạn A ở mức 0%
- Bạn B ở mức 6%
- Bạn C ở mức 9%
Bạn nhận được hoa hồng thành tích như sau:
Lấy mức % của bạn trừ (-) cho mức % của từng nhóm trong mạng lưới của bạn sẽ ra % chênh lệnh mà bạn được hưỡng.
- Chênh lệnh % từ A là: 12% – 0% = 12% x doanh số của A = 12% x 7 triệu = 840.000 VNĐ (1)
- Chênh lệch % từ B là: 12% – 6% = 6% x D.số của B = 6% x 12 triệu = 720.000VNĐ (2).
- Chênh lệch % từ C là: 12% – 9% = 3% x D.số của C = 3% x 18 triệu = 540.000VNĐ (3).
=> Cộng (1) + (2) + (3) = 2.100.000 VNĐ là hoa hồng chênh lệch bạn hưởng thụ động gián tiếp từ hệ thống tiêu thụ mà bạn đã thiết lập được.
Thí dụ (1) : Về lợi nhuận bán lẻ
- Giả sử trong tháng đầu bạn tự bán sản phẩm có được tổng giá trị điểm là 600PV (Giá trị điểm “GTĐ”)
- Lợi nhuận bán lẻ của bạn là : 15.500 x 600 x 15% = 1.395.000 VND.
- Hoa hồng thành tích của bạn là : 15.500 x 600x 6% = 558.000 VND.
- Tổng thu nhập của bạn là : 1.953.000 VND
Nếu bạn bảo trợ cho các Nhà Phân Phối khác bạn còn nhận được khoản tiền chênh lệch của hoa hồng thành tích trên doanh số của nhóm cá nhân của bạn. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Thí dụ (2) Về hoa hồng thành tích. (doanh số nhóm cá nhân)
- Giả sử trong tháng giá trị điểm của bạn đạt 200PV, bạn bảo trợ 2 nhà PP khác, mỗi người trong số đó cũng đạt giá trị điểm là 200PV.
- Bạn được hưỡng hoa hồng thành tích như sau: 15% lợi nhuận bán lẻ của 3.100.000vnđ = 465.000vnđ
- Tổng giá trị điểm cả nhóm của bạn 200pv x 3= 600pv. Bạn được mức hoa hồng thành tích là 6% của 3.100.000vnđ = 186.000vnđ
- Khoản chênh lệch hoa hồng thành tích từ tuyến dưới 6% – 0% = 6%, bạn có 2 tuyến dưới, nghĩa là 3.100.000 DSBH x 6% x 2 = 372.000vnđ
- Tổng thu nhập của bạn trong 1 tháng = 1.023.000vnđ
Giả sử doanh số của nhóm cá nhân của bạn (theo hình trên) là bạn đạt 600 PV và bạn bảo trợ cho 4 người A,B,C,D có doanh số nhóm lần lượt là: ( 3000, 3000, 3000, 600, 600 (PV).
- Cách tính như sau: Tổng PV của bạn và những người mà bạn bảo trợ có được là: 10.200 PV.
- Hoa hồng thành tích cả nhóm là 10.200 x 15.500 x 21% = 33.201.000
- Hoa hồng thành tích của A (người được bạn bảo trợ) là : 3.000 x 15.500 x 12% = 5.580.000
- Hoa hồng thành tích của nhóm B (nhóm được bạn bảo trợ) là : 3.000 x 15.500 x 12% = 5.580.000
- Hoa hồng thành tích của C (người được bạn bảo trợ) là : 3.000 x 15.500 x 12% = 5.580.000
- Hoa hồng thành tích của D (người được bạn bảo trợ) là : 15.500 x 600 x 6% = 558.000 VND
- Hoa hồng chênh lệch mà bạn nhận được là 33.201.000 – (5.580.000 x3) -558.000 = 17.298.000 VND + 15% lợi nhuận bạn bán lẻ (1.395.000VNĐ) = 18.693.000 VNĐ.
- Tổng thu nhập của bạn mỗi tháng 18.693.000 VNĐ
- Tổng thu nhập của bạn mỗi năm 18.693.000 x 12 = 224.316.000VNĐ.
- Hoa hồng hổ trợ bảo trợ.
Hoa hồng được tính theo 3 trường hợp:
- Nhóm của bạn đạt 21% và Hổ trợ bảo trợ ít nhất 1 nhóm đạt 21% trong một tháng bạn sẽ nhận toàn bộ hoa hồng hổ trợ bảo trợ.
- Nhóm của bạn không đạt 21% và hổ trợ bảo trợ của bạn có 2 nhóm đạt 21% trong một tháng bạn sẽ nhận được một phần hoa hồng hổ trợ bảo trợ.
- Nhóm của bạn không đạt 21% và hổ trợ bảo trợ của bạn có 1 nhóm đạt 21% trong một tháng bạn không được nhận hoa hồng hổ trợ bảo trợ, số này được tính cho tuyến trên đạt tiêu chuẩn nhận hoa hồng.
Hoa hồng lãnh đạo Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
- Bạn hổ trợ được một thị trường đạt trên 10.000 PV (21%) bạn nhận được 4% hoa hồng lãnh đạo của công ty.
- Hoa hồng lãnh đạo ít nhất là: 10.000 x 15.500 x 4% = 6.200.000 VND
Hoa hồng Ruby
- Điều kiện: Sau khi nhánh Nhà Phân Phối đạt 10.000 PV (21%) tách ra khỏi hệ thống, các nhánh còn lại có tổng điểm PV đạt trên 20.000 PV, bạn được nhận thêm 2% hoa hồng Ryby.
- Hoa hồng Ruby bạn nhận được 20.000 x 15.500 x 2% = 6.200.000 VND.
Hoa hồng lãnh đạo quốc tế 1 %
- Điều kiện: Bạn có ít nhất 3 thị trường đạt 21% trong đó có một nhánh đời thứ 2 đạt 21% trong tháng bạn nhận được thêm 1% hoa hồng lãnh đạo quốc tế dựa trên điểm PV của các nhánh đời thứ 2 đạt 21%.
- Ví dụ: Bạn có 3 nhánh A,B,C đạt 21% và có 2 nhánh đời thứ 2 đạt 21%.
- Khi đó bạn được nhận được: 20.000 x 15.500 x 1% = 3.100.000 VND
Hoa hồng Emeral
- Điều kiện: Trong năm bạn có ít nhất 3 thị trường đạt Platinum (Platinum là danh hiệu dành cho Nhà Phân Phối đạt 21% trong 6 tháng).
- Hội đồng các Emeral được nhận 70.000.000 x 0.25% = 175.000 USD. Số tiền này được chia đều cho các Emeral đạt được.
Hoa hồng Diamond
- Điều kiện: Trong năm bạn có ít nhất 6 thị trường đạt Platinum (Platinumlà danh hiệu dành cho Nhà Phân Phối đạt 21% trong 6 tháng).
- Hội đồng các Diamond được nhận 70.000.000 x 0.25% = 175.000 USD. Số tiền này được chia đều cho các Diamond đạt được.
2.2. Công ty TNHH Thương mại Lô Hội Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
2.2.1. Giới thiệu Tập đoàn Forever Living Products
Forever Living Products International. Inc. (FLP) được thành lập dựa vào ý tưởng của người sáng lập – Ngài Rex Maughan. Ông muốn hình thành một công ty đem lại nhiều mơ ước cho mọi người trong việc thiết lập cho bản thân mỗi người nguồn tài chính thoải mái. Từ ý tưởng lạ thường này đã hình thành nên một kế hoạch tiếp thị tuyệt vời. Kế đến là bắt đầu bằng một loạt sản phẩm độc nhất vô nhị mang lại hiệu quả tốt cho con người. Forever Living Products International, Inc. – FLP được thành lập vào ngày 13/5/1978 tại Phoenix, Arizona… Ngay khi thành lập, công ty đã có mục tiêu rõ ràng là việc kinh doanh phát triển nhanh và đạt được thành công. Hiện nay, sau gần 30 năm (tính đến thời điểm 10-2023), sản phẩm của Công ty đã có mặt ở hơn 135 nước trên thế giới, với hơn 9,5 triệu nhà phân phối trên toàn cầu chính thức tham gia phân phối sản phẩm FLP.
Để đảm bảo uy tín cho công ty và các nhà phân phối của một công ty có nguồn sản phẩm lớn, công ty đã sở hữu các đồn điền trồng cây Lô hội. Hơn nữa, việc sở hữu các đồn điền Lô Hội đã cung cấp cho công ty các nguyên liệu cần thiết, và cũng như tạo điều kiện cho công ty trong việc kiểm tra sự trồng trọt và chất lượng cây Lô Hội của Forever Living Products.
Một bước đáng ghi nhớ là vào ngày 01/05/1981, công ty đã sở hữu nhà máy sản xuất Aloe Vera of America và hai bằng sáng chế thiết yếu trong việc làm ổn định chất gel Lô Hội. Quá trình sáng chế đã chứng minh rằng các sản phẩm Lô hội của công ty khi thành phẩm vẫn không mất đi những hiệu quả tốt của chất gel Lô Hội.
Việc phát triển của công ty vẫn tiếp tục. Công ty đầu tư dây chuyền sản xuất hàng tỷ đô-la và đội ngũ xe tải và xe kéo, tất cả để phục vụ cho nhu cầu của các nhà phân phối trên toàn thế giới.
Một phần rất quan trọng trong sự phát triển của công ty là việc thành lập một đội ngũ nghiên cứu và phát triển để đảm bảo độ tinh khiết của chất lượng sản phẩm cũng như sự hình thành các sản phẩm mới.
Với hơn 7.500 mẫu đồn điền Lô Hội ở Mỹ, Mexico và Cộng hòa Dominica, FLP là nhà trồng trọt, sản xuất và phân phối sản phẩm Lô hội lớn nhất trên thế giới.
Với sự sở hữu các đồn điền Lô hội, công ty có thể kiểm soát những tiêu chuẩn cao trong môi trường trồng trọt hữu cơ, không có chất hoá học và thuốc trừ sâu. Những điều kiện gắt gao của công ty về chất lượng đảm bảo các bạn sẽ luôn có những sản phẩm Lô hội tinh khiết và chất lượng tốt nhất ở khắp mọi nơi.
FLP cũng thành lập nên nhà máy sản xuất sản phẩm từ ong, một trong những nhà máy rộng lớn trên thế giới ở sa mạc Arizona và nhà máy tạo ra các sản phẩm từ ong tinh khiết và chất lượng nhất. Những nỗ lực của đội ngũ nghiên cứu và phát triển của công ty cho phép công ty đạt được một số sáng chế , ví dụ hiện tại là công nghệ thu thập phấn hoa, sáp ong và sữa ong chúa, làm cho công việc kinh doanh sản phẩm từ ong phát triển thêm.
2.2.2. Giới thiệu Công ty TNHH Thương mại Lô Hội (“ATC”)
Tại Việt Nam, Aloe Vera of America (“AVA”) là công ty cung ứng các sản phẩm FLP, cung cấp cho các Nhà phân phối của mình các sản phẩm chất lượng tuyệt hảo, nhân viên hỗ trợ và kế hoạch tiếp thị trong ngành thông qua công ty được chỉ định của mình tại Việt Nam là Công ty TNHH Thương mại Lô Hội (“ATC”). Việc sử dụng phương thức Tiếp thị Đồng đội Forever cũng là điều độc đáo. Công ty FLP và các sản phẩm của họ mang lại cho người tiêu dùng và các Nhà phân phối cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống thông qua việc sử dụng các sản phẩm FLP, và cơ hội thành công ngang nhau cho những ai sẵn sàng thực hiện đúng đắn chương trình này. Không giống hầu hết các cơ hội kinh doanh, các thành viên tham gia FLP không bị rủi ro nhiều về tài chính, bởi họ không bị yêu cầu đầu tư một số vốn tối thiểu và ATC có chế độ mua lại thông thoáng. là thành viên thứ 81 của tập đoàn FLP, ngày 15-06-2017, Công ty TNHH TM Lô Hội đã chính thức ra đời với vai trò là nhà nhập khẩu và phân phối độc quyền các dòng sản phẩm FLP tại Việt Nam.
Sau 6 năm có mặt tại thị trường Việt Nam, dòng sản phẩm Lô Hội đã dần trở nên quen thuộc đối với rất nhiều người tiêu dùng. Tính cho đến thời điểm hiện nay ( năm 2011), Công ty đã có hơn 300.000 nhà phân phối ở khắp 64 tỉnh thành trên cả nước, doanh thu năm 2011 đạt gần 351 tỷ đồng, tăng hơn 3.327% so với năm 2017.
Công ty đang kinh doanh 33 mặt hàng mỹ phẩm và 24 mặt hàng “thực phẩm bổ sung dinh dưỡng”. Nếu chỉ dựa trên khung giá sỉ và lẻ (chưa tính thuế VAT 10%) công bố trên đơn đặt hàng, cho thấy chênh nhau trung bình gần 43%, tỉ lệ đủ kích thích nhiều người tham gia làm nhà phân phối để hưởng giá sỉ. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Thực chất công ty định giá bán cao gấp 40-50 lần (4.000-5.000%) so với giá vốn (sau khi đã tính thuế nhập khẩu, phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho). Với 24 mặt hàng “thực phẩm” vốn chỉ từ 3.226 đồng/lọ, cao nhất 11.592 đ/lọ, nhưng bán sỉ từ 138.000 – 419.000đ/lọ. Giá bán mỹ phẩm lại càng “trên trời”. Xin nêu một vài mặt hàng để tham khảo:
Tên sản phẩm | Giá lẻ | Giá sỉ | Giá vốn |
– Nước uống dinh dưỡng lô hội (chai 1 lít) | 432.000đ | 303.000đ | 7.902đ |
– Nước uống dinh dưỡng Forever Freedom (chai 1 lít) | 503.000đ | 354.000đ | 10.351đ |
– Dầu cá (lọ 60 viên) | 599.000đ | 419.000đ | 9.161đ |
– Viên dinh dưỡng sáp ong (chai 60 viên) | 556.000đ | 389.000đ | 7.729đ |
– Viên dinh dưỡng phấn ong | 348.000đ | 244.000đ | 3.628đ |
– Kem hồi phục da ban đêm (hộp) | 584.000đ | 409.000đ | 12.421đ |
– Bộ làm ốm | 1.523.000đ | 1.066.000đ | 33.123đ |
– Bộ thanh xuân | 2.391.000đ | 1.674.000đ | 57.059đ |
2.2.3. Chính sách trả hoa gồng của Công ty FLP
Tính hoa hồng trên giá lẻ; cộng điểm cả nhóm; cộng điểm 2 tháng liên tục; không hạ cấp; không tách nhóm và được kế thừa.
FLP còn có chính sách Quy định mua lại sản phẩm đối với Nhà phân phối: ATC mua lại bất kỳ sản phẩm FLP nào có thể bán được nhưng chưa bán được mà đã được mua trong vòng 30 (ba mươi) ngày trước đó, từ bất kỳ Nhà phân phối nào khi họ chấm dứt quan hệ phân phối của mình. Nhà phân phối sẽ nhận được một séc trả lại tiền từ ATC với số tiền bằng với khoản chi phí mua của Nhà phân phối đối với các sản phẩm đang hoàn trả, trừ 10% chi phí quản lý, điều hành. Các khoản tiền hoa hồng và/hoặc các lợi ích kinh tế khác bản thân Nhà phân phối chấm dứt quan hệ phân phối nhận được từ việc mua hàng ban đầu đối với lượng sản phẩm FLP Nhà phân phối trả lại cũng có thể bị ATC khấu trừ theo quyết định một cách hợp lý của ATC tùy vào từng trường hợp.
Với hình thức kinh doanh theo mạng, công ty đưa ra “Kế hoạch tiếp thị FLP” với cấu trúc tiền hoa hồng cá nhân từ 5% – 8% -13% -18% cho các cấp bậc tham gia mạng phân phối. Ngoài hoa hồng cá nhân còn có hoa hồng khối lượng từ 3% – 13% – 28%. Tập “Chính sách công ty” còn đưa ra hoa hồng lãnh đạo, “huy hiệu quản lý vàng”, “quản lý ngọc”, “quản lý ngọc bích”, “ngọc bích – kim cương”, rồi những tài sản được đứng tên mình như xe hơi, nhà, thuyền, máy bay… Với hoa hồng hấp dẫn, những ảo vọng “ngất trời” này, các phân phối viên lao vào cuộc tìm người để “bảo trợ”, cứ một người mua hai chỉ tiêu, thì phân phối viên có hoa hồng trên 400.000 đồng, ba người thì hoa hồng gần 2 triệu.
Theo Chính sách trả hoa hồng của FLP Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Nhà phân phối Mới không được nhận tiền hoa hồng cá nhân và hoa hồng khối lượng cho đến khi đạt được cấp bậc Trợ lý Giám sát. từ cấp bậc Trợ lý Giám sát trở lên mới được hưởng hoa hồng khối lượng cả nhóm. Nhà phân phối Mới đã mua 02 (hai) chỉ tiêu từ ATC trong 02 (hai) tháng liên tiếp hoặc ít hơn 02 (hai) tháng sẽ được nâng lên vị trí Trợ lý Giám sát. Tiền hoa hồng cá nhân trên thành tích bán của một Nhà phân phối Mới sẽ được thanh toán cho Người bảo trợ của Nhà phân phối Mới đó. Ngoài ra, các chỉ tiêu sẽ được tính như là thành tích bán cá nhân cho cả Nhà phân phối Mới và Người bảo trợ. Tuy nhiên, Nhà PP Mới được mua hàng giá sỉ bán ra giá lẻ theo quy định của Công ty chênh lệch 43 %.
Nhà phân phối có thể sử dụng 01 (một) tháng hoặc 02 (hai) tháng liên tục để tính dồn Chỉ tiêu cần thiết để đạt được cấp bậc Trợ lý Giám sát, Giám sát, Trợ lý Quản lý hoặc Quản lý. Cấp bậc thăng tiến sẽ được xác định vào đúng ngày Chỉ tiêu được tích lũy đủ để đạt được cấp bậc cụ thể đó.
- Ví dụ:
Khi lên cấp bậc Trợ lý Giám sát, thì nhà phân phối mua sản phẩm sẽ được hưỡng hoa hồng 5% cá nhân trên toàn doanh số bán sản phẩm được. Với điều kiện cả nhóm bán sản phẩm tích lũy được trong 2 tháng liên tục có 2cc (mỗi “c” tương đượng 3.150.000 VNĐ), trong đó có 2 điểm năng động (2cc) của cá nhân bán sản phẩm được, tương đương 6.300.00 VNĐ.
Khi lên cấp bậc Giám sát, thì nhà phân phối mua sản phẩm sẽ được hưỡng hoa hồng 8% cá nhân và 3% trên toàn doanh số của những Trợ lý Giám sát. Với điều kiện cả nhóm bán sản phẩm tích lũy được trong 2 tháng liên tục có 25cc (mỗi “c” tương đương 3.150.000 VNĐ), trong đó có 4 điển năng động (4cc) của cá nhân bán sản phẩm được, tương đương 12.600.000 VNĐ.
Khi lên cấp bậc Trợ lý Quản lý, thì nhà phân phối mua sản phẩm sẽ được hưỡng hoa hồng 13% cá nhân, 5% trên toàn doanh số của những Giám sát và 8% trên toàn doanh số của những Trợ lý Giám sát. Với điều kiện cả nhóm bán sản phẩm tích lũy tích lũy được trong 2 tháng liên tục có 75cc, (mỗi “c” tương đương 3.150.000 VNĐ), trong đó có 8 điển năng động (8cc) của cá nhân bán sản phẩm được, tương đương 25.200.000 VNĐ.
Khi lên cấp bậc Quản lý, thì nhà phân phối mua sản phẩm sẽ được hưỡng hoa hồng 18% cá nhân, 5% trên toàn doanh số của những Trợ lý Quản lý, 10% trên toàn doanh số của những Giám sát và 13% trên toàn doanh số của những Trợ lý Giám sát. Với điều kiện cả nhóm bán sản phẩm tích lũy được trong 2 tháng liên tục có 120cc (mỗi “c” tương đương 3.150.000 VNĐ), trong đó có 12 điển năng động (12cc) của cá nhân bán sản phẩm được, tương đương 37.800.000 VNĐ. Nếu không đạt điểm cc và điểm năng động trong 2 tháng liên tục của mỗi cấp bậc theo quy định thì trong 2 tháng đó, cấp bậc đó không được hưỡng tiền hoa hồng khối lượng mà hoa hồng khối lượng đó được tính cho tuyến trên hưỡng.
Tuy nhiên, Quản lý được Công nhận Năng động có thể giảm yêu cầu hàng tháng từ 12 (mười hai) Chỉ tiêu xuống còn 08 (tám) Chỉ tiêu, bằng cách có hai tuyến dưới riêng biệt với các Quản lý được Công nhận Năng động đã đạt được Thành tích bán ít nhất 25 (hai mươi lăm) Chỉ tiêu một tháng trở lên, như được phản ánh trong bản tóm tắt tháng trước của mỗi Quản lý thuộc tuyến dưới. Ngoài ra, Quản lý được Công nhận Năng động còn có thể giảm 12 (mười hai) Chỉ tiêu xuống còn 04 (bốn) Chỉ tiêu một tháng bằng cách duy trì ba tuyến dưới riêng biệt với các Quản lý được Công nhận Năng động đã đạt được Thành tích bán ít nhất 25 (hai mươi lăm) Chỉ tiêu một tháng trở lên, như được phản ánh trong bản tóm tắt tháng trước đó của mỗi Quản lý thuộc tuyến dưới. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
- Điểm yếu của Công ty:
Thứ nhất: Cấp bậc của cá nhân nhà phân phối sẽ không nhận được tiền hoa hồng nào từ nhóm mạnh nhất của tuyến dưới mạng lưới của mình, nếu nhóm đó đồng cấp hoặc vượt qua cấp bậc của tuyến trên (người bảo trợ). Để tuyến trên (người bảo trợ) được hưỡng hoa hồng từ nhóm mạnh nhất thì sơ đồ này đòi hỏi tuyến trên ( bạn ) phải phát triển và duy trì doanh số các nhóm mới rất cao.
Thứ hai: Dạng sơ đồ này chỉ phù hợp với người “hùng”, người có năng lực rất cao là gì ? Đó là doanh số bán hàng cá nhân và tuyển dụng hàng tháng rất cao, hay còn gọi là điểm năng động để tránh “ngồi mát, ăn bát vàng”. Không tích cực tuyển người mới và giúp đở tuyến dưới, hoặc trong 2 tháng liên tục nếu không đạt điểm cc và điểm năng động của mỗi cấp bậc cụ thể theo quy định thì trong 2 tháng đó, cấp bậc đó không được hưỡng tiền hoa hồng khối lượng mà hoa hồng khối lượng đó được tính cho tuyến trên hưỡng.
Tuy nhiên, cũng có nhiều Công ty quy định chỉ số “năng động” vừa tầm cho các nhà phân phối.
Như vậy, ngay khi để trở thành phân phối viên, phải có người bảo trợ, làm hồ sơ đăng ký và mua đủ 2 chỉ tiêu (khoảng 6,3 triệu đồng “mua hàng giá sỉ, bán giá lẻ chênh lệch 43 % ”) thì mới có mã số cá nhân và đươc phép xây dựng mạng lưới. Chính những người “Mới” này đã bị thiệt do phải mua sản phẩm cho bản hân, gia đình, người quen sử dụng để cảm nhận sản phẩm sau 2 tháng đủ điểm 2cc tương đương khoảng 6,3 triệu đồng.
Ngoài ra, công ty Lô Hội còn bị phát hiện chỉ đăng ký bán “thực phẩm dinh dưỡng” nhưng lại quảng cáo thuốc. Với 24 mặt hàng thực phẩm bổ sung dinh dưỡng do văn phòng đại diện thường trú Forever Living Products Việt Nam công bố tiêu chuẩn chất lượng thực phẩm và được Cục Quản lý chất lượng – vệ sinh an toàn thực phẩm cấp phiếu tiếp nhận, Công ty Lô Hội tự biên soạn, in 2.039 cuốn cẩm nang sử dụng, dày 186 trang, giới thiệu 24 sản phẩm chữa 141 loại bệnh, với hướng dẫn sử dụng, chỉ định, liều dùng… Chữa từ nhiễm độc máu, gãy xương, bỏng, tắc mạch máu não, đột quị, thủy đậu, dịch tả, xơ gan, động kinh… cho đến ung thư.
Với nội dung vô cùng phản khoa học như vậy, không qua kiểm duyệt của cơ quan chức năng, không giấy phép xuất bản, công ty còn in dòng chữ: “Cuốn cẩm nang sử dụng do Công ty Lô Hội phát hành cho các phân phối viên với mục đích giới thiệu sản phẩm Forever Living Products đến với các khách hàng của mình. Công ty Lô Hội nghiêm cấm mọi hình thức sao chép (copy) hoặc trích lục.
Kết quả kiểm tra cho thấy có đến 21/24 mặt hàng kiểm tra là thuốc chứ không phải sản phẩm thực phẩm. Tại đây tổ kiểm tra còn phát hiện 32 đĩa VCD không dán tem kiểm soát của Bộ Văn hóa – thông tin, được nhân bản từ hai cuộn băng gốc để bán với giá 10.000 đồng/đĩa. Đó là những minh chứng cho những hành vi trái pháp luật, gian lận của công ty TNHH TM Lô Hội trong quá trình hoạt động của mình.
Căn cứ biên bản kiểm tra, Sở Thương mại đã đề nghị: UBND TP đình chỉ lưu hành 21/24 sản phẩm thực phẩm, vì theo qui định tại TT20 ngày 11-9-2016 thì đây là các sản phẩm thuốc. UBND TP đề nghị Bộ Y tế xem xét việc cấp giấy phép lưu hành 21/24 sản phẩm thực phẩm là thuốc của Cục Quản lý – chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm – Bộ Y tế. UBND TP đề nghị Bộ Thương mại xem xét cấm kinh doanh theo phương thức truyền tiêu đa cấp (kinh doanh theo mạng) vì không phù hợp với tình hình VN. Truy thu thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập không thường xuyên, phạt thuế với số thuế mà công ty không kê khai…
III. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG MARKETING ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh đa cấp xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 2015, với nhiều diễn biến phức tạp đòi hỏi phải có cơ chế quản lý giám sát chặt chẽ. Luật Cạnh tranh có hiệu lực từ 01/07/2020 đã luật hoá khái niệm kinh doanh đa cấp, ngăn cấm các hành vi kinh doanh đa cấp bất chính. Tiếp theo, Chính phủ đã ban hành Nghị định 110/2020/NĐ-CP ngày 24/08/2020 quy định các nội dung quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp. Bộ Công Thương cũng đã có Thông tư 19/2020/TT-BMT ngày 08/01/2020 hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định 110, chủ yếu liên quan đến thủ tục đăng ký tổ chức kinh doanh đa cấp tại các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch.
Các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch giúp uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cấp Giấy đăng ký tổ chức kinh doanh đa cấp; thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh đa cấp trên địa bàn và báo cáo đình kỳ trước 15 tháng 01 hàng năm với Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Thương mại về việc kiểm tra, giám sát đó.
Theo báo cáo của các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch, tính đến hết ngày 31/01/2022 trên toàn quốc có 25 doanh nghiệp đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp; trong đó Hà Nội có 11 doanh nghiệp đăng ký, TP Hồ Chí Minh có 12 doanh nghiệp đăng ký, 01 doanh nghiệp đăng ký tại Đồng Nai và 01 doanh nghiệp đăng ký tại Bình Dương. Trong số này, 01 doanh nghiệp đã bị thu hồi Giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp do vi phạm pháp luật nghiêm trọng (Công ty TNHH Sinh Lợi) theo Quyết định số 263/QĐ- TM-TTr ngày 26/06/2021 của Sở Thương mại TP HCM, 02 công ty xin rút giấy Giấy đăng ký tổ chức BHĐC (Công ty TNHH Ích Lợi – TP HCM và Công ty TNHH Quy Xuyên Việt Nam – Hà Nội), một công ty xin tạm ngừng hoạt động (Công ty TNHH Dược phẩm Điền Thảo Đường – Hà Nội). Các doanh nghiệp Marketing đa cấp chủ yếu kinh doanh các mặt hàng thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, đồ gia dụng.
- Kết quả đạt được
Qua hơn 10 năm hình thành và phát triển ở nước ta, hoạt động bán hàng đa cấp ở nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất đinh.
Thứ nhất: Tạo được cơ sở ban đầu về bán hàng đa cấp ở nước ta.
Bán hàng đa cấp đã được công nhận là một hình thức kinh doanh hợp pháp. Hệ thống pháp luật và quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp đã được hình thành sơ bộ và đi vào thực tiễn quản lý tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn cho ngành nghề này.Bên cạnh đó tạo được nhận thức đúng về bán hàng đa cấp cho một bộ phận người dân.
Thứ hai: Tuy còn non trẻ về mặt tuổi đời nhưng hoạt động bán hàng đa cấp của nước ta đã có bước phát triển vượt trội. Tốc độ phát triển rất nhanh đạt 100-150% rất đáng hoan nghênh so với mức phát triên trung bình của các nước khác là 10-15%.
Thứ ba: là đã đóng góp cho GDP và ngân sách nhà nước một khoản thuế không nhỏ( thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Thứ tư: Tạo ra được cơ hội việc làm và có thêm thu nhập cho một lượng không nhỏ dân cư tham gia vào hình thức này. Thêm vào đó, mở ra hình thức này cũng đem đến cho nhân dân thêm lựa chọn về chủng loại hàng hóa đến từ những thương hiệu lớn trên thế giới với giá cả ở mức dễ chấp nhận hơn.
Thứ năm: Là thúc đẩy mạnh mẽ hơn tốc độ lưu thông hàng hóa và thu hút đầu tư nước ngoài vào nước ta như các dự án nhà máy sản xuất của Amway.Avon…trị giá hàng triệu USD.
Sau khi Nghị định 110 và Thông tư 19 được ban hành cuối năm 2020, Cục Quản lý cạnh tranh đã tích cực triển khai thực thi các quy định về quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp. Nhận thức được tính chất phức tạp của hoạt động BHĐC, Cục đã tăng cường phối hợp với các Sở Thương mại, Thương mại du lịch tại các địa phương thông qua nhiều hình thức như văn bản, điện thoại, email,… để theo dõi cập nhật diễn biến thực tế, hướng dẫn áp dụng các quy định pháp luật về Marketing thống nhất trên toàn quốc, phố biến kinh nghiệm quản lý của một số địa phương trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả quản lý.
Trong năm 2021, Cục Quản lý cạnh tranh đã thực hiện được nhiều hoạt động để giám sát hoạt động marketing đa cấp như:
Phối hợp với Cục An toàn vệ sinh thực phảm và Vụ Pháp chế – Bộ Y tế về việc hướng dẫn cấp Giấy chứng nhận kinh doanh cho các doanh nghiệp BHĐC kinh doanh thực phẩm chức năng theo yêu cầu của Sở Thương mại TP. HCM:
Phối hợp với Cục Quản lý thị trường xây dựng nội dung quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Kinh doanh đa cấp trong khuôn khổ Nghị định sửa đổi Nghị định 175/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/10/2019 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại;
Phối hợp với Sở Thương mại TP. HCM trong việc xử lý vi phạm pháp luật của Công ty Cổ phần Sinh Lợi;
Tổ chức các khoá tập huấn nghiệp vụ về quản lý hoạt động Kinh doanh đa cấp cho các Sở thương mại – Du lịch Nghệ An, Hải Dương,. Vĩnh Phúc, Thừa Thiên – Huế.
Ngày 08/06/2022, Cục Quản lý cạnh tranh phối hợp với Sở Thương mại và Du lịch Hậu Giang tổ chức khoá Tập huấn nâng cao nghiệp vụ quản lý bán hàng đa cấp cho cán bộ thương mại và quản lý thị trường các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tại Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Theo Nghị định 110/2020/NĐ-CP ngày 24/08/2020 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, công tác quản lý được phân cấp cho các Sở Thương mại, Sở Thương mại – Du lịch địa phương.
Xuất bản một số tài liệu, ấn phẩm phục vụ công tác tuyên truyền pháp luật liên quan đến quản lý Marketing đa cấp. Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành về quản lý hoạt động marketing đa cấp, các Sở Thương mại, Sở Thương mại du lịch đã thực hiện kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong hoạt động Marketing đa cấp trong năm 2021.
Bên cạnh việc thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện Marketing đa cấp tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật có liên quan, trong thời gian vừa qua, các cơ quan hữu quan còn kịp thời phát hiện và xử lý một số vi phạm trong hoạt động marketing đa cấp, được các dư luận ủng hộ rộng rãi, như việc xử lý vụ việc của công ty Sinh Lợi,…
IV: NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG ĐA CẤP TẠI VIỆT NAM Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
1. Khách quan
1.1.Tình hình phát triển của nền kinh tế: Tình hình phát triển của nền kinh tế có tác động tới tất cả các ngành nghề và bán hàng đa cấp cũng không ngoại lệ. Giai đoạn 2015-2022 tốc độ phát triển kinh tế của nước ta thuộc mức khá, nhu cầu tiêu dùng của người dân gia tăng và hoạt động bán hàng đa cấp phát triển khá mạnh mẽ. Gần đây, tuy tình hình kinh tế biến động nhưng nền kinh tế vẫn ổn định, tiêu dùng không giảm, hoạt động bán hàng đa cấp vẫn duy trì phát triển. Tuy có vấp phải tình trạng thất nghiệp gia tăng nhưng đó là cơ hội để bán hàng đa cấp phát triển, do những người thất nghiệp có xu hướng gia nhập bán hàng đa cấp để có việc làm tạm thời. Lạm phát và khó khăn tín dụng lại khiến nhiều người ngần ngại và khó khăn hơn để tiếp cận và quyết định kinh doanh theo mạng, hạn chế sự xuất hiện của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp
Tốc độ phát triển và thay đổi công nghệ. Có một thực tế là công nghệ nước ta khá lạc hậu và trình độ sản xuất trong nước còn kém. Trong khi đó, các công ty bán hàng đa cấp phần lớn là công ty nước ngoài góp vốn hay là đại diện cho họ, phân phối các sản phẩm có nhiều sự khác biệt và chất lượng chủ yếu được đảm bảo nên hoạt động bán hàng đa cấp khá năng động. Nhưng nước ta đang trong quá trình hội nhập nhanh, tiếp cận với các công nghệ hiện đại đã dần rút ngắn khoảng cách sản phẩm cạnh tranh lại. Vì vậy, tốc độ thay đổi công nghệ đang dần nhanh hơn, chu kỳ sản phẩm đã ngắn hơn khiến các doanh nghiệp bán hàng đa cấp cần thay đổi và không chủ quan. Bên cạnh đó, phát triển công nghệ ở nước ta ở lĩnh vực viễn thông- internet đang diễn ra với tốc độ cao hàng đầu thế giới. tạo điều kiện cho việc tiếp nhận các thông tin về bán hàng đa cấp nhanh hơn, có cái nhìn tổng thể hơn và cung cấp cho hoạt động bán hàng đa cấp một lợi thế là xu hướng bán hàng đa cấp kết hợp với mạng xã hội và internet.
1.2. Các điều kiện văn hóa – xã hội
Quy mô dân số nước ta khá lớn với 89 triệu dân, mật độ dân số tập trung tại các thành thị là rất lớn, tốc độ gia tăng dân số cao. Đây là cơ sở khiến các doanh nghiệp và các doanh nghiệp bán hàng đa cấp xác định nước ta là một thị trường không thể bỏ qua với quy mô lớn, nhu cầu về các sản phẩm tiêu dùng, y tế , mỹ phẫm .. lớn cái mà vốn là thế mạnh của hình thức bán hàng đa cấp.
Cơ cấu dân số nước ta là cơ cấu dân số ‘ vàng’ , số người trong độ tuổi lao động lớn, dân số trẻ. Họ là những người năng động, sẵn sàng chấp nhận cái mới. điều kiện thuận lợi cho bán hàng đa cấp và các doanh nghiệp mới gia nhập và phát triển nhanh hơn, mạnh hơn. Nghiên cứu cho thấy rằng ngày càng nhiều sinh viên tham gia hình thức kinh doanh này để thỏa mãn giấc mơ và thử sức mình. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Trình độ dân trí của nước ta còn thấp, nhận thức của đông đảo quần chúng nhân dân về hình thức mới mẻ này còn chưa đầy đủ khiến cho họ dễ bị kẻ xấu lợi dụng và khiến cho hình thức kinh doanh này bị biến tướng mà khó bị phát hiện. Minh chứng rõ nét cho điều này là trong giai đoạn 2015-2019 hàng loạt công ty kinh doanh bất chính bị rút giấy phép nhưng trước đó nó đã lôi kéo, lừa đảo được hàng chục nghìn người tham gia. Và vẫn tiếp diễn cho tơi ngày nay.
Thêm vào đó là làn sóng dư luận và các thông tin nhiều chiều về bán hàng đa cấp ở nước ta là nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động này. Cụ thể, nó ảnh hưởng trực tiếp tới tâm lý khách hàng khi sử dụng sản phẩm của bán hàng đa cấp và sự do dự trong tham gia bán hàng đa cấp của người mới.
1.3. Về mặt địa lý: Nước ta là một quốc gia có vị trí địa lý đắc địa tại khu vực đông nam á, một thị trường đầy tiềm năng trong khu vực. Đặc điểm con người nước ta là thân thiện, chăm chỉ lao động và ham học hỏi.
1.4. Về mặt lịch sử phát triển: Để lại cho nước ta hệ thống văn hóa còn cũ, chế độ trọng nam khiến có một số lượng không nhỏ phụ nữ chỉ ở nhà nội trợ. Tuy nhiên họ lại là những người quyết định về việc tiêu dùng các sản phẩm tương thích vơi kinh doanh theo mạng, nên hiện nay có xu hướng ngày càng gia tăng lượng phụ nữ tham gia vào bán hàng đa cấp. Bên cạnh đó là văn hóa làng xã, sống tập thể chia sẻ thông tin, tính ‘cả nể’ là điều kiện thuận lợi cho bán hàng đa cấp thậm chí là đa cấp bất chính phát triển.
1.5.Hệ thống luật pháp, chính trị: Điều kiện chính trị nước ta tương đối ổn định ít bị biến động mạnh nên là điểm tới của nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến đàu tư và bán hàng đa cấp cũng không là ngoại lệ.Mặt khác,vì đây là một hình thức kinh doanh mới lạ nên hệ thống pháp luật điều chỉnh và quản lý lĩnh vực này còn thiếu và yếu. Hiện nay mới có một số văn bản pháp luật hướng dẫn chưa đầy đủ về việc thực hiện khiến bán hàng đa cấp ở nước ta khó quản lý, phát triển tự phát nhiều và gây ra nhiều hậu quả tiêu cực cho nền kinh tế- xã hội.
1.6. Về hội nhập kinh tế thế giới: Nước ta đã gia nhập WTO và hội nhập ngày càng mạnh mẽ, số lượng các công ty kinh doanh đa cấp cũng không ngừng tăng theo khiến cho cạnh tranh nội bộ ngành thêm mạnh mẽ. không chỉ vậy, bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng thấy được lợi ích từ hình thức này nên cũng tham gia vào cạnh tranh và thử sức. Đây cũng là cơ hội cho người tiêu dùng và nhà phân phối có nhiều lựa chọn hơn khi muốn thử với bán hàng đa cấp.
Một yếu tố vừa khách quan và chủ quan là sự không đoàn kết giữa các doanh nghiệp trong ngành với nhau. Thậm chí có hiện tượng nói xấu công ty khác để thu hút khách hàng và nhà phân phối mới. Chính sự cạnh tranh không lành mạnh này khiến bán hàng đa cấp ngày càng bị nghi ngờ và khó khăn tiếp cận khách hàng hơn.
Thứ nhất, là do bán hàng đa cấp là một hoạt động mới xuất hiện ở nước ta và bản thân bán hàng đa cấp có nhiều điểm còn gây tranh cãi,khó hiểu trên nhiều nước trên thế giới. Không hề dễ dàng để nhận biết và đánh giá nó. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản của các hạn chế bên trên
Thứ hai, hệ thống pháp luật của nước ta còn thiếu và hổng ở nhiều lĩnh vực không chỉ ở bán hàng đa cấp. Chính điều này tạo ra sự khó khăn trong thực thi luật như việc hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh,mặt hàng, hình thức và mô hình kinh doanh với các công ty đa cấp. Sự thiếu đầy đủ đồng bộ này còn dẫn tới sự khó khăn trong quản lý thực tiễn với hoạt động các doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp đó. Ngoài ra, nó còn là kẽ hở để kẻ gian có thể tiến hành các hành vi trái pháp luật, thực hiện lừa đảo. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Thứ ba , là bản thân xuất phát điểm của nước ta là thấp. Thấp về mặt kinh nghiệm, vốn và công nghệ sản xuất. đây là nguyên nhân gây ra sự yếu kém trong cạnh tranh của các doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam, vì bản thân hình thức bán hàng đa cấp yêu cầu doanh nghiệp và sản phẩm không như các hình thức kinh doanh khác,nó đòi hỏi có kinh nghiệm cao để có thể quản lý tốt, trình độ và công nghệ sản xuất chế tạo ra các sản phẩm khác biệt, chất lượng yêu cầu cao hơn, cải biến nhiều hơn để tiến hành kinh doanh.
Thứ tư, là sự lúng túng trong yếu kém chung trong hệ thống quản lý nhà nước. Một phần là do hệ thống pháp luật chưa đầy đủ nhưng phâng nhiều hơn là do sự yếu kém trong quản lý. Thậm chí chính bản thân các người quản lý cũng chưa chắc nắm rõ về hình thức kinh doanh này. Sự lúng túng này thấy rõ ngay trong công tác giám định mô hình kinh doanh nào của bán hàng đa cấp là đúng và nên áp dụng. trong khi sắp tới sở công thương TP.Hồ Chí Minh tiến hành cấm mô hình đa cấp nhị phân vì cho rằng nó là không hợp lệ nhưng các sở công thương khác hoặc không đồng ý hoặc không ý kiến.
Thứ năm , là trình độ hiểu biết về hình thức bán hàng đa cấp ở nước ta còn thấp, chưa rõ ràng. Nhiều người tham gia chỉ do lời chào mời đầy hứa hẹn của người khác, hoặc tham gia bán hàng đa cấp rồi mà chưa rõ ràng mình đang làm gì và làm như thế nào? Thói quen suy nghĩ rằng bán hàng đa cấp là dễ dàng và dễ trở nên giàu có nên nhiều người không tìm hiểu kỹ đã tham gia bán hàng đa cấp và đã bị lợi dụng
Thứ sáu , là hệ thống thông tin chính thức về bán hàng đa cấp của chính phủ còn ít, chưa đầy đủ và khó tiếp cận. trong khi trên các phương tiện thông tin khác có vô vàn các thông tin khác nhau về bán hàng đa cấp khiến người dân không có định hướng cụ thể. Hệ thống thông tin này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính có thể thổi phồng sự thật về họ, sản phẩm của họ hay hình thức kinh doanh này mà không có bất kỳ hệ quy chiếu nào đối chứng. Hiện chỉ có các sở công thương, cục quản lý cạnh tranh chịu trách nhiệm chính về vấn đề này.
Nhóm nhân tố chủ quan có thể do: Bản thân doanh nghiệp hoặc do các thành viên tham gia bán hàng đa cấp.
Thuộc về doanh nghiệp kinh doanh đa cấp
Đầu tiên là việc các doanh nghiệp chưa ý thức hết về tính lâu dài và phát triển bền vững của hoạt động bán hàng đa cấp, chạy theo cái lợi trước mắt bỏ qua các điều kiện phát triển bền vững và lợi dụng sự lỏng lẻo của hệ thống luật pháp để kinh doanh bất chính. Những Doanh nghiệp này đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn. Việc này thường xuất hiện và tùy mức độ và do công ty muốn tối đa hóa lợi nhuận mà đi ngược nguyên tắc của bán hàng đa cấp. Ở một góc độ khác, các công ty cũng thường hay thổi phòng tính năng, tác dụng lợi ích sản phẩm của mình hơn sô với thực tế nhằm thu hút người tham gia. Tuy nhiên nó vô hình chung làm giảm lòng tin và gây ra sự thất vọng, cảm giác bị lừa đảo của những người tham gia. Kết hợp vào đó là sử dụng các mô hình bất chính,tháp ảo của một số công ty làm biến tướng hình thức bán hàng đa cấp. Chính việc làm của những công ty này khiến cho mọi người có cái nhìn xấu về bán hàng đa cấp.
2. Chủ quan Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Một nguyên nhân nữa là các doanh nghiệp quá tập trung vào mở rộng thị trường mà bỏ qua nội dung đào tạo. Vì vậy những người mới vào và đã vào vẫn chưa thực sự hiểu rõ kinh doanh đa cấp, chưa được đào tạo về đạo đức nghề nghiệp, các kiến thức và kỹ năng để có thể bán hàng đa cấp hiệu quả. Hầu hết các công ty chỉ đào tạo sơ qua và chú trọng để họ làm sao để mời thêm người vào hệ thống kinh doanh, và giới thiệu cho họ một viễn cảnh bằng vàng dễ chịu cho người tham gia. Kết quả khi đi vào thực tế họ gặp rất nhiều khó khăn và bỏ cuộc.
Thêm vào đó là năng lực quản lý và hệ thống thông tin nội bộ chưa đồng bộ. Và sự không đoàn kết của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Trong quá trình kinh doanh, thậm chí công ty này nói xấu các công ty khác để gây dựng danh tiếng. Nhưng cuối cùng họ phải nhận sự ngờ vực của người khác do chính các công ty trong ngành nói ra làm mất đi sự trong sạch, đúng đắn của hình thức kinh doanh này
- Về nguyên nhân xuất phát từ những người tham gia bán hàng đa cấp
Một hoạt động gây ra sự khác biệt giữa kinh doanh đa cấp nươc ta và các nươc khác là hoạt động đầu cơ trục lợi. người tham gia đầu cơ tích trữ hàng hóa nhằm lên vị trí cao nhanh hơn, nhận nhiều lợi ích hơn. Ví dụ minh chứng là vụ việc công ty Agel Việt Nam. Hoạt động đầu cơ này đã làm biến dạng bán hàng đa cấp, dễ dàng cho kẻ xấu kiềm lợi lớn từ hoạt động đầu cơ này, kích thích người tham gia đầu cơ tích trữ sau đó doanh nghiệp bỏ chạy.
Một nguyên nhân quan trọng thuộc về người tham gia là họ cố tình làm, kể sai sự thật về hình thức bán hàng đa cấp miễn sao có thể lôi kéo người khác tham gia dù biết hoặc không.
Hệ thống chính sách của doanh nghiệp. Các hệ thống chính sách như chi trả hoa hồng, sản phẩm, đào tạo và cơ hội phát triển là những nhân tố quan trọng trong thu hút người tham gia vào bán hàng đa cấp. Tuy nhiên, các hệ thống này của doanh nghiêp Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh, tập trung nhiều vào việc thu hút người tham gia chứ không phải là sản phẩm và lâu dài khiến cho thực tế là số người tham gia vào hoạt động bán hàng đa cấp tăng lên nhưng cũng gia tăng số người từ bỏ hình thức này
Bên cạnh đó là chính sách quản lý nhất là quản lý nhân sự của các doanh nghiệp đa cấp Việt Nam hầu như không đầy đủ, thống nhất khiến việc quản lý khó khăn không thể nắm giữ tốt nhất khách hàng và nhà phân phối
Năng lực quản lý là yếu tố quan trọng cho công ty có thể hoạt động đúng hướng không chệch quỹ đạo sang tháp ‘ảo’ và sự bền vững của một mạng lưới trong bán hàng đa cấp.Tuy nhiên ở các doanh nghiệp nhìn chung là còn kém từ quản lý của các công ty đa cấp tới người dẫn đầu kiêm lãnh đạo mạng lưới của mình. Chỉ có số ít những người rất thành công với hình thức kinh doanh này họ mới thực sự hiểu rõ và có năng lực quản lý tốt. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
Nhận thức của bản thân người tham gia bán hàng đa cấp. Người tham gia cần hiểu rõ bản chất của hình thức kinh doanh và có nhận thức rõ ràng về năng lực và hiểu rằng muốn thành công trong kinh doanh theo mạng không dễ như người khác vẫn nói. Tránh khi tham gia và gặp khó khăn liền bỏ cuộc và đưa ra đánh giá chủ quan. Tuy vậy, ở Việt Nam bản thân người tham gia bán hàng đa cấp còn thiếu nhận thức về hình thức này nhưng với tâm lý chạy theo mời người để kiếm hoa hồng, họ lôi kéo người khác tham gia. Tuy nhiên do thiếu hiểu biết, ảo tưởng nên sau khi tham gia họ thất bại, chán nản, bỏ cuộc và đưa ra các bình luận chủ quan khiến các luồng thông tin về bán hàng đa cấp ngày càng nhiều chiều khó nhận biết đúng sai. Mặt khác, bản thân những người này nếu thiếu nhận thức nhưng vẫn cố tình bỏ qua chạy theo lợi nhuận , lôi kéo người khác tham gia khiến bán hàng đa cấp trở thành hình tháp ảo.
Bản thân sản phẩm được kinh doanh theo phương thức này. Nhìn chung là những sản phẩm mới,độc đáo, tiện ích và có giá trị sử dụng. Sản phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, môi trường…là cơ sở cho doanh nghiệp thu hút khách hàng và cạnh tranh trên thị trường, tạo niềm tin cho khách hàng chấp nhận chia sẻ nó với người khác theo nguyên lý chia sẻ thông tin. Nhưng bên cạnh đó còn có công ty đưa ra các sản phẩm kém nhưng vẫn giới thiệu là tốt đánh lừa người tiêu dùng khiến dư luận rất dễ đưa ra các đánh giá ‘thất thiệt’ về bán hàng đa cấp.
3. Hạn chế và tồn tại
3.1. Chủng loại sản phẩm
Không phải mặt hàng nào cũng có thể kinh doanh theo mô hình marketing đa cấp. Hầu như phải là những mặt hàng thực sự có chất lượng và độc đáo, độc quyền, chỉ doanh nghiệp đó kinh doanh mới có thể áp dụng mô hình này. Vì vậy lượng sản phẩm được đưa vào kinh doanh theo mô hình này còn giới hạn ở một số mặt hàng như: mỹ phẩm, thực phẩm dinh dưỡng, sản phẩm bảo vệ sức khỏe,… mà chưa thể mở rộng ra kinh doanh một số mặt hàng khác.
3.2. Giá cả sản phẩm
Về cơ bản, giá sản phẩm trong marketing đa cấp phải thấp hơn giá bán tại các cửa hàng, siêu thị,… trên thị trường vì MLM tiết kiệm được chi phí trung gian cho các đại lý, chi phí cho việc quảng cáo, mở rộng thương hiệu. Tuy nhiên trên thực tế giá sản phẩm trong MLM phụ thuộc rất lớn vào chế độ trả thưởng của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có mạng lưới sâu, rộng với một chính sách trả thưởng hậu hĩnh thì giá sản phẩm sẽ cao hơn bình thường do phải chi trả hoa hồng của các phân phối viên. Mặt khác, do sản phẩm được doanh nghiệp marketing đa cấp là sản phẩm độc đáo, độc quyền nên khách hàng không có nhiều thông tin để so sánh giá cả sản phẩm. Vì vậy, dư luận về giá sản phẩm cao hơn rất nhiều so với thị trường diễn ra từ khi marketing đa cấp bắt đầu xâm nhập vào thị trường Việt Nam.
3.3. Chính sách của công ty
Hầu hết các công ty marketing đa cấp hiện nay đều theo đuổi những mục tiêu kinh doanh riêng trong khi hành lang pháp lý về hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam chưa hoàn chỉnh. Vì vậy mà một số công ty có thể có những chính sách lách luật nhằm đạt được mục đích của mình. Đã kinh doanh là phải có lợi nhuận, đa số các doanh nghiệp marketing đa cấp tại Việt Nam hiện đang theo đuổi mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các ông chủ doanh nghiệp ra sức đưa ra những chính sách trả thưởng và lợi ích đi kèm cho các phân phối viên thật hậu hĩnh nhằm thu hút, lôi kéo họ tham gia nhưng khi có chuyện gì xảy ra việc các phân phối viên phải chịu thiệt là điều hoàn toàn dễ hiểu. Chưa có một chuẩn mực nào cho các doanh nghiệp marketing đa cấp xây dựng các chính sách như chính sách trả thưởng, chính sách lợi ích đi kèm như du lịch, nhà cửa…đối với các phân phối viên, chính sách đào tạo phân phối viên các kỹ năng cần thiết… Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
3.4. Những mặt hạn chế khác.
Tuy có hệ thống quản lý nhà nước về bán hàng đa cấp nhưng còn thiếu và yếu, hoạt động của các cơ quan nhà nước về quản lý bán hàng đa cấp còn chưa hiệu quả. Điển hình là các vụ công ty bán hàng đa cấp trá hình vẫn còn tồn tại, việc quản lý bán hàng đa cấp còn lỏng lẻo, chờ sự việc xảy ra rồi mới nghĩ biện pháp giải quyết.
Tốc độ phát triển nhanh nhưng ẩn chứa nhiều nguy cơ. Thực tế, giai đoạn vừa qua bán hàng đa cấp ở nước ta phát triển rất nóng,lượng cá nhân tham gia vào lớn nhưng lượng người ngừng tham gia cũng nhiều. Hoạt động chưa thực sự dựa trên sản phẩm mà còn tập trung nhiều vào lôi kéo người tham gia thành lập mạng lưới dễ gây nhầm lẫn với các hình thức lừa đảo khác.
Môi trường cạnh tranh nội bộ ngành không trong sạch. Thể hiện sự mất cân bằng giữa các doanh nghiệp Việt và các doanh nghiệp nước ngoài,số lượng doanh nghiệp nước ngoài chiếm đa số và lượng lớn thị phần. Mặt khác là sự cạnh tranh không lành mạnh, không ít doanh nghiệp để kéo người doanh nghiệp khác đã nói xấu lẫn nhau gây ra sự hoài nghi cho người trong và ngoài bán hàng đa cấp.
Hệ thống thông tin chính thức về bán hàng đa cấp chưa đầy đủ, thống nhất. Hiện nay, có rất nhiều luồng thông tin trái chiều về bán hàng đa cấp trên báo chí, mạng , truyền khẩu,…khiến người dân khó có cái nhìn đúng đắn về bán hàng đa cấp. Thêm vào đó là hệ thống thông tin hướng dẫn của nhà nước về bán hàng đa cấp còn chưa đầy đủ gây lúng túng cho doanh nghiệp trong thực hiện .
Hạn chế về sản phẩm. Chủ yếu là các sản phẩm nhập khẩu của các công ty nước ngoài, các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu và chưa có nhiều và thiếu sức cạnh tranh mạnh. Các sản phẩm phân phối bởi bán hàng đa cấp tuy độc đáo nhưng giá thành thường cao hơn các sản phẩm cùng loại, điều này gây ra sự khó khăn trong tiếp cận của một số người dùng thật sự có nhu cầu. Mặt khác, hàng hóa trong bán hàng đa cấp vẫn còn tồn tại các sản phẩm kém chất lượng, không đủ tiêu chuẩn, không tuân theo quy định kiểm soát của nhà nước.Thêm vào đó là việc thông tin mập mờ không đày đủ về lợi ích, tính năng của sản phẩm là chuyện khá phổ biến.
Hình thức kinh doanh biến tướng, bóp méo, tháp ảo của bán hàng đa cấp còn tồn tại và thường xuyên xuất hiện gây thiệt hại về kinh tế – xã hội, môi trường kinh doanh của nước ta.
Thách thức lớn nhất của bán hàng đa cấp là sự hiểu nhầm trong bộ phận lớn công chúng về hoạt động bán hàng đa cấp tạo ra bởi hàng loạt các công ty bán hàng đa cấp bất chính ngay từ giai đoạn đầu tiên khi bán hàng đa cấp mới xuất hiện và kéo dài tới hiện nay, điều đó đã tạo nên một hình ảnh xấu khó thay đổi về hoạt động này
4. Nguyên nhân của những hạn chế Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
4.1. Từ góc độ quản lý Nhà nước
Kinh doanh đa cấp đã xuất hiện ở Việt Nam hơn 10 năm qua nhưng cách đây 3 năm vẫn chưa có khung pháp lý cho hình thức kinh doanh này. Nhiều công ty đã lợi dụng kẽ hở này để sử dụng maketing đa cấp vào những hình thức bất chính, gây thiệt hại cho người tham gia, người tiêu dùng cũng như cho cả xã hội. Mặt khác, việc tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh đa cấp chưa chặt chẽ, thiếu sự phối hợp kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng, chưa phát hiện và xử lý kịp thời các doanh nghiệp có hành vi marketing đa cấp không trung thực. Do đó, các hành vi vi phạm như quảng cáo gian dối, đẩy giá sản phẩm lên cao, trốn thuế nhập khẩu, thuế thu nhập…ở một số doanh nghiệp kinh doanh đa cấp đã trở nên phổ biến gây dư luận không tốt, ảnh hưởng đến người tham gia, người tiêu dùng và cả những doanh nghiệp đang làm ăn chân chính.
4.2. Từ góc độ doanh nghiệp
Marketing đa cấp có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay một số doanh nghiệp lợi dụng nó để thu lợi bất chính, lợi dụng sự hạn chế về nhận thức để lừa đảo người tham gia, người tiêu dùng, tác động xấu đến xã hội và cả các doanh nghiệp marketing đa cấp khác. Trong thời gian qua, bản thân doanh nghiệp không có ý thức tự giác thực hiện những chính sách nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng cho người tham gia và người tiêu dùng, trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước…. Ngoài ra, hoạt động marketing đa cấp đang diễn ra ở thị trường Việt Nam một cách ồ ạt, các doanh nghiệp chưa có biện pháp hiệu quả để quản lý hệ thống phân phối viên đã dẫn đến hiện tượng có quá nhiều người tham gia vào mạng lưới, có sự chồng chéo gây hỗn loạn, khó kiểm soát.
Mặt khác, trình độ phân phối viên trong mạng lưới của doanh nghiệp kinh doanh đa cấp còn nhiều hạn chế do các doanh nghiệp chỉ quy định trình độ tuổi được phép tham gia kinh doanh là 18 tuổi trở lên chứ không có quy định rõ ràng về trình độ của người muốn tham gia. Phân phối viên có trình độ thấp sẽ hạn chế khả năng nhận thức về mô hình kinh doanh, về sản phẩm dẫn đến việc tuyên truyền sai sự thật gây thiệt hại cho cả doanh nghiệp và người tiêu dùng, gây tâm lý e ngại của mọi người trong xã hội đối với maketing đa cấp. Hơn nữa, phần lớn người tham gia maketing đa cấp ở Việt Nam coi đây chỉ là việc làm thêm, không có tính chất ổn định nên nhiều khi chỉ hoạt động như một người bán lẻ thông thường mà không tâm huyết với công việc đó. Do vậy, ngành marketing đa cấp ở Việt Nam chưa được phát triển đúng hướng, chưa phát huy được tác dụng tích cực của nó với xã hội.
4.3. Từ góc độ người tiêu dùng
Đối với thị trường Việt Nam, phương thức marketing đa cấp còn quá mới mẻ. Khái niệm marketing đa cấp còn chưa được hiểu rõ ràng ở rất nhiều đối tượng khác nhau trong xã hội. Chính sự hạn chế về nhận thức đó đã tạo điều kiện cho một số công ty kinh doanh đa cấp lợi dụng phương thức kinh doanh này để trục lợi, gây tổn hại cho xã hội, bị dư luận lên án làm mất lòng tin của xã hội vào marketing đa cấp. Một số doanh nghiệp muốn hoạt động marketing đa cấp một cách chân chính nhưng do phải áp dụng dập khuôn mô hình của nước ngoài mà không căn cứ vào điều kiện cụ thể về tâm lý, mức sống của người Việt Nam dẫn đến hoạt động kinh doanh của công ty đó chứa nhiều rủi ro cho người tham gia và kết quả là cũng bị báo chí lên án.
Tuy những phản ánh trên các phương tiên thông tin đại chúng có nhiều phản ánh xác thực nhưng cũng có không ít phản ánh thiếu tính khách quan nên đã gây thiệt hại cho các doanh nghiệp tiến hành hoạt động marketing đa cấp chân chính. Ngoài ra, ngay cả những tổ chức, các nhân có ảnh hưởng lớn đối với xã hội như các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà kinh tế, chính trị, … thậm chí cả những người tham gia cũng chưa hiẻu đúng về hoạt động marketing đa cấp, về sự khác nhau giữa marketing đa cấp chân chính và bất chính. Vậy mà, họ đã đưa ra nhiều bình luận, thông tin sai lệch về phương thức kinh doanh này khiến phần lớn công chúng không hiểu hoặc hiểu sai về Maketing đa cấp, gây ra tâm lý hoang mang, lo sợ cho người tham gia đồng thời hạn chế sự tồn tại của phương thức maketing này.
Vậy là ở chương này chúng ta đã có cái nhìn tổng quan nhất về thực trạng hoạt động marketing đa cấp tại Việt Nam, xác định những thành quả đã đạt được và một số hạn chế cần khắc phục. Vậy xu hướng phát triển của loại hình này ở Việt Nam ra sao và giải pháp đưa ra nhằm cải thiện những hạn chế đã nêu ra như thế nào, chúng ta sẽ được biết ở chương tiếp theo của khóa luận này. Khóa luận: Thực trạng hoạt động marketing đa cấp trên thế giới.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp kiểm soát hoạt động Marketing đa cấp VN