Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ để phục vụ du lịch dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

3.1. Các giá trị của kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

3.1.1. Khai thác vật liệu tại chỗ

Sơ chế đơn giản mà lại hiệu quả cao. Nhà cửa dân gian dù nhà tranh hay nhà ngói đều được xây dựng từ những vật liệu sẵn có trong thiên nhiên, thậm chí có ngay ở địa phương, nếu cần phải khai thác ở xa thì cũng tiện đường chuyên chở. Đó là đất, rơm rạ, tranh, lá cọ, bổi cói, lá dừa nước, tre (và họ hàng nhà tre: nứa, trúc, mai, vầu…), gỗ vườn và gỗ rừng, đá (nhất là đá ong).

Đất có thể được dùng trực tiếp để đắp tường, trình tường, trộn với rơm để trát vách bua, thậm chí trát cả lên mái trước khi lợp lá để chống cháy. Đất sét luyện kĩ được đóng khuôn rồi phơi khô và nung ở nhiệt độ thích hợp dễ đạt được, sẽ cho ta các loại gạch và ngói để xây tường, lát nền, lợp mái và gạch hoa trang trí.

Tre và gỗ được chặt vào mùa hanh khô để cây kiệt nước, không sinh mối mọt. Cũng không dùng những cây tự chết vì là những cây có bệnh, độ bền vững kém. Tre và gỗ khi mang về cũng không dùng ngay mà phải ngâm nước chừng một năm để dễ biến hóa chất trong tế bào tre và gỗ có khả năng chống được mối mọt. Nhà tre cần đến nhiều lạt để buộc, bằng mây – giang – tre, phải luộc trước khi chẻ, và chẻ xong thì gác lên bếp hun khói, nhờ khói củi mà mối mọt không dám ăn nữa, khi dùng mang ngâm nước cho mềm dẻo, buộc rất chặt. Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Bằng kinh nghiệm xử lý vật liệu, nhờ lựa chọn và sơ chế đã khắc phục được nhiều nhược điểm nâng tuổi thọ công trình lên gấp nhiều lần, có thể trên 50 năm thậm chí 100 năm, truyền đời mấy thế hệ.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

3.1.2. Khai thác và chế ngự thiên nhiên

Thiên nhiên đã ban cho chúng ta đủ vật liệu để xây nhà cửa, nhân dân ta đã khai thác vật liệu của thiên nhiên, sơ chế theo kĩ thuật mà kinh nghiệm tích luỹ được, cũng là bước chế ngự thiên nhiên. Song thiên nhiên là môi trường sống của con người, bên cạnh thuận lợi bao giờ cũng có khó khăn, đi đôi với ân huệ luôn là thử thách. Cái khó vừa bó cái khôn, nhưng cái khó cũng làm ló cái khôn. Sống trong vũng nhiệt đới nóng và ẩm, nhân dân ta đã nắm chắc chu kì thời tiết nóng và lạnh, nắng và mưa, các mùa giông và bão, hướng gió.

Trên cơ sở đó mà nhà cửa phải xây dựng sao cho vừa khai thác được nhiều nhất mặt thuận lợi vừa hạn chế được nhiều nhất mặt thiệt hại, tránh được cái nắng nóng phía tây, gió rét phía bắc và bão lốc phía đông, đồng thời phải biết hứng gió nồm nam, hưởng ngọn gió mát hút qua cửa rộng vào trong nhà thông thoáng để diệt trừ ẩm mốc và mối mọt, xua khí nóng thoát ra qua cửa sổ và các lỗ thông gió ở đầu nóc nhà.

Do vậy mà nhà chính thường xoay về hướng nam, mặt trước mở nhiều cửa rộng, quay lưng về hướng bắc và cùng hồi phía tây không mở cửa hoặc chỉ có cửa sổ. Còn khối nhà phụ thường ở phía tây hướng về đằng đông, xếp vuông góc với khối nhà chính theo hình chữ L, để cùng nhà chính đón gió đông nam. Những căn nhà thông thoáng xây đúng hướng thì không khí trong nhà luôn chuyển động, cả khi gió chỉ thoang thoảng trong nhà vẫn dìu dịu, tất cả những gì nóng bức ẩm ướt và hôi hám đều được lùa đi hết. Tường nhà dù xây gạch, đắp hay trình đất đều rất dày, ngăn cách nhiệt độ trong nhà với ngoài trời, để luôn giữ cho trong nhà có một ôn độ vừa phải, dù ngoài trời lạnh tới gần 0oC hay nóng tới trên 40oC. Những mảnh tường trực tiếp hấp nắng chiều lại càng dày, và có nơi lại kéo mái đua rộng xuống thấp che cho một phần tường đỡ bị nắng nung và mưa xói mòn. Tường nhà chỉ trừ gian giữa phía sau là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, còn ở các mảng khác đều có thể trổ cửa sổ để đóng mở điều tiết nhiệt độ và ánh sáng trong nhà. Phần tường giáp mái, nhất là ở hai nóc hồi thường để những khoảng trống hẹp và ô nhỏ làm chỗ thoát khí nóng. Cũng như tường, mái để chống nóng chống lạnh và chống mưa nữa. Nếu là mái ngói có ngói bản do kĩ thuật lợp đan cài và ngói âm dương có gắn vôi vữa liên kết với nhau chắc chắn, phía dưới được độn khá dày tạo ra một khoảng xốp cách nhiệt. Tuy nhiên, cách nhiệt tốt hơn vẫn là mái tranh (gồm cả rạ, cói…) được lợp rất dày trung bình 0.4 m có khi tới 0.6m, ngay bản thân vật liệu đã xốp, cả mảng tấm xốp lớn chống bức xạ mặt trời, giữ cho không khí trong nhà mát dịu. Nhà hai mái thì có hai mặt phẳng lớn nằm nghiêng và hai hồi tam giác đứng thẳng, nhà có chái thì phía hồi cũng là mặt phẳng nghiêng, do đó độ cản gió bão nhỏ, dễ né tránh sự xô đổ của bão. Lợp tranh thì mái còn được ghì chặt vào khung nhà thông qua rui và mè, phía trên nhiều nơi còn có kèo đè chống bão ghì mái xuống tận sân. Đối với mái ngói, các đường bờ nóc và bờ giải cũng liên kết mái thành mảng chắn và gắn với tường thành khối đằm tránh bão. Mái nhà truyền thống bao giờ cũng dốc để thoát nước nhanh. Nhà tre lợp tranh thì thường là tường đất, nên mái thường đua ra xa và kéo dài xuống thấp, khi mái dốc nhiều thì nước mưa lăn nhanh và đến giọt tranh thì bắn ra xa, giọt tranh càng thấp và xa chân tường thì nước khi chạm đất bắn tóe ít làm mòn chân tường. Ở các nhà ngói ta thường xây trên nền cao cũng một phần nhằm nước mưa rơi xuống sân không bắn được lên chân tường. Nội thất bên trong nhà là cả một không gian liền khối thông thoáng, việc phân ra các khu chỉ là quy ước mà không có tường vách, nên gió không bị cản và con mắt không bị tức, chỗ nào trong nhà cũng có sự lưu thông không khí, dìu dịu, thoang thoảng vừa để mồ hôi bốc hơi cho da thịt khô sạch, người ở trong nhà dễ chịu.

Từ đất và tranh, tre, nứa, lá… những vật liệu “ tầm thường” rất sẵn của vùng nhiệt đới, nhưng lại có cấu tạo “tinh vi” để qua việc sử dụng sáng tạo của nhân dân ta, ngôi nhà vừa khai thác những ưu thế vừa chế ngự những bất tiện của thiên nhiên nhiệt đới, nghĩa là có tác dụng tốt đối với chống nóng, chống nắng, chống ẩm, chống mốc đơn giản mà kết quả cao. Đó là hệ thống cách nhiệt tạo bởi hàng triệu lỗ rỗng của vật liệu và khe hở của xây cất trong những mái nhà tranh, tường vách đất, giại và liếp sáo bằng tre.

3.1.3. Giá trị nghệ thuật Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

“ Sống mỗi người một nhà…”. Người dân nào cũng cần có nhà để ở, đối với những ngôi nhà khung tre, từng gia đình đều có thể tự làm lấy nhà, nhưng thường thì bà con họ hàng làng xóm đến giúp mỗi người một tay, không cần đến thợ chuyên môn. Chỉ cần con dao, cái đục, thêm cái cưa thì may mắn rồi, thế là moi người có thể dựng được ngôi nhà gọn xinh. Chỉ nhà ngói khung gỗ thì mới cần đến thợ mộc, có đủ đồ nghề pha chế gỗ và tạo mộng mẹo trong kĩ thuật lắp ráp, còn về nguyên tắc chung thì nhà tre hay gỗ cũng bắt đầu từ những cái rất đơn giản mà thật khoa học: Đó là thước tầm, hay còn gọi là sào mực, rui mực.

Nhìn vào một nửa cây tre đường kính 5 – 6 cm pha đôi, trong long máng có vạch những kí hiệu, người ta đọc được kích thước của các bộ phận cấu thành ngôi nhà, từ đó có thể cắt tre hay chọn gỗ bổ mực. Dưới sự chỉ huy của người đứng đầu am hiểu công việc, những người làm giúp hay thợ bạn cứ việc cưa cắt những bộ phận được phân công, khi đã đầy đủ rồi thì tiến hành lắp ráp, tất cả khứ khớp nhau, đồng bộ, chặt chẽ.

Cái thước tầm được cấu tạo chung dùng cho mọi nhà song nhà nào thước ấy, không thể mượn thước của người khác để làm nhà cho mình.

Nhờ kĩ thuật lắp ráp bằng mộng mẹo, nhà cửa dân gian của chúng ta vừa chắc chắn, vừa linh hoạt: các chấn động mạnh của ngoại cảnh (như gió bão, động đất…) không làm rời rã, nhưng con người có thể dễ dàng tháo những bộ phận hỏng ra và dễ dàng lắp những bộ phận thay thế vào, cũng dễ dàng tháo tung toàn bộ cả khung nhà để di chuyển đi nơi khác rồi lại lắp nguyên như cũ, còn việc xoay hướng hay tôn cao nền thì có thể để nguyên cả khung nhà, chỉ cần giỡ mái cho nhẹ bớt, với nguyên lí đòn bẩy có thể thực hiện nâng nhích dần từng cột hay vừa nâng vừa xoay dần tất cả các cột mà không làm rệu rạo hay gẫy mộng.

Cả một hệ thống cột hàng chục chiếc đều phải tuân thủ nghiêm ngặt quy định dựng đứng xuôi chiều ngọn trên gốc dưới, vừa tạo sự thuận lí phát triển hợp dáng cột đòng đòng nhìn chung dưới to trên nhỏ, các vân gỗ đều ăn lên trông đẹp mắt, vừa phù hợp với việc chịu lực dồn xuống phía dưới càng gần chân cột càng nhiều đòi hỏi gỗ gốc rắn hơn gỗ ngọn. Các câu đầu, quá giang và các loại xà dọc đều phải đặt nằm hướng ngọn lên nóc còn gốc xuống hiên, cho đến việc đặt các xà ngang, hoành, đòn tay, dui… đều phải thống nhất gốc về một hướng, ngọn về một hướng. Thực chất của các quy định này cũng đều nhằm đảm bảo mỹ quan một sự thống nhất thuận mắt và đảm bảo sự chịu lực đồng bộ để tăng độ bền cho công trình.

Ngôi nhà, kiến trúc truyền thống của người Việt luôn được tạo dựng trên một quan điểm: cái đẹp trong sự tự nhiên, cái đẹp từ trong ra ngoài, cái đẹp gắn với chữ “ tâm”. Kiến trúc ấy xa lạ với mọi biểu hiện phô trương, hình thức. Ngôi nhà là một sản phẩm của tự nhiên, lịch sử và tư duy kiến tạo Việt. Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

3.1.4. Giá trị tâm linh

Nhà cửa dân gian trước hết là nơi cư trú của các thành viên trong một gia đình, và do đó phải được cấu trúc sao cho lợi dụng được mọi thuận lợi của thiên nhiên, đồng thời nó còn mang ý nghĩa xã hội, phản ánh một quan niệm thẩm mỹ trong nếp sống nông thôn và xã hội nông nghiệp. Trong nhịp sống nông thôn êm trôi, sản xuất nông nghiệp có lúc thư nhàn xen kẽ thời vụ khẩn trương, ngôi nhà cổ truyền dàn ngang 3 hay 5 gian với bộ mái tranh hay mái ngói nghiêng nghiêng nhô lên vừa phải trong đám cây xanh quanh nhà, là biểu hiện tế nhị sự khẳng định của cá nhân trong cả cộng đồng, không lộ liễu trơ trụi, không tách bạch khinh khi, mà hoà nhập ấm cúng, song vẫn có dấu hiệu của cá tính riêng đơn. Cũng thế, trong tổ hợp kiến trúc của một khuôn viên, những ngôi nhà chính và nhà phụ đặt cạnh nhau có tư cách riêng, không chen lấn, không ôm chồng, nhưng ngôi thứ rõ ràng, tất cả lấy ngôi nhà chính làm điểm quy tụ để hướng tới và tôn lên một sự linh thiêng. Trong ngôi nhà Việt truyền thống, không gian tâm linh hết sức quan trọng, chiếm một vị trí đáng kể nhất trong gia đình.

Gian chính là bộ mặt của chủ nhà, lại là nơi thờ cúng của tổ tiên nên được bài trí hết sức công phu so với các gian bên cạnh. Có nhiều nhà gian chính được trang trí với các mô típ hoa văn trên các cột, vì kèo bằng gỗ hết sức khéo léo và tinh vi, đó là những mảng chạm khắc được thu nhận từ thiên nhiên vào trong ngôi nhà người Việt truyền thống. Trong ngôi nhà phần được chú ý và quan tâm nhiều hơn cả chính là bàn thờ vì chịu ảnh hưởng của Đạo Phật, Đạo Lão, Đạo Khổng nên bàn thờ được đặt vào chính giữa của gian chính, xung quanh được trang hoàng bằng các bức hoành phi câu đối, nếu gia cảnh của chủ nhà có khiêm nhường hơn thì bàn thờ cũng luôn được đặt vào nơi trang trọng nhất.

Cũng như trong ngôi nhà chính luôn lẻ, lấy gian giữa tôn nghiêm và huyền nhiệm để đảm bảo sự đăng đối của cấu trúc và sự sáng giá của đạo đức “ uống nước nhớ nguồn”. Về mặt này, những ngôi nhà hộp mái bằng và có số gian chẵn đều không tự biểu hiện được tình cảm trước tập thể và trước tổ tiên. Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

3.2. Các biện pháp bảo tồn kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ tại một số làng đã nghiên cứu

3.2.1. Các biện pháp quy hoạch, bảo tồn chung

Cần có biện pháp quản lý đối với việc phát triển không gian và xây dựng trong làng, theo đúng qua hoạch chung, khống chế mật độ xây dựng trong làng, khuyến khích sử dụng các hình thức kiến trúc truyền thống phù hợp điều kiện khí hậu, môi trường, đảm bảo giá trị thẩm mỹ không gian cảnh quan kiến trúc truyền thống.

Đối với các ngôi nhà cổ, cần phải ban hành các cơ chế, chính sách quản lý và hỗ trợ kịp thời để bảo tồn được cấu trúc không gian và các giá trị lịch sử, văn hoá truyền thống của những ngôi nhà đó.

Chính quyền địa phương cần đưa ra các chính sách quản lý, định hướng quy hoạch, bảo tồn, phát triển kiến trúc nhà ở giai đoạn mới hiện nay:

  • Khuôn viên khu đất dành cho xây dựng nhà ở nông thôn phải đảm bảo đủ diện tích nhằm xây dựng phát triển hình thái nhà ở có vườn – ao – chuồng. Nhà ở phải giữ lại kiến trúc và công năng của ngôi nhà 3 gian 2 chái hoặc nhà 2 tầng, mái lợp ngói hoặc tôn 3 lớp cách nhiệt giả ngói màu đỏ.
  • Nhà ở nông thôn cần được quy định về diện tích chiếm đất, chiều cao công trình, diện tích sàn, khoảng lùi so với chỉ giới quy hoạch, các công năng phù hợp với nhu cầu nhà ở nông thôn mới, tỷ lệ % diện tích trồng cây xanh, mặt nước trong khuôn viên khu đất xây dựng nhà ở.
  • Cấp giấy phép xây dựng, quản lý quá trình xây dựng cũng như hình thức kiến trúc của nhà ở nông thôn.

Xây dựng một kiểu làng mới gần khu làng cổ để những gia đình nông dân trẻ đến sống, trong làng mới này có thể xây nhà cao 2 – 3 tầng theo kiểu mẫu kiến trúc và quy hoạch của kiến trúc sư có vườn có diện tích để làm nghề phụ, có không gian sinh hoạt cộng đồng… Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Để quản lý, quy hoạch phát triển bảo tồn nhà ở nông thôn vùng ĐBBB, cần thiết phải có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước, các Bộ ngành có liên quan và chính quyền địa phương về hỗ trợ vốn, hỗ trợ kỹ thuật vật liệu và xây dựng, hỗ trợ tư vấn phương án kiến trúc để cùng với người dân xây dựng nhà ở nông thôn mới cho phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của xã hội hiện nay.

3.2.2. Giải pháp bảo tồn để phục vụ du lịch

Cải tạo, trùng tu đầu tư hệ thống nhà vệ sinh nhằm tạo quang cảnh đẹp phục vụ du khách

Hoàn chỉnh thết kế hạ tầng bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi phục vụ cho các đoàn khách du lịch, thiết kế dịch vụ giải trí, vui chơi như ca múa nhạc dân tộc, phục vụ ẩm thực, bố trí các gian hàng bán quà lưu niệm

Tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí, nhân lực để trùng tu tôn tạo nhà cổ sao cho không làm mất đi những giá trị vốn có của nó.

Tổ chức cho khách những bữa cơm xưa trong ngôi nhà cổ, chủ nhà kể những câu chuyện về ngôi nhà của họ, du khách cùng sinh hoạt với gia chủ…

Tìm địa điểm phù hợp làm nhà truyền thống làng cổ để trưng bày những dụng cụ sản xuất, sinh hoạt, trang phục… của làng cổ, trình chiếu các băng video về cách sản xuất món ăn truyền thống, cách nhuộm may trang phục, lễ hội truyền thống… góp phần nâng cao hiểu biết về làng cổ, truyền lại những kinh nghiệm này cho đời và giới thiệu cho du khách

3.3. Giải pháp khai thác phát triển du lịch

3.3.1. Du lịch tham quan nhà cổ

Tổ chức đưa du khách đến tham quan các ngôi nhà cổ: nhìn từ bên ngoài và trông ngôi nhà cổ có vẻ thấp nhưng khi bước vào bên trong sẽ thấy hệ thống kèo cột trần nhà rất cao làm cho không gian thoáng mát. Đây là nét hấp dẫn đầu tiên dành cho du khách thưởng ngoạn. Bước vào trong nhà là cả một không gian cổ xưa với những trang trí độc đáo, những hoành phi câu đối, những cổ vật Những đồ dùng dành cho sinh hoạt gia đình không thể thiếu là bộ phản bằng gỗ lim, bộ sập gụ, tràng kỉ, những tủ chè tủ đứng bằng gỗ quý không sơn thiếp mà dùng thời gian làm cho mặt gỗ lên nước, cơ động và tiện nghi là chiếc chõng tre gọn xinh dễ mang ra đầu hè hay dưới tán cây để ngồi, nằm đón gió mát, cũng có thể tiếp khách ngồi chơi uống nước làm cho du khách phải tò mò thú vị. Ngoài ra du khách còn được chiêm ngưỡng những đồ dùng khác như chum vại chĩnh vò… bằng đất nung già, đanh mặt, nhiều khi bóng như men hay như những đồ gốm tráng men: bát ngô, bát đàn, bát đĩa Bát Tràng có vẽ hoa lam…

3.3.2. Phát triển loại hình du lịch homestay Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Homestay là loại du lịch hình hoàn toàn mới mẻ song thực sự khẳng định được ưu thế, thu hút những khách du lịch ham mê khám phá và muốn trải nghiệm cuộc sống, mà đối tượng chính là khách quốc tế, đối tượng du lịch có khả năng chi trả cao và khách nội địa là sinh viên…

Sự hấp dẫn của homestay bởi đây là loại hình du lịch đồng quê, du khách đến đây sẽ được hoà mình với thiên nhiên miền nhiệt đới đặc trưng, thưởng ngoạn những cảnh trí thơ mộng, non nước hữu tình trên địa bàn và tìm hiểu vốn văn hoá mang đậm dấu ấn văn minh lúa nước của đồng bằng châu thổ sông Hồng, những giá trị lịch sử tiêu biểu của đất và người nơi đây được bảo tồn, phát huy qua các thế hệ, qua sự thăng trầm của lịch sử. Với homestay, khách du lịch có thể nghỉ ngơi, sinh hoạt ngay chính tại ngôi nhà của người dân bản địa trong chuyến đi du lịch của mình.

Các hoạt động mà du khách đến đây được khám phá rất bình dị, mộc mạc trong cuộc sống thường nhật nhưng lại rất sinh động như trực tiếp lao động, tát nước gầu sòng, gầu dây, đi móc cua ở bờ ruộng, cất vó, đánh giậm, cùng người dân làm cua nấu canh, thổi cơm vùi vùng gio, xay lúa, giã gạo, tổ chức cho khách đi xe đạp, xe trâu vào các thôn, xóm…, tham quan kiến trúc truyền thống của người dân vùng đồng bằng Bắc bộ như nhà cổ, làng nghề, cảnh quê, đền, chùa…, tham quan, tìm hiểu các lễ hội truyền thống, phong tục, tập quán của dân bản địa, trong đó chủ nhà sẽ đóng vai trò là người hướng dẫn viên du lịch, tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, đốt lửa trại, thể dục thể thao…

3.3.3. Xây dựng các tour du lịch văn hóa khai thác nhà cổ

a. Làng Mái Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Là làng làm tranh nổi tiếng, du khách đến làng mái không chỉ tham quan tìm hiểu những ngôi nhà cổ mà còn thưởng thức tranh bởi kĩ thuật làm tranh khắc gỗ dân gian rất độc đáo, nội dung tranh phong phú và đa dạng, tất cả đều bắt nguồn từ phong tục tập quán, từ những sự kiện lịch sử, từ nếp sống sinh hoạt thường ngày của người dân mà nên.

Từ làng Mái du khách có thể đi thăm chùa Dâu thuộc làng Khương Tự, xã Thanh Khương huyện Thuận Thành – ngôi chùa có lịch sử hình thành và phát triển cổ nhất trong các ngôi chùa còn lại ở nước ta, là nơi giao thoa hội nhập giữa văn hóa tín ngưỡng Việt Nam với văn hóa tín ngưỡng, kiến trúc Phật giáo từ Ấn Độ. Nơi đây còn lưu giữ nhiều giá trị kiến trúc nghệ thuật cổ kính vô giá, nhiều cổ vật có giá trị, là những tư liệu quý hấp dẫn du khách tham quan, nghiên cứu. Hoặc có thể đến thăm chùa Bút Tháp thuộc xã Đình Tổ huyện Thuận Thành, đến thăm chùa ta được cảm nhận tinh thần từ bi hỉ xả của đạo Phật, để thưởng thức những tác phẩm điêu khắc, kiến trúc, để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật một thời và để cảm nhận niềm tự hào về tài nghệ của cha ông. Chùa Bút Tháp với những giá trị lớn lao về mọi mặt, được bảo tồn khá nguyên vẹn, được coi là bảo tàng kiến trúc mỹ thuật Phật giáo thời Lê, là một điểm tham quan lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước.

  • Làng Lim

Đến với làng Lim – làng quan họ cổ vùng Kinh Bắc, du khách sẽ được tham quan tìm hiểu văn hóa truyền thống từ những ngôi nhà cổ đồng thời chiêm ngưỡng vẻ đẹp của khu di tích đình chùa làng Lim trên núi Lim. Ngoài ra du khách còn được thưởng thức một loại hình nghệ thuật truyền thống – quan họ, đặc biệt là nghe canh quan họ tại các gia đình nghệ nhân trong làng. Làng Lim không chỉ nổi tiếng với những ngôi nhà cổ với quan họ mà còn có nghề dệt truyền thống. Qua quá trình phát triển của lịch sử các thế hệ người làng Lũng Giang (làng Lim) đã cần cù lao động, xây dựng xóm làng, tạo nên truyền thống văn hóa giàu đẹp. Trong thời kì phong kiến, Lũng Giang nổi tiếng là vùng quê trù phú với sản phẩm tơ lụa mượt mà, đằm thắm tình người. Hầu hết các nhà trong làng đều có khung cửi dệt. Người sản xuất vừa là người đem bán ở chợ Lim, chợ Giàu, chợ Bắc Ninh… rồi lại mua sợi ở những nơi đó về dệt. Chính nghề quay tơ dệt vải đã tạo nên nét duyên dáng tươi xinh, hấp dẫn của các cô thôn nữ trong làng: “ Trai cầu vồng – Yên Thế. Gái Nội Duệ – Cầu Lim”. Không chỉ được ngắm cảnh được nghe hát mà du khách còn được thưởng thức đặc sản nơi đây, đó là kẹo cốm Lũng Giang – món quà quê thấm đẫm tình người Quan họ.

Kẹo cốm Lũng Giang có hương vị rất đặc biệt nên ai đã ăn một lần sẽ không thể nào quên. Du khách thưởng thức và mua về làm quà cho gia đình người thân và bạn bè.

  • Làng Diềm Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Điểm đến đầu tiên khi đến với làng Diềm du khách có thể tham quan đó là Đình Diềm – ngôi đình cổ rất bề thế, tiếp đến là Đền Cùng – Giếng Ngọc, du khách được cảm nhận những điều kì lạ từ suối nguồn trong vắt không biết chảy từ đâu tới, đến Giếng Ngọc chắt ra từ một tảng đá ong nguyên khối, từ hàng chục thế kỉ nay nước chưa cạn. Đi sâu vào làng du khách sẽ ghé thăm những ngôi nhà cổ và nghe hát quan họ. Sau đó thưởng thức món đặc sản nơi đây – bánh khúc làng Diềm.

3.3.4. Sử dụng kiến trúc truyền thống để xây dựng các khu resort, khu nghỉ dưỡng

Sử dụng kiến trúc cổ xưa để đưa khách về gần với thiên nhiên, tránh xa cái ồn ào của cuộc sống đô thị như bố trí những ngôi nhà cổ với mái ngói; tường gạch; cột, kèo bằng gỗ và có gam màu tối, mang vẻ cổ kính.

Thiết kế theo lối kiến trúc mở, vật liệu chủ yếu là tre, gỗ, mái lá đem đến cho du khách cảm giác thấy luồng khí mát cùng ánh sáng tự nhiên, khác hẳn sự bó hẹp, ngột ngạt của cuộc sống thành thị. Đối với khu vực phòng nghỉ, để giảm bức xạ mặt trời, gây thất thoát hơi mát bên trong các kiến trúc sư đã tính toán rất kỹ khi quyết định bề mặt tường, hệ thống mái che, mái ngói và rèm cửa. Mái cho các phòng nghỉ và khu dịch vụ chủ yếu là mái ngói hoặc mái tranh kết hợp với mành tre gỗ. Nhà hàng được thiết kế thân thiện với môi trường sử dụng các vật liệu như tre, đá và gỗ. Những vật liệu địa phương được tận dụng tối đa và gửi gắm vào đó tâm hồn của đất, tâm hồn người, lưu giữ những ấn tượng về mảnh đất đã đi qua trong lòng du khách. Vật liệu thường được sử dụng trong không gian kiến trúc này đa phần là gỗ tự nhiên, đá, hoặc giả thân cây để tạo nét tự nhiên và gần gũi nhất. Đối với các chòi nghỉ, lá cọ, rơm rạ là vật liệu chủ đạo vừa có tác dụng làm mát cho không gian vừa vẽ lên khung cảnh bình dị và thân thuộc với tự nhiên.

Sử dụng kiến trúc truyền thống tránh nóng với tấm dại, hồ nước bụi cây… trong thiết kế vừa tạo cảm giác gần gũi vùa tạo vi khí hậu tiết kiệm được năng lượng.

3.3.5. Nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Cơ chế chính sách của tỉnh, huyện, xã phải thuận lợi để thu hút đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch.

Xây dựng đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, có những sản phẩm mới độc đáo, hấp dẫn từ nguồn tài nguyên mới là kiến trúc dân gian truyền thống của người Việt kết hợp với các nguồn tài nguyên du lịch khác của địa phương.

Muốn có sản phẩm mới đặc sắc, có sức hút thì địa phương cần phải phối hợp chặt chẽ và tạo điều kiện cho các công ty lữ hành nghiên cứu, khảo sát nguồn tài nguyên kiến trúc nhà ở truyền thống ở địa phương mình.

Xây dựng các khu nghỉ dưỡng, nhà ở truyền thống cao cấp ở gần làng mà không làm phá vỡ đi cảnh quan lại đáp ứng được nhu cầu của các đối tượng khách khác nhau.

Duy trì và phát triển mối liên kết với các địa phương lân cận cũng đã khai thác nguồn tài nguyên du lịch kiến trúc nhà ở truyền thống như Hà Nội, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên…

3.3.6. Nâng cao tính chuyên nghiệp

Trong quá trình cùng với các doanh nghiệp và người dân làm du lịch, cấp ủy, chính quyền địa phương phải có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao. Ban Chấp hành Đảng bộ xã phải có một Nghị quyết chuyên đề về phát triển du lịch.

Theo đó, các hoạt động du lịch trên địa bàn sẽ phát triển theo hướng chuyên nghiệp hơn, quy mô hơn. Xã phải xây dựng những cơ chế, chính sách phù hợp để tập trung, hướng dẫn người dân cùng làm du lịch, thu hút các doanh nghiệp về đầu tư, phát triển du lịch.

Trong quá trình làm du lịch, dù làm du lịch hay không, người dân phải có ý thức xây dựng môi trường du lịch xanh – sạch – đẹp để đón khách. Với nòng cốt là Hội Người cao tuổi, các gia đình trong thôn, trong làng phải trồng cây xanh, cây cảnh để tạo cảnh quan trong lành.

Sự quan tâm sát sao của chính quyền địa phương, sự phối hợp, chia sẻ, giúp đỡ của các doanh nghiệp khai thác du lịch để không chỉ ở những ngôi nhà cổ, mà tất cả các hộ gia đình trong thôn, trong xã đều có thể trở thành điểm đến của khách du lịch.

Các cấp chính quyền địa phương cũng cần có sự quan tâm quản lí sát sao cùng với sự phối hợp chia sẻ giúp đỡ của các doanh nghiệp khai thác du lịch để nâng cao tính chuyên nghiệp trong hoạt động du lịch.

3.3.7. Đào tạo nguồn nhân lực Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Tập trung vào đào tạo đội ngũ lao động vừa phục vụ yêu cầu kinh doanh vừa làm nguồn cung cấp cho nhu cầu của các nhà đầu tư.

Đội ngũ làm du lịch của nước ta không ngừng phát triển qua các năm nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao trước sự phát triển mạnh mẽ của du lịch. Hiện nay ngành du lịch còn thiếu nhiều chuyên gia lành nghề, thiếu cán bộ quản lý có trình độ, năng lực để đáp ứng sự phát triển của ngành.

Chất lượng dịch vụ thấp ảnh hưởng đến việc thu hút khách, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng trong tất cả các hoạt động du lịch. Vì vậy, việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động du lịch là hết sức cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cũng như những hiểu biết chung về các lĩnh vực để có thể phục vụ tốt nhất những yêu cầu ngày càng cao của các đối tượng khách khác nhau.

Hàng năm, địa phương có thể phối hợp với Trung tâm Xúc tiến du lịch tỉnh mở các lớp tập huấn về nghiệp vụ du lịch, dạy ngoại ngữ cho bà con nhân dân bởi chính họ là người hiểu rõ nhất về ngôi nhà của mình, về nền văn hóa địa phương mình và có thể diễn giải truyền đạt tốt nhất các giá trị văn hóa đó.

3.3.8. Tăng cường công tác tuyên truyền thông tin quảng cáo

Hoạt động tuyên truyền quảng cáo giới thiệu du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút khách đến với các điểm đến. Mục tiêu của hoạt động này là nhằm nâng cao hình ảnh của điểm đến, kích thích nhu cầu đi du lịch, làm tăng lượng khách du lịch, tăng doanh thu và đóng góp vào nền kinh tế. Các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu du lịch địa phương nói chung và nguồn tài nguyên kiến trúc nhà ở nói riêng được thực hiện thông qua:

  • Các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình, báo địa phương, trưng ương hoặc tỉnh bạn thông qua kí kết hợp tác phát triển du lịch: các bộ phim tài liệu giới thiệu về kiến trúc nhà ở truyền thống của địa phương với những giá trị của nó. Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.
  • Xuất bản các ấn phẩm du lịch như: sách hướng dẫn du lịch, tập gấp, tặng phẩm, đĩa DVD, CD – ROOM, tranh ảnh, pano áp phích, bản đồ du lịch, các biển quảng cáo cỡ lớn được đặt tại các trọng điểm giao thông và các ấn phẩm khác giới thiệu về kiến trúc nhà ở truyền thống của địa phương
  • Quảng bá qua công nghệ tin học như mở Website đó là những website giới thiệu về kiến trúc nhà ở truyền thống…
  • Người dân luôn nhiệt tình chu đáo dành mọi điều kiện tốt nhất để đón khách đến với ngôi nhà của mình, coi đó là bước để mời chào quảng bá cho du lịch địa phương

Việc tạo được ấn tượng về điểm đến, tạo lập được hình ảnh theo chiều hướng tích cực do hiệu quả chuyển tải thông tin của ấn phẩm đã kích thích nhu cầu đi du lịch hoặc việc tuyên truyền hay thông tin về điểm du lịch đã cung cấp thông tin cho khách du lịch tiềm năng kế tiếp khi trở về nơi cư trú của mình hoặc bằng những hình thức mang ấn phẩm thông tin du lịch nhận được từ các chủ thể của hoạt động tuyên truyền, quảng bá và giới thiệu cho người khác.

Tiểu kết chương 3

Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ là nguồn tài nguyên du lịch có giá trị, hấp dẫn độc đáo, rất thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Hiểu được điều đó, ở chương 3 người viết đã đề xuất những giải pháp bảo tồn và định hướng khai thác nguồn tài nguyên này phục hoạt động du lịch. Đó là bảo tồn trùng tu kiến trúc nhà ở truyền thống, khai thác nguồn tài nguyên này kết hợp với các nguồn tài nguyên khác của địa phương như di tích lịch sử văn hóa, ẩm thực, nghề truyền thống để xây dựng một số tour du lịch văn hóa trong làng, phát triển loại hình du lịch mới – du lịch homestay.

KẾT LUẬN Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ được tạo dựng phần lớn bằng vật liệu trong nước có sẵn do thiên nhiên ưu đãi, con người lao động khai thác, gia công với tre, gỗ, đá, gạch, ngói… Hệ thống cấu trúc

với vì khung cột gỗ là chủ yếu và phổ biến tuy có phần đơn điệu, ít biến đổi đời này sang đời khác song cũng khá phong phú trong sáng tạo cấu kiện chi tiết và rất vững vàng trước thiên nhiên khắc nghiệt luôn giông tố, bão lụt của khí hậu Việt Nam. Kết cấu bền vững dựa trên cơ sở tính toán và sử dụng hợp lí tính năng vật liệu, bố cục hình dạng và kích thước kiến trúc có cơ sở nghệ thuật và tính khoa học rất khoa học rất rõ ràng để lại những công trình có giá trị cao, tiêu biểu cho từng thời đại lịch sử.

Trải qua nhiều thăng trầm lịch sử và thế kỉ thời gian, kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ tuy cũng có sự tiến triển và chuyển hóa cũng tiến trình xã hội song do sự kìm hãm của thế lực phong kiến cầm quyền nên biến đổi rất nhỏ bé và chậm chạp. Ngày nay các ngôi nhà ở của chúng ta trong điều kiện xã hội kinh tế và kĩ thuật hiện đại đang có những chuyển biến mạnh mẽ để phù hợp với cuộc sống mới. Tìm hiểu ngôi nhà ở dân gian cổ truyền, chứng ta nhằm góp phần khai thác những đặc điểm cốt cách, kinh nghiệm cổ truyền để ngôi nhà ở mới hiện nay vừa có tính hiện đại, tính kiến trúc xã hội chủ nghĩa lại vửa có tính dân tộc phong phú.

Du lịch văn hoá hiện nay trở thành nhu cầu, mục tiêu và xu hướng phát triển du lịch trên thế giới và ở Việt Nam. Mỗi thành tố của loại hình du lịch này cũng đang vươn mình lên để hoà cùng với sự phát triển của du lịch. Kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ cũng không nằm ngoài phạm vi đó.

Kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ có giá trị về văn hóa dân tộc, là nguồn tài nguyên du lịch phong phú. Qua khóa luận người viết đã đề cập tới những giá trị đó và đưa ra những giải pháp bảo tồn và khai thác phát triển du lịch.

Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, nằm gọn trong châu thổ sông Hồng, liền kề với thủ đô Hà Nội. Bắc Ninh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm: tam giác tăng trưởng Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, khu vực có mức tăng trưởng kinh tế cao, giao lưu kinh tế mạnh. Bắc Ninh được gọi là Kinh Bắc mà lịch sử đã để lại những di sản văn hoá truyền thống phong phú về mặt vật thể và phi vật thể với hệ thống thành quách ở thị xã Bắc Ninh, phòng tuyến sông Cầu (sông Như Nguyệt) nổi tiếng thời Lý chống lại các thế lực ngoại bang phương Bắc, hệ thống các đền chùa, miếu mạo ở các vùng Từ Sơn, Bắc Ninh – Thị Cầu, Dâu Keo … và đặc biệt là hát dân ca quan họ nổi tiếng cùng các lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc như hội Lim, Đình Bảng … Bắc Ninh cũng là vùng đất văn hóa, nơi đây còn lưu giữ rất nhiều những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc trong đó có kiến trúc nhà ở truyền thống.

Làng Mái, làng Lim, làng Diềm là những ngôi làng cổ ở Bắc Ninh, tuy số lượng nhà cổ còn lại tương đối ít nhưng đây là những ngôi nhà mang nét đặc trưng của kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ đồng thời tại ba làng này có những điểm hấp dẫn du khách như đình, chùa, miếu cổ cùng làng nghề truyền thống là làm tranh ở làng Mái và loại hình nghệ thuật hát Quan họ ở làng Lim, làng Diềm. Từ đó xây dựng những tour du lịch văn hóa độc đáo thu hút khách du lịch đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Khóa luận: Định hướng khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt.

Tuy nhiên với sự hiểu biết còn hạn hẹp, công tác điều tra nghiên cứu gặp nhiều khó khăn nên khoá luận còn nhiều hạn chế nhất định. Do vậy, người viết rất mong nhận được sự góp ý, phê bình của quý thầy cô và các bạn để khoá luận hoàn thiện hơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Khai thác kiến trúc nhà ở của người Việt

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x