Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới, là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của nhân loại để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (10/1945), quyền con người đã được quy định trong rất nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu được các quốc gia tôn trọng và thực hiện.
Trong đó quyền sống là quyền con người cơ bản đã được công nhận trong các văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế (Điều 3 Tuyên ngôn Toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948, điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)). Hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam đã quy định cụ thể về quyền sống.Cụ thể, Điều 19 của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được luật pháp bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.Quyền sống là quyền tự nhiên cơ bản của con người được công nhận và bảo vệ, vậy được chết có được xem là quyền hay không? Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Trên thế giới hiện nay, an tử, quyền an tử là những vấn đề còn để mở, bao hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, an tử, quyền an tử là những vấn đề mới mẻ còn có sự nhầm lẫn trong quan niệm cũng như trong nhận thức của nhiều người. Vấn đề này cũng chưa được quy định trong các Hiến pháp cũng như pháp luật của Việt Nam (đặc biệt là Bộ luật dân sự), do đó cần được quan tâm và tranh luận. Trong dự thảo xây dựng Bộ Luật dân sự đã có ý kiến đề xuất về “quyền an tử”, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau gây ra những tranh cãi. Có những người vận động rất mạnh mẽ mong muốn pháp luật thừa nhận quyền an tử, cho rằng những hành xử ấy là hợp luân lý. Số khác cho rằng làm như thế chẳng những là bất hợp pháp mà còn trái luân lý và chắc chắn gây tác hại sâu sắc cho y học. Quyền an tử vẫn chưa được công nhận và thông qua tại Việt Nam do tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: y học, chính trị, xã hội,… Trên thực tế, trong bối cảnh Việt Nam là một nước có tỉ lệ người chết vì bệnh ung thư thuộc top đầu thế giới, những mong muốn nhu cầu về quyền an tử là có thật và số lượng ngày càng tăng; xét từ góc độ của những bệnh nhân mắc bệnh nan y, việc đáp ứng nhu cầu đó cũng đảm bảo quyền sống theo đúng nghĩa của con người. Ở góc độ khoa học pháp lý việc nghiên cứu về quyền antử mang tính cấp thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động xây dựng nhà nước pháp quyền với một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân thân đầy đủ, hoàn thiện.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa trên, em quyết định lựa chọn đề tài “Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp để nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất của quyền an tử, đồng thời đề cập đến một số vấn đề giữa pháp luật và thực tiễn để quyền an tử dần được hiểu và tôn trọng như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến mong có thể góp phần hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về vấn đề này.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Tình hình nghiên cứu
Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa học pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất ít tài liệu viết về vấn đề này. Bài viết Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác giả Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012 là tài liệu trực tiếp đề cập đến vấn đề này. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được chết có Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Mai Chi – “Quyền an tử những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2014. Luận văn phân tích khá kỹ cả về lý luận lẫn thực tiễn về quyền an tử, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật về vấn đề này. Gần đây nhất có bài viết “Quyền an tử theo Luật Nhân quyền Quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và gợi mở cho Việt Nam”của PGS.TS.Vũ Công Giao và ThS. Nguyễn Minh Tâm trong cuốn Thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp 2013 cũng là công trình nghiên cứu khá sâu sắc về quyền an tử. Tuy nhiên, công trình không tập trung vào việc phân tích giải pháp cho vấn đề này.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới và Việt Nam làm rõ bản chất của quyền an tử từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào pháp luật quy định và thực tiễn các vấn đề liên quan đến quyền an tử của một số quốc gia và Việt Nam cũng như những quan điểm, lập luận về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử. Tuy nhiên quyền an tử là một vấn đề lớn và phức tạp trên nhiều lĩnh vực, trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, đề tài tập trung phân tích những vấn đề cơ bản nhất
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu bài khóa luận
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và 03 chương như sau:
- Chương 1: Khái quát về vấn đề an tử
- Chương 2: Pháp luật về quyền an tử trên thế giới
- Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở Việt Nam
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ AN TỬ
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quyền an tử
Từ lâu, bất cứ ai làm nghề y cũng phải đọc “lời thề Hippocrates”. Trong đó có điều: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu và cũng không tự mình gợi ý cho họ”.Ở La Mã và Hy Lạp cổ đại (thế kỷ V đến thế kỷ I TCN), những người La Mã và Hy Lạp đã có xu hướng khoan dung, ủng hộ an tử và không tuân theo “lời thề Hippocrates” một cách trung thành.Nhiều người không có niềm tin xác định về giá trị vốn có của đời sống con người và các bác sĩ ngoại giáo. Các bác sĩ có thể thực hiện việc giết người vì mục đích nhân đạo (mercy killing), cả tự nguyện và không chủ ý.Trong suốt thời cổ đại, có sự ủng hộ rộng rãi cho cái chết tự nguyện thay vì đau đớn kéo dài, và các bác sĩ đã tuân thủ bằng cách thường xuyên đưa cho bệnh nhân của họ những chất độc mà họ yêu cầu. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Thuật ngữ an tử (euthanasia) được Suetonius một nhà sử học La Mã sử dụng lần đầu tiên trong cuốn De Vita Casesarum – Divus Augustus(Cuộc đời các Ceasar – Con thần Augustus), tác giả đã mô tả cái chết của Augustus Caesar rằng trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành phố về con gái của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn Livia, thốt ra những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn nhân của chúng ta, Livia, và vĩnh biệt”rồi may mắn có một cái chết dễ dàng và đó là điều mà ngài luôn mong mỏi. Mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và không đau đớn, ngài luôn cầu nguyện rằng ngài và thân thể ngài cũng có thể có một cái chết êm ả như thế, đó là khái niệm ngài quen dùng.[25]
Tuy nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến gần cuối thế kỷ XIX, an tử bị phản đối bởi quan điểm của các tôn giáo lớn (Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái, Đạo Phật) và bị pháp luật ở nhiều quốc gia cấm (đặc biệt là các quốc gia theo thông luật). Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa đã củng cố “lời thề Hippocrates” quan điểm phản đối cái chết êm ả. Vào thế kỉ XVII, hệ thống pháp luật Common Law có những quy định trừng phạt hoặckhông chấp nhận, cấm tự tử và an tử lan ra khắp cả các thuộc địa. Ví dụ các nhà lập pháp của Providence Plantations vùng lãnh thổ sau này trở thành RhodeIsland, đã tuyên bố vào năm 1647 rằng tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên nhất và hội đồng lập pháp này tuyên rằng người nào thực hiện hành vi này, tự tử chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh phúc của người khác… thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua định đoạt.[26]
Không có cuộc bàn luận nào về an tử thậm chí còn là điều cấm kị ở các nước châu Âu cho đến thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà thờ để truyền bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả về an tử và tự tử, nhưng vấn đề này không gây được quan tâm nhiều và rộng khắp. Một cuộc phản công mang tính chất tôn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII, bắt đầu với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm 1700 đến cuộc Đại thức lần thứ hai vào những năm đầu của thế kỷ XIX, những nhà truyền giáo đã tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Năm 1794, một đạo luật đã được thông qua nhằm giảm hình phạt của một người đã giết bệnh nhân mắc một căn bệnh nan y. Sau đó, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Giữa năm 1857 và 1865, một Ủy ban ở New York do Dudley Field lãnh đạo đã soạn thảo một dự luật hình sự cấm trợ giúp tự tử và đặc biệt là cung cấp cho người khác bất kỳ vũ khí chết người hoặc ma túy độc hại nào, biết rằng người đó có ý định sử dụng vũ khí hoặc ma túy như vậy để lấy mạng sống của chính mình. Vào thời điểm Hiến pháp sửa đổi lần thứ mười bốn đã được thông qua, an tử và trợ tử đều là tội hình sự ở hầu hết các bang.Bộ luật hình sự đã được thông qua tại Lãnh thổ Dakota vào năm 1877, tại New York năm 1881.
Bước sang thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã có một bước tiến lớn trong việc chiết suất được morphin và được sử dụng làm thuốc giảm đau trên diện rộng. Samuel Williams, một giáo viên, đã có bài phát biểu đầu tiên ủng hộ cho an tử tích cực, trong đó đề cập đến việc thuốc không chỉ được dùng để làm giảm cơn đau mà còn giải thoát bệnh nhân một cách có chủ định. Trong suốt thế kỉ XIX, bài phát biểu đã nhận được sự chú ý nghiêm túc trên nhiều tạp chí y khoa.Nhưng hầu hết các bác sĩ vẫn giữ quan điểm thuốc giảm đau có thể dùng để giảm bớt sự đau đớn, không phải thúc đẩy cái chết.
Thế kỷ XX với sự phát triển của ngành y khoa, an tử đã có được những bước tiến lớn. Về mặt pháp lý, năm 1976, California trở thành bang đầu tiên của Mỹ thông qua luật cho phép người bị bệnh nan y quyền quyết định hủy bỏ các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được tin rằng sắp xảy ra. Tính đến năm 1977, đã có 8 bang của Mỹ gồm California, New Mexico, Arkansas, Nevada, Idaho, Oregon, North Carolina, và Texas đã thông qua các điều luật về quyền an tử.
Một vụ việc điển hình liên quan đến trợ tử đã từng diễn ra ở nước Mỹ.
Đó là trường hợp của Karen Ann Quinlan vào năm 1975. Người phụ nữ này bị rơi vào tình trạng hôn mê sau khi bị tai nạn ô tô và được kết luận sẽ không bao giờ phục hồi được ý thức. Các bác sĩ tin rằng cô sẽ chết nếu bị ngưng dùng máy thở oxy. Cha mẹ của cô trong hoàn cảnh tuyệt vọng vì không muốn con gái của mình kéo dài sự sống thực vật đầy đau khổ và thực sự khả năng kinh tế của gia đình cũng có hạn nên đã đề nghị Tòa án cho phép rút ống thở. Tuy nhiên Tòa án đã từ chối đề nghị này. Một cuộc chiến pháp lý đã diễn ra ròng rã suốt một năm trời sau đó và Quinlan đã được dừng máy thở vào năm 1976. Nhưng có một điều là cô vẫn sống thêm được đến 10 năm nữa, cho dù không thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự phục hồi ý thức cũng như cuộc sống và mất vào năm 1986 vì bệnh viêm phổi [13]. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Từ sau vụ việc này đã mở rộng đường cho trợ tử thụ động, các Tòa án của Mỹ đã thực thi nhiều phán quyết liên quan đến việc từ chối điều trị trong những trường hợp nhất định. Một số cơ quan lập pháp của một số bang ở Mỹ đã thừa nhận hoạt động trợ tử để giúp một người bệnh không phải kéo dài thời gian đau khổ hay sống đời sống thực vật.
Có thể thấy, vấn đề trợ tử và an tử có thể trở thành mối quan tâm hàng đầu về các phương diện xã hội, chính trị và luân lý ở Hoa Kỳ, Ý, Úc và có lẽ những nơi khác nữa trong tương lai gần. Vấn đề bỗng nhiên được đưa vào tiêu điểm chính trị, nhất là ở Hoa Kỳ: trước hết là do những việc làm của Jack Kevorkian, một thời là nhà nghiên cứu bệnh lý học ở Michigan; trong những năm qua ông đã dùng “máy tự tử” (suicide machine) do ông tự thiết kế để trợ giúp ít nhất năm mươi người tự tử, mà những người này không phải là bệnh nhân hấp hối; sau đó là do những nỗ lực ở rất nhiều tiểu bang, bằng một bước ngoặt pháp lý ngoạn mục, đã làm thay đổi hoặc hủy bỏ những khoản trong luật lệ đã được luật pháp quy định lâu đời hay luật chung có nội dung nghiêm cấm hành vi tự tử có trợ giúp; hai Tòa phúc thẩm Liên bang vào năm 1996 đã phán quyết rằng: người bị bệnh vô phương cứu chữa và một số người khác, có quyền được trợ giúp để kết liễu mạng sống, và quyền này được hiến pháp bảo vệ. Tuy cả hai phán quyết ấy đều bị Tòa Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ bác bỏ vào tháng 6-1997, nhưng ý kiến của các quan tòa này sẽ được đưa ra trước ngành lập pháp và công luận để tham khảo trong suốt nhiều năm sắp đến.
Vụ Compassion in Dying kiện Tiểu bang Washington của Tòa Lưu Động Số 9 và vụ Quill kiện Vacco của Tòa Lưu Động Số 2 đều xảy ra vào đầu mùa xuân năm 1996. Hai tòa phúc thẩm liên bang này đưa ra những quyết định với những nội dung quan trọng, không những đối với việc xử trí y khoa cho người hấp hối mà còn cho người quá đau đớn hay bị bệnh gây suy nhược.Cả hai tòa án đều cho là bất hợp hiến những nghiêm cấm của tiểu bang đối với việc trợ giúp bệnh nhân tự tử. Ngoài ra, tòa còn phán rằng các công dân có những quyền lợi được hiến pháp bảo vệ gọi là “quyền tự do về sở thích” trong việc chọn thời điểm và cách thức từ giã cõi đời [10]. (Compassion in Dying là một tổ chức của các bác sĩ ủng hộ trợ tử. Năm 1996 họ đâm đơn kiện lên Tòa Án Liên Bang, cho rằng tiểu bang Washington nghiêm cấm bác sĩ trợ giúp bệnh nhân tự tử là vi hiến (trái hiến pháp) và vi phạm quyền của bệnh nhân vô phương cứu chữa. Trong vụ án kia, Timothy E. Quill và một số bác sĩ hành nghề ở NewYork đứng nguyên đơn vào năm 1997 kiện Dennis C. Vacco, Chưởng lý NewYork. Các bác sĩ cho rằng “rất phù hợp với nghề nghiệp bác sĩ” khi chỉ định thuốc kết liễu mạng sống cho “những bệnh nhân vô phương cứu chữa, không còn khả năng trí não” và đang phải đau đớn cùng cực, thế nhưng các bác sĩ bị cản trở việc này do luật của tiểu bang NewYork cấm trợ giúp tự tử).
Hai Tòa án Liên bang đã đi một bước ngoặt pháp lý ngoạn mục. Trước hết là Tòa Phúc Thẩm Lưu Động Số 9 (ngày 06-03-1996) mở tại San Francisco. Tám trong mười một vị quan tòa, đồng tâm nhất trí, phán quyết rằng: mỗi cá nhân có “quyền tự do về những sở thích” được hiến pháp bảo vệ dựa trên bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, trong việc chọn thời điểm và cách thức từ giã cõi đời. Một tháng sau, vào ngày 02-04-1996, Tòa Phúc Thẩm Lưu Động Số 2, mở tại New York, cũng đi đến cùng một kết luận tương tự, nhưng những lý do đưa ra có hơi khác. Dựa trên Mệnh Đề Được Bảo Vệ Như Nhau của bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, tòa biện luận rằng không có sự khác biệt giữa việc đình chỉ các hệ thống duy trì sự sống và việc cung cấp thuốc để gây ra cái chết. Đây là quyết định chung của ba quan tòa. Tham chiếu một cách đặc biệt đến sự kiện bệnh nhân lệ thuộc máy móc có quyền quyết định giờ chết của mình, hai trong số ba quan tòa phát biểu rằng: bệnh nhân vô phương cứu chữa “phải được tự do thực hiện việc ấy bằng cách yêu cầu bác sĩ kết liễu mạng sống của mình trong những giai đoạn cuối của căn bệnh vô phương cứu chữa.” Tuy nhiên sau đó, cả hai phán quyết này đều bị Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ thay đổi và vô hiệu hóa, vào ngày 28-06-1997. Dù các tòa án quyết định thế nào đi nữa, các luận cứ do Tòa Phúc Thẩm Lưu Động Số Hai và Số Chín nêu ra, có lẽ sẽ ảnh hưởng đến các cuộc thảo luận về an tử và trợ tử trong những năm sắp đến.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa an tử; tiếp sau đó là Bỉ (năm 2002), Luxembourg (năm 2008); và ba bang của Mỹ gồm Washington (năm 2008), Montana (năm 2008), Vermont (năm 2013).
Hà Lan là đất nước đầu tiên hợp pháp hóa “cái chết nhân đạo” từ tháng 4/2002. Người muốn chết phải đang đối mặt với nỗi đau đớn dày vò và các bác sĩ đều thất bại trong việc chữa trị. Họ phải hoàn toàn tỉnh táo khi ra quyết định. Độ tuổi được chọn cái chết êm ái là trên 12. Chính phủ Hà Lan cho phép thành lập các đội cứu trợ cung cấp “cái chết nhân đạo”. Sáu đội chuyên biệt sẽ di động đến nơi bệnh nhân yêu cầu được trợ tử nếu các bác sĩ khác từ chối tiến hành việc này. Mỗi năm có khoảng 3.100 trường hợp được trợ tử ở nước này [17]. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Tháng 2/2008, nối gót Hà Lan và Bỉ, Luxembourg trở thành nước thứ ba trong Liên minh châu Âu cho phép “cái chết êm ái”. Điều luật này chỉ được áp dụng đối với bệnh nan y không có biện pháp chữa trị.Tháng 3/2014, Bỉ đã hợp pháp hóa an tử đối với trẻ em bị bệnh nan y và không thể cứu chữa
Tháng 2/2015, Tòa án Tối cao Canada đã bãi bỏ lệnh cấm tự sát có trợ giúp của bác sĩ. Tháng 4/2015, Tòa án Nam Phi đã cho phép tự sát có trợ giúp đối với những người bị bệnh nan y.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. An tử
Thuật ngữ an tử hay euthanasia (trong tiếng Anh) bắt nguồn từ thuật ngữ “euthanatos” trong tiếng Hy Lạp, có thể hiểu sát nghĩa là “cái chết êm ả” hay “cái chết êm dịu”. Trong đó “eu” có nghĩa là “tốt” và “thanatos”là “chết”). Nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp là chấm dứt cuộc sống của ai đó một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống trong những điều kiện không mong muốn. Đến nay chưa có một định nghĩa cụ thể thống nhất nào về khái niệm về an tử. Có thể hiểu, an tử là chấm dứt cuộc sống của một người theo một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống trong những điều kiện không mong muốn. Xuất hiện đầu tiên trong lời thề Hippocrates và sau đó bắt đầu xuất hiện rộng rãi hơn vào thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sĩ quan tâm đến sự đau đớn của người bệnh và giúp đỡ người sắp chết thoát khỏi thế giới này một cách nhẹ nhàng và dễ dàng hơn.
Theo Từ điển Merriam-Webster Online, an tử là “hành động hoặc thực hành giết chết hoặc cho phép cái chết của những cá nhân (như con người hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không còn hy vọng [cứu chữa] theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo”. Một tài liệu khác định nghĩa: “an tử là sự giết chết có chủ ý một người lệ thuộc (a dependent human being) bởi hành động hoặc không hành động vì lợi ích được viện ra của người đó” [5].
The British House of Lords Select Committee on Medical Ethics (Ủy ban đặc biệt của Thượng Nghị viện Anh về Đạo đức y học) định nghĩa về an tử là “một sự can thiệp cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc một cuộc sống, để xoa dịu sự đau đớn khó chữa”[18] Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Như vậy, có thể hiểu “an tử” là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một người mà thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa theo cách ít hoặc không đau đớn vì những lợi ích của người đó. Theo những phân tích trên, với những mục đích tốt đẹp của an tử thì nên gọi là “cái chết nhân đạo” thay vì gọi “cái chết êm ả”.
An tử bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, Tính chủ ý chấm dứt cuộc sống
Đây là nội dung quan trọng nhất của quyền an tử. Việc chấm dứt cuộc sống phải là ý chí chủ quan của bệnh nhân, mong muốn của bản thân họ, không bị ép buộc bởi bất cứ chủ thể nào khác. Nếu thiếu đi tính chủ ý thì sẽ không còn là an tử.
Thứ hai, Đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa
Bệnh nhân phải ở trong tình trạng bệnh lý không còn khả năng cứu chữa, chỉ khi có kết luận của hội đồng bác sỹ về tình trạng bệnh lý. Đây là yêu cầu quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử.
Vậy như thế nào là những người không còn khả năng cứu chữa?Ở các quốc gia đã công nhận hay chưa công nhận quyền an tử có cách phân loại khác nhau về phạm vi các loại bệnh nhân. Theo tác giả Trương Hồng Quang trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về quyền được chết trong bối cảnh hiện nay”, thì giới y học hầu hết thống nhất có hai dạng bệnh nhân:
Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị tổn thương nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được”. Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống chấm dứt.
Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình (bản thân họ không còn biết khổ hay sướng). Đôi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên.
Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa.
Thứ ba, cách thực hiện ít hoặc không gây đau đớn
An tử tức là cái chết nhẹ nhàng, êm ái, là cái chết nhân đạo. Vì thế cách thức thực hiện an tử cũng phải hạn chế đến mức thấp nhất đau đớn cho bệnh nhân, giúp họ được ra đi một cách thanh thản, chấm dứt cuộc sống đau đớn đã kéo dài. Một số biện pháp có thể thực hiện như: tiêm thuốc, rút ống dẫn…
Thứ tư, vì lợi ích của người được an tử Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Với ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, an tử trên hết phải với mục đích đem lại sự thanh thản cho người bệnh, giúp họ không phải chịu đựng những ngày tháng đau đơn với bệnh tật, chứ không phải vì bất kỳ lợi ích kinh tế hay nguyên nhân từ chủ thể nào khác (gia đình, xã hội).
Như vậy, có bốn yếu tố để xác định “an tử” đó là: (i) tính chủ ý chấm dứt cuộc sống; (ii) đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa; (iii) cách thức thực hiện ít hoặc không gây đau đớn; và (iv) vì lợi ích của người được an tử. Trong các yếu tố này, “tính chủ ý” được xem là quan trọng nhất mà thiếu nó sẽ không được coi là an tử; lợi ích của người được an tử thường là để chấm dứt những nỗi đau không thể chịu đựng được (mục đích nhân đạo) và để giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và người thân.
An tử có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó hai tiêu chí có thể thể hiện rõ nhất tính chất của vấn đề đó là dựa trên sự tự nguyện và cách thức thực hiện.
Dựa trên tính chất ý chí của người được an tử, an tử có thể chia thành an tửtự nguyện (Voluntary Euthanasia), an tử không tự nguyện (Non – VoluntaryEuthanasia), và an tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia).
An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân trong tình trạng tỉnh táo (nghĩa là có ý thức, đủ tuổi và cảm xúc ổn định), có sự đồng tình rõ ràng trong quyết định kết thúc cuộc sống với sự hỗ trợ, trợ giúp của bác sĩ. Ví dụ: Thực hiện theo yêu cầu của bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối ngừng điều trị bằng việc ngừng tiêm thuốc hóa trị do tình trạng tâm lý và sức khỏe hiện nay hay ở tương lai tiên liệu được.
An tử không tự nguyện (Non – Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân không có khả năng bày tỏ sự ưng thuận và tự đưa ra quyết định (Trẻ sơ sinh thiểu năng trầm trọng, bệnh nhân trong tình trạng thực vật vĩnh viễn, người tâm thần), quyết định chấm dứt cuộc sống của họ do người khác đưa ra (người thân)
An tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia): Bệnh nhân không hề bày tỏ mong muốn, cũng không hề đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho thấy mạng sống của người ấy cần phải được chấm dứt, nhưng việc này vẫn được thực hiện trái ý chí của người bệnh. Khác với an tử không tự nguyện, ở an tử trái nguyện vọng bệnh nhân tỉnh táo, có thể tự đưa ra quyết định, minh nhiên từ chối, không đồng ý việc bị làm chết.
Dựa trên tiêu chí cách thức thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ động (Active Euthanasia/Euthanasia by Action), an tử thụ động (Passive Euthanasia/Euthanasia by Omission) Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
An tử chủ động (Active Euthanasia): Trường hợp có sự tác động của người khác để giúp bệnh nhân chấm dứt cuộc sống một cách nhanh chóng. Ví dụ: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân bằng cách tiêm thuốc… Đây được coi là cách thức hiệu quả nhất dù tình trạng bệnh nhân có như thế nào. Hình thức này được hợp pháp hóa ở Netherlands và Australia.
An tử thụ động (Passive Euthanasia): Ngừng các biện pháp điều trị đang áp dụng cho bệnh nhân để bệnh nhân chết đi. Ví dụ: Bác sĩ ngưng mọi biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân như rút ống dẫn, tắt máy trợ thở, ngừng việc tiêm các chất hóa trị… Tuy nhiên, vẫn duy trì các biện pháp/thuốc giảm đau. Như vậy, an tử thụ động phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, đặc biệt là tình trạng bệnh nhân.
Bên cạnh thuật ngữ an tử, ở nhiều quốc gia còn sử dụng thuật ngữ trợ tử (physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ).Nếu như an tử là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến cái chết nhẹ nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động trực tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự tử. Như vậy có thể thấy, điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử và trợ tử là chủ thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực hiện toàn bộ hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Có sự khác biệt như vậy nhưng nếu xét cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác sĩ chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ tử cũng hợp pháp và dùng chung với nhau.
Theo một báo cáo năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8% trong khi trợ tử là 0,1% trên tổng số người chết. Ở những vùng lãnh thổ mới chỉ hợp pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm quyền và dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm nghề nghiệp cho người thực hiện [6].
1.2.2. Quyền an tử
Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo quy định chặt chẽ của pháp luật [6]
Tuy nhiên, một quyền được công nhận là quyền nhân thân chỉ khi quyền đó được pháp luật ghi nhận một cách chính thức.Quyền an tử(hay quyền được chết – right to die) trên thực tế chỉ được công nhận là quyền nhân thân ở một số quốc gia hợp pháp hóa an tử. Theo quan điểm của các nhà lập pháp và các nhà khoa học, công nhận quyền được chết là quyền nhân thân nhưng chưa quy định trong Luật. Thực tế cho thấy có quy định hay không chỉ là vấn đề về mặt thời gian: có phù hợp với hiện tại hay không và hệ thống pháp luật có đồng bộ, thống nhất hay không. Khi chưa được công nhận về mặt pháp luật, một người nếu thực hiện hành vi trợ giúp tự tử, giúp người bệnh ra đi có thể quy vào một số tội như: tội giết người, tội giúp người khác tự sát…
Hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể về quyền an tử. Tuy nhiên, theo phân tích các quan điểm đồng tình và đạo luật một số quốc gia đã hợp pháp hóa an tử cũng như quan điểm cá nhân, có thể hiểu: Quyền an tử là một quyền nhân thân của những người đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh nan y không thể cứu chữa, và việc thực hiện quyền này phải tuân theo quy định của pháp luật.
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
1.3.1. Đặc điểm
- Quyền an tử là một quyền nhân thân
Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển giao cho chủ thể khác. Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền an tử họ không thể chuyển giao quyền này cho người khác và cũng không ai có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này. Một cá nhân không thể áp đặt quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngoài chính bản thân mình, đơn giản bởi sự sống của chủ thể đó không thuộc phạm vi có thể quyết định rằng chấm dứt hay không của họ. Hơn nữa, quyền an tử cũng mang tính chất phi tài sản.
Quyền an tử không thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp… đây là hệ quả của tính chất không thể chuyển giao của quyền nhân thân, chủ thể khác không thể đặt mình vào vị thế của có quyền để hưởng thụ quyền này.
- Quyền an tử là đặc quyền
Điều này không có nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá biệt trong xã hội, mà đặc biệt có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể hưởng thụ quyền ở trong tình trạng đặc biệt, rơi vào trạng thái bệnh lý không còn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như quyền an tử và thực hiện quyền an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân mắc bệnh nan y, không có hy vọng chữa trị và trong luật pháp một số quốc gia còn quy định thêm rằng thời hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi xúi giục, trợ giúp người khác tự tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể không mắc bệnh ,vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội và bị luật pháp nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.
- Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền
Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử khi người bệnh tự thực hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt cuộc sống không có sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát. Ngoài ra, chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Họ phải là những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của bệnh nhân cũng như có đủ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để thực hiện an tử trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện.
- Mục đích của quyền an tử là giúp bệnh nhân được kết thúc cuộc sống một cách nhanh chóng và an toàn theo mong muốn.
Đây chính là mục đích nhân đạo của an tử mà tất cả các quốc gia hướng tới. An tử giúp cho những bệnh nhân trong tình trạng không thể cứu chữa được ra đi thanh thản, không phải chịu đau đớn, sống những ngày dài chiến đấu với bệnh tật. An tử là cách giải thoát hợp lý nhất trong trường hợp này. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
- Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ của pháp luật.
Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật các quốc gia quy định. Hiện nay, ở nhiều quốc gia, thủ tục để tiến hành việc an tử cũng như để thụ hưởng quyền an tử hết sức chặt chẽ nhằm mục đích tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ sai phạm là không thể cứu chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng theo các quy định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc kỷ luật nghề nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân.
- Quyền này có thể được yêu cầu bởi chính người đó hoặc người đại diện
Như đã phân tích, quyền an tử phải xuất phát từ sự tự nguyện của người yêu cầu: tự nguyện được thực hiện an tử khi còn tỉnh táo, tự nguyện chỉ định người đại diện cho mình trong trường hợp rơi vào tình trạng không biểu lộ được ý chí (người này sẽ có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc chữa bệnh của bệnh nhân).
- Chủ thể của quyền này là người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh tật hoặc tai nạn
Không phải ai cũng là đối tượng của quyền an tử. An tử chỉ được áp dụng với một số đối tượng đặc thù: bệnh nhân đang trong tình trạng đau đớn cả về thể chất lẫn tinh thần, không thể cứu chữa được, do tai nạn hoặc mắc bệnh nan y, vô phương cứu chữa.
1.3.2. Ý nghĩa Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Quyền an tử được công nhận là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng giá trị tự do và quyền tự quyết của con người. Pháp luật các quốc gia, khu vực và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với mỗi chủ thể nhất định.
Quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt động an tử. Vì bị cấm đoán hoặc không được cho phép nên những người có nguyện vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định thực hiện an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với những hành vi mà họ cố tình che giấu không để cho người khác biết. Công nhận quyền an tử sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội đối với những đối tượng này từ đó họ sẽ không muốn che giấu và công khai hóa hành vi của mình. Sự công khai này là điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể quản lý một cách hiệu quả.
Việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng pháp lý bế tắc cũng như nhu cầu được an tử trong thực tiễn. Hợp pháp hóa an tử giúp cho việc quản lý hoạt động này được công khai, minh bạch, dễ dàng mà còn hạn chế được trường hợp sử dụng an tử vào mục đích khác thay vì nhân đạo.
1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội
Sự không công nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều tranh cãi cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những người hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kỳ trước đây, những bức xúc đó còn chưa đáng kể vì nhiều nguyên nhân: số lượng người có nhu cầu hưởng thụ quyền còn thấp, tư tưởng tôn giáo mang đậm thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống. Trải qua thời gian, số lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa, sự giao lưu văn hóa, tư tưởng mang đến sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của xã hội, nhiều vấn đề trước đây bị cho là trái với thuần phong đã được nhìn nhận thoáng hơn. Vấn đề an tử cũng vậy, với sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn, những người mong muốn hưởng thụ quyền an tử chắc chắn sẽ đấu tranh đòi quyền lợi cho mình. Như vậy, các quốc gia cần phải giải quyết vấn đề này kịp thời để đảm bảo cho sự ổn định, và giải pháp để giải quyết vấn đề này là công nhận quyền an tử.
Việc công nhận quyền an tử có thể giảm những tác động tiêu cực có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đối với xã hội. Công nhận quyền an tử có ý nghĩa xã hội rất lớn với những mục đích xã hội tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được được đảm bảo (mắc bệnh nan y, đang phải chịu đựng đau đớn kéo dài…) thì an tử là giải pháp hợp lý nhất. Điều này không chỉ tốt cho bệnh nhân mà còn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh ra đi thanh thản, chấm dứt những ngày tháng đau đớn, mệt mỏi chiến đấu với bệnh tật. Gia đình bệnh nhân cũng không phải tốn kém về chi phí cũng như công sức không đáng có.
Xã hội cũng tránh được những tranh luận gay gắt về vấn đề này.
1.4. Một số quan điểm về hợp pháp hóa quyền an tử Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Những quan điểm về Quyền an tử luôn gây ra sự tranh cãi gay gắt vì vấn đề này không chỉ liên quan đến y học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác như: Luật pháp, tôn giáo, phong tục, tập quán, đạo đức xã hội…
1.4.1. Những lập luận phản đối quyền an tử
Người được cho là chống đối trợ tử đầu tiên trong lịch sử y học là Hippocrates, ông tổ ngành y phương Tây.Trong lời thề Hippocrates, ông kêu gọi thầy thuốc “không bao giờ cho ai một liều thuốc độc dù người đó yêu cầu và không bao giờ gợi ý về điều đó”.Trong Luật Y đức (Code de Déontologie) của Pháp, điều 38 quy định thầy thuốc không có quyền cố tình gây nên cái chết. Tuy nhiên, lý do lớn nhất là ảnh hưởng của tôn giáo thần khải tin rằng sự sống có tính chất thiêng liêng do thượng đế ban cho con người, chỉ có thượng đế mới có quyền lấy đi sự sống. Chính niềm tin này làm rất nhiều người lên án trợ tử, xem trợ tử là giết người [4].
An tử thường bị phản đối trong mọi nền luân lý tôn giáo lớn, như Phật giáo và điển hình là Công giáo Rôma phản đối mọi hình thức an tử. Trong giới luật của Phật giáo, đức hiếu sinh luôn được đề cao, do vậy tự mình sát hại, bảo người khác sát hại, khen ngợi hay tán đồng sự sát hại đều phạm trọng tội. Đối với giáo pháp Phật giáo, chết không phải là chấm dứt, và đau khổ sẽ không chấm dứt sau khi chết, mà vẫn tiếp tục cho đến khi nào giải được tất cả Ác nghiệp, người bệnh dù tự sát vẫn phải tiếp tục chịu đau đớn trong kiếp sau chứ không thể nào trốn tránh được. Tự sát cũng là một loại Ác nghiệp, việc tự giết mình – hay giúp người khác tự sát – không thể giúp trả cho hết Ác nghiệp, mà chỉ sinh ra Ác nghiệp mới cho bản thân và xã hội mà thôi. Tự sát tạo Ác nghiệp cho mình, giúp tự sát tạo Ác nghiệp cho xã hội, Ác nghiệp cứ chất chồng thì sẽ đến ngày chính xã hội phải gặt lấy Ác quả: cha mẹ muốn ông bà bệnh tật phải tự sát để đỡ “gánh nặng”, rồi đến đời con cháu cũng sẽ học theo mà làm vậy với cha mẹ, tất cả chỉ muốn đưa người thân bệnh tật vào cửa tử để đỡ tốn công chăm sóc. Vì lẽ Nhân – Quả đó, Đức Phật dạy: Nếu một người bệnh đang chờ chết, nếu có một cơ hội nào để cho họ hoặc người thân có những ý nghĩ an lành và đạo đức, thì vẫn phải cố cho họ sống thêm dù chỉ thêm 5 phút, bởi 5 phút đó đủ để vãng sinh một vong linh và gieo thêm mầm Thiện nghiệp cho xã hội.
Có thể xảy hệ quả “trượt dốc” (slippery slope) – tức an tử ban đầu chỉ được coi là hợp pháp cho người bị bệnh nan y, sau đó luật được thay đổi cho phép an tử cả trong những trường hợp khác, kể cả khi không có sự tự nguyện.
Việc công nhận quyền an tử sẽ làm xói mòn quyền cơ bản được sống Hồng Y Javier Lozano Barragan, người đứng đầu ủy Ban y tế Vaticang tuyên bố hành động gỡ bỏ ống truyền đạm tương đương với hành động giết người trong vụ T.Schiavo (Mỹ): “Cuộc sống con người không phụ thuộc vào cá nhân mà phụ thuộc đấng sáng tạo”. Vì thế, chúng ta có điều răn thứ năm không cho phép giết người. Việc khiến người bệnh chết nhẹ nhàng chính là hành động giết người. Bản chất của nền văn minh là người mạnh có nghĩa vụ bảo vệ kẻ yếu. Trong những trường hợp có các nghi ngờ và câu hỏi nghiêm trọng, cơ sở nhận định của chúng ta cần hướng đến sự ủng hộ cuộc sống” Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Theo bbc.co.uk, Trích bài “Bệnh nhân Terri Schiavo qua đời”, 2005 Việc cho phép trợ tử có thể làm “bình thường hóa” suy nghĩ của xã hội về nạn tự sát (rằng ai cũng có thể chọn tự sát như một biện pháp giải quyết bế tắc cá nhân mà không cần có nghị lực vươn lên, không cần quan tâm đến nỗi đau của người thân), từ đó vô tình cổ súy nạn tự sát trong xã hội. Nhiều người dù không bị bệnh nan y nhưng chỉ cần cảm thấy bế tắc trong cuộc sống, tình cảm… đã vội đi tìm cách tự sát, khiến tỷ lệ tự sát trong xã hội tăng lên (điều này càng dễ xảy ra ở những nước nghèo có hệ thống an sinh xã hội kém).
Nếu có Luật An tử, nhiều người bệnh sẽ giảm ý chí, mất niềm tin vào cuộc sống.
Việc thi hành trợ tử sẽ dẫn tới nhiều bệnh nhân không còn tinh thần đấu tranh với bệnh tật, nhiều người sẽ chỉ muốn chết sau một vài nỗi đau đớn (dù cơ hội cứu chữa cho họ vẫn còn). Việc chữa trị do đó sẽ sụt giảm hiệu quả do tinh thần người bệnh bị buông xuôi. Nhiều trường hợp người bệnh có thể hồi phục một cách kỳ diệu ngoài dự đoán của y học (ví dụ như đột ngột tỉnh dậy sau nhiều năm hôn mê) hoặc bệnh đó sẽ được tìm ra cách chữa trong tương lai gần, nếu áp dụng quyền được chết thì bệnh nhân không còn cơ hội chữa trị sau này, đó sẽ là vô tình giết hại một mạng người.
Cho rằng cái chết êm ả là giết người bởi chức năng của bác sỹ là phải cứu người. Tức là xung đột với quy tắc chỉ cứu người chứ không tước bỏ tính mạng con người của bác sĩ và nhân viên y tế, có thể phá hỏng những truyền thống của ngành y.
Một số bác sĩ thiếu y đức sẽ dùng quyền được chết để “loại bỏ” những bệnh nhân không có tiền chi trả viện phí hoặc những bệnh nhân từng có thù oán với họ.Ngược lại, nhiều bác sĩ sẽ không bao giờ dám trợ tử bệnh nhân vì lương tâm nghề nghiệp hoặc sợ bị người thân bệnh nhân trả thù.
PGS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi, Bệnh Viện Bạch Mai nói:
“Không có cái gì được gọi là cái chết nhân đạo; chết là tình huống xấu nhất. Tại sao mình lại nói để họ chết đi một cách thanh thản, nhẹ nhàng.Thay vì để người ta chết tại sao không nghĩ đến việc giảm nỗi đau cho họ. Mỗi con người đều có số phận nếu đến lúc số phận của họ chưa hết thì tại sao lại can thiệp để họ chết… Một số trường hợp gia đình thấy con khó cứu chữa, muốn xin cho con về chết; bệnh viện không thuyết phục được thì yêu cầu gia đình tự rút ống thở của con.Nhưng 10 gia đình thì hầu hết đều không dám.Họ đã không dám, bác sỹ lại càng không dám.Nhiều bệnh nhân tưởng chết rồi nhưng cuối cùng vẫn cứu được” [8]. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Nếu thông qua quyền an tử thì sẽ bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô nhân đạo. Tình trạng sẽ lớn hơn ở các nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo, không kiểm soát được tình hình phạm tội.
Giả sử điều này được thông qua thì rất có thể người ta sẽ lợi dụng, giết người thì không truy cứu được. Ví dụ như người ta có thể ép người bệnh bằng một hình thức nào đấy viết, hoặc đồng ý theo nội dung như, “do tôi lâu ngày, không có khả năng hồi phục, đồng thời làm ảnh hưởng đến những người thân nên muốn tự nguyện được nhận cái chết êm ái” [2], dùng vũ lực hoặc tình trạng không tỉnh táo của bệnh nhân để ép họ ký vào giấy đề nghị an tử. Hay một số người bệnh sẽ tự chọn cái chết (dù bệnh có thể chữa khỏi) để trốn tránh những khoản nợ hoặc để gian lận bảo hiểm. Nghiêm trọng hơn, có thể xảy ra trường hợp Con cháu bệnh nhân sẽ thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh án, hoặc cưỡng ép ông bà, cha mẹ bị bệnh ký vào giấy an tử nhằm thi hành “án tử” với ông bà, cha mẹ mình để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng hoặc để tranh giành tài sản. Trong trường hợp này, Luật An tử lại là công cụ tiếp tay cho hành vi giết người có chủ đích, cổ súy hành vi và tư tưởng bất hiếu trong xã hội.
- Gây ra hậu quả về y tế: Có những trường hợp bác sĩ chẩn đoán sai tình trạng bệnh, nếu áp dụng quyền được chết thì cũng sẽ là vô tình giết người.
- Để lại hậu quả về tâm lý, đạo đức và xã hội
Người trực tiếp tiến hành an tử cho bệnh nhân sẽ phải gánh chịu nhiều di chứng tâm lý, vì hành động của họ luôn là sự tước đoạt sinh mạng một con người (dù rằng người đó có thể không sống được bao lâu nữa). Nếu có người thân bệnh nhân không đồng ý việc trợ tử, người tiến hành an tử rất có thể sẽ bị trở thành mục tiêu trả thù.
1.4.2. Những lập luận ủng hộ quyền an tử Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Theo Vnexpress.net ngày 01/09/2001, trích bài phát biểu của Paul Tully, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc:
Theo chủ quan của người viết, quyền được chết không làm xói mòn quyền cơ bản là được sống.Quyền được chết không chỉ liên quan đến bệnh nhân đó mà còn cả gia đình và xã hội.Người ở giai đoạn cuối của bệnh chịu nhiều đau đớn nếu có sống cũng chỉ thêm khổ, thậm chí nhiều người không biết mình sướng hay khổ nữa.Cho nên nếu họ không muốn gây thêm tốn kém không cần thiết cho gia đình, xã hội thì hãy nên tôn trọng họ.Hơn nữa, mục đích của quyền được chết là làm cho họ không phải sống đau đớn kéo dài, đó là mục đích nhân đạo.Họ không chối bỏ quyền được sống mà vì họ không còn đủ điều kiện đảm bảo sự sống.Điều này khác hẳn với người có điều kiện để sống, bị bệnh có thể cứu chữa được nhưng lại muốn chết, đó mới là trường hợp nên lên án.
Công nhận quyền an tử hướng đến mục đích tốt đẹp, nhân đạo bởi nó giải phóng nỗi đau khổ cùng cực của con người, giúp những bệnh nhân ở trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữa ở giai đoạn cuối được “ra đi” thanh thản. An tử là hành vi từ bi, nhân ái, đáp ứng được nguyện vọng trốn thoát đau khổ của nhiều người bệnh nặng vô phương cứu chữa. Hành vi này còn được hiểu là “giết vì xót thương”. Công nhận quyền an tử sẽ chấm dứt nỗi đau đớn cho bệnh nhân cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt gánh nặng vật chất cũng như tinh thần cho gia đình họ, từ đó, tạo sự ổn định cho xã hội. Việc kết thúc mạng sống như một đặc ân, là sự giải thoát và là lựa chọn của họ, thì người thân, bác sĩ, chúng ta và pháp luật cần tôn trọng điều này. Chính vì thế, quy định quyền an tử của một người là cần thiết, vì sống hay chết phải được thực hiện bằng ý chí của chính người đó, không một ai có quyền định đoạt thay họ.
Việc pháp luật công nhận quyền an tử sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của các bác sỹ trong hoàn cảnh bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài. Không có nỗi đau đớn nào bằng nỗi đau của người thân khi chứng kiến người thân của mình phải sống quằn quại mà không thể giúp đỡ. Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau của người bác sỹ khi nhìn thấy bệnh nhân của mình đau đớn mà không có cách nào cứu giúp.
GS.TS Đỗ Kim Sơn, nguyên giám đốc Bệnh Viện Việt Đức chia sẻ: trong nhiều năm qua đã từng phải chứng kiến rất nhiều bệnh nhân mắc các chứng bệnh nan y ở giai đoạn mà sự sống chỉ còn là vô vọng, hay những bệnh nhân chết não do tai nạn giao thông không thể nào vớt vát nổi, chính bệnh nhân hoặc gia đình bệnh nhân đã đề đạt với bác sỹ nguyện vọng được chết nhưng không thầy thuốc nào dám làm. Theo GS Sơn, nếu đưa quyền được chết vào Luật phải có tiêu chí xác định rõ ràng đâu là trường hợp không còn hy vọng sống về mặt khoa học thì mới cho phép, còn không, dù với bất cứ lý do nào cũng không được phép mà phải ngăn cản, giúp đỡ họ. Do đó, Luật phải quy định thật cẩn thận, chặt chẽ nếu không sẽ vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Tự do lựa chọn cuộc sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thể hiện quyền tự quyết cá nhân: mỗi người có quyền định đoạt thân xác và mạng sống của mình, kể cả việc kết liễu nó. Do đó, mỗi người phải được trao cho sự tự do để thực hiện quyền tự quyết này. Theo sự tôn trọng quyền tự quyết, con người phải có quyền định đoạt sự sống và cái chết của mình, họ phải được đủ khả năng để kết liễu sự sống khi nào họ muốn, chặn đứng sự đau khổ không cần thiết.
Một điểm nữa có thể quan tâm đó là, nếu không công nhận quyền an tử, vấn đề này sẽ vẫn mãi bế tắc bởi liên quan đến yếu tố chính trị, tôn giáo… Những đề nghị, yêu cầu xin được chết dai dẳng kéo theo cả Tòa án và chính quyền vào cuộc, không ít trường hợp vấn đề này được sử dụng vào mục đích chính trị. Chẳng hạn như vụ Terri Schiavo ở Mỹ đã kéo cả Tòa án tối cao bang Florida, Tòa án Liên Bang Mỹ vào cuộc và cả Quốc hội Mỹ vào cuộc. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
Diễn biến: Tháng 2/1990: Terri Schiavo bị tổn thương não sau khi ngất tại nhà; tháng 5/1998: Michael Schiavo gửi đơn xin rút ống truyền dinh dưỡng cho vợ, gây nên một cuộc chiến pháp lý; tháng 2/2000: Toà án cho phép rút ống; tháng 10/2003: Hạ viện Florida thông qua “Luật Terri”, cho phép thống đốc ra lệnh ngừng truyền thức ăn cho Schiavo; tháng 9/2004: Toà án tối cao Florida bác bỏ luật này; tháng 12/2004: Vụ việc đưa lên Toà án Tối cao Mỹ; tháng 1/2005: Toà án bác đơn; tháng 3/2005: Toà án Florida một lần nữa cho phép rút ống; Ngày 20/3/2005: Quốc hội thông qua luật khẩn cấp cho phép cha mẹ Schiavo khiếu nại để nối ống truyền; ngày 22/3/2005: Thẩm phán liên bang bác đơn của cha mẹ Schiavo; ngày 23/3/2005: Toà phúc thẩm ủng hộ phán quyết của toà án liên bang; ngày 24/3/2005: Toà án Tối cao từ chối xem xét đơn khiếu nại [10].
Như vậy, những lý do phổ biến để muốn hợp pháp hóa an tử có thể được phân loại là: tìm kiếm sự từ bi của đau đớn và đau khổ, bảo vệ các bác sĩ cư xử một cách từ bi, tôn trọng nhân quyền và giúp đỡ trong việc ngăn ngừa các chi phí y tế.
Nhìn chung, mỗi luồng quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý, để đạt được sự đồng thuận với vấn đề an tử gần như là điều không thể ở mọi xã hội. Quyết định cấm hay hợp pháp hóa an tử là một quá trình cần nhiều thời gian và chịu tác động của nhiều yếu tố như trình độ nhận thức, kinh tế, khoa học kĩ thuật, truyền thống văn hóa,…Tuy nhiên, xu hướng đang diễn ra trên thế giới là an tử ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn. Khóa luận: Quyền an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ: