Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại thương mại toàn cầu, khi cạnh tranh thương mại không chỉ nằm gọn trong biên giới khu vực hay một quốc gia nhất định thì pháp luật điều tiết vấn đề cạnh tranh cũng không còn là vấn đề nội bộ của các quốc gia. Vì vậy, quy chế về phòng vệ thương mại đã trở thành một trong những nội dung quan trọng trong khuôn khổ pháp luật về thương mại quốc tế của Tổ chức thương mại thế giới. Pháp luật Việt Nam cũng kịp thời ghi nhận và có các quy định hướng dẫn cách áp dụng các công cụ này để bảo hộ cho hàng hóa và nền sản xuất trong nước trước sự thâm nhập và cạnh tranh ngày một mạnh mẽ của hàng hóa nước ngoài. Cụ thể, pháp lệnh chống bán phá giá, pháp lệnh chống trợ cấp và pháp lệnh tự vệ cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã được ban hành, để trang bị cho các doanh nghiệp Việt Nam thêm một phương tiện hợp pháp trong quá trình tự do hóa thương mại quốc tế, tuy nhiên trên thực tế các văn bản này vẫn chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Trên thực tế, cùng với việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam phải đối mặt với ngày càng nhiều các vụ kiện phòng vệ thương mại khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Dưới hình thức thuế bổ sung, hạn ngạch… các biện pháp phòng vệ thương mại này là những rào cản mang tính bảo hộ đang có nguy cơ gia tăng tại các thị trường xuất khẩu, gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng thị phần xuất khẩu. Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, những vụ kiện do các nước áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại không những không giảm đi mà ngược lại có xu hướng tăng lên rõ rệt. Những vụ kiện này rõ ràng đã gây ra những tác động lớn cho nền kinh tế Việt Nam.Trong khi đó, việc sử dụng công cụ phòng vệ thương mại tại nước nhà lại không thật sự hiệu quả. Do vậy, yêu cầu đặt ra là Nhà nước, các địa phương, Hiệp hội ngành hàng và nhất là bản thân các doanh nghiệp phải tích cực, chủ động đối phó, phải nâng cao hiểu biết pháp luật về phòng vệ thương mại để có thể nâng cao năng lực tự bảo vệ trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế.
Vì vậy, hơn lúc nào hết, việc nghiên cứu đề tài :“Áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” có tính cấp thiết cao. Qua việc nghiên cứu về pháp luật phòng vệ thương mại của WTO, Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam, tác giả đã cố gắng đưa ra những góp ý về mặt pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam, qua đó tạo cơ sở tiền đề cho các doanh nghiệp, Hiệp hội trong nước có thể sử dụng công cụ này một cách hữu ích hơn.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi chuẩn bị cho quá trình đàm phán gia nhập WTO và thực hiện các chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đến nay, tại Việt Nam, liên quan đến đề tài, đã có nhiều công trình nghiên cứu, các đề tài chuyên khảo của các luật gia và tổ chức trong nước. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu đã được Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phát hành, như “Hỏi – đáp Pháp luật về chống bán phá giá – Những điều cần biết”. Đây là cuốn sách đầu tiên tại Việt Nam giới thiệu tương đối đầy đủ những quy định hiện hành của WTO, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu về việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá dưới dạng các câu hỏi và đáp ngắn gọn, cụ thể và thiết thực. Hay “Kiện chống bán phá giá”, “Trợ cấp và thuế chống trợ cấp”, “Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế” và “Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá – chống trợ cấp tại Hoa Kỳ” là những ấn phẩm bổ ích trong việc đem lại những kiến thức cơ bản cho người đọc trong việc tiếp cận các khái niệm chung, các đặc điểm của các biện pháp phòng vệ thương mại. Hội đồng tư vấn về phòng vệ thương mại (Hội đồng TRC) thuộc VCCI cũng đã phát hành nhiều cuốn sách về phòng vệ thương mại, như cuốn “Tranh chấp về chống bán phá giá trong WTO”, “Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá – chống trợ cấp tại Hoa Kỳ”, Cẩm nang kháng kiện chống bán phá giá -chống trợ cấp tại Hoa Kỳ”… cùng với các ấn phẩm khác của Cục Quản lý Cạnh tranh, trực thuộc Bộ Công thương như “Các văn bản pháp luật về Biện pháp bảo đảm thương mại công bằng trong thương mại quốc tế của Việt Nam” và “Hỏi đáp về pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam”là những ấn phẩm đã được xuất bản rộng rãi, là tài liệu quen thuộc với các doanh nghiệp, các đối tượng muốn tìm hiểu về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung. Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới các công trình nghiên cứu, luận văn của các thạc sĩ, luận án của các tiến sĩ cũng về đề tài này. Có thể kể đến luận án tiến sĩ của tiến sỹ Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu và cơ chế thực thi tại Việt Nam, bảo vệ năm 2011 tại trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Hồng Anh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO, các bài học kinh nghiệm của một số nước và khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian tới,…cùng nhiều luận án, luận văn có liên quan hoặc đề cập tới đề tài này. Những kiến thức trên là những kiến thức rất quý báu để tác giả có thể tham khảo, kế thừa nhằm hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài :“Áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay” nhằm đạt được các mục đích sau:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp phòng vệ thương mại đang được pháp luật thương mại thế giới thừa nhận và cho phép áp dụng, cụ thể như: Khái niệm các biện pháp phòng vệ thương mại; các đặc điểm của các biện pháp phòng vệ thương mại và các điều kiện áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại; vai trò, tác dụng của các biện pháp phòng vệ thương mại đối với thương mại hàng hóa và kinh tế quốc tế.
Thứ hai, phân tích, đánh giá khái quát các quy định pháp luật về phòng vệ thương mại tại quốc gia có nền kinh tế phát triển cao và là thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam là Hoa Kỳ, và từ đó so sánh, đối chiếu các quy định của pháp luật phòng vệ thương mại của Việt Nam với các quy định của WTO và Hoa Kỳ.
Thứ ba, trên cơ sở so sánh, đối chiếu pháp luật của Việt Nam với các quy định của Hoa Kỳ và WTO, từ đó nhìn nhận một số hạn chế trong pháp luật nước nhà và đề ra một số giải pháp pháp lý, góp phần đẩy mạnh hiệu quả sử dụng công cụ phòng vệ thương mại tại Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là cơ sở pháp lý của các biện pháp phòng vệ thương mại, thực trạng pháp luật và những vấn đề thực tiễn có ảnh hưởng đến khả năng áp dụng pháp luật về phòng vệ thương mại nhằm góp phần hoàn thiện về mặt lý luận và các quy định của pháp luật về phòng vệ thương mại đối với các hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Việt Nam.
Đề tài pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại là một đề tài sâu và rộng, vì vậy, trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu về các khái niệm pháp lý của các biện pháp phòng vệ thương mại, pháp luật về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ – thị trường xuất khẩu rất lớn của Việt Nam, đây cũng là nơi xảy ra hàng loạt vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, được khởi xướng bởi chính Hoa Kỳ; và cuối cùng là nghiên cứu thực trạng pháp luật về phòng vệ thương mại tại Việt Nam qua ba pháp lệnh chính là Pháp lệnh về chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam 2004, Pháp lệnh về chống trợ cấp 2004 và Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ 2002.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Khóa luận được trình bày trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Nội dung của khóa luận được nêu và phân tích dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật và các tài liệu pháp lý.
Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu lịch sử….
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận tốt nghiệp
Đây là khóa luận nghiên cứu một cách có hệ thống, khá toàn diện về pháp luật phòng vệ thương mại ở Việt Nam hiện nay. Các kiến nghị, kết luận nêu ra trong khóa luận đều là các kiến thức mà tác giả đúc kết trong quá trình nghiên cứu kiến thức từ các luật gia đi trước, đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với cá nhân tác giả.
Về mặt thực tiễn, những nghiên cứu, kết luận và đề xuất hoàn thiện pháp luật còn có ý nghĩa trong việc đóng góp vào công cuộc hoàn thiện pháp luật chống bán phá giá, chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ tại Việt Nam, nâng cao hiệu quả và khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan sử dụng công cụ phòng vệ thương mại như là một phương pháp hữu ích, một chiếc van an toàn nhằm bảo vệ nền kinh tế nước nhà.
7. Kết cấu của khoá luận Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Kết cấu của khóa luận dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu. Khóa luận bao gồm ba chương:
- Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật phòng vệ thương mại
- Chương II: Thực trạng pháp luật về các biện pháp phòng vệ thương mại tại Việt Nam
- Chương III: Đề xuất và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về áp dụng biện pháp phòng về thương mại ở Việt Nam.
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Nguyên tắc Tối huệ quốc ( Most Favour Nation treatment) và Đối xử Quốc gia (National Treatment)
Dựa trên những nguyên tắc cốt lõi của WTO, các quốc gia đều không được phân biệt bạn hàng thương mại của mình. Nếu dành ưu đãi đặc biệt cho một quốc gia nào đó (ví dụ như tỷ suất thuế thấp đối với một loại sản phẩm) thì cũng phải dành ưu đãi đó cho mọi thành viên khác trong WTO mà không cần bất cứ sự thoả thuận thêm nào. Chính vì vậy, nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc và Đãi ngộ Quốc gia không chỉ có ý nghĩa đối với việc đảm bảo một chính sách thương mại đa biên bình đẳng, mà còn giảm thiểu được các chi phí trong đàm phán thương mại.
Đãi ngộ Tối huệ quốc là một nguyên tắc cơ bản của WTO, được nêu trong Điều I – Hiệp định GATT, điều II – Hiệp định GATS và điều IV – Hiệp định TRIPS. Theo nguyên tắc MFN, WTO yêu cầu một nước thành viên phải áp dụng thuế quan và các quy định khác đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành viên khác nhau (hoặc hàng hoá xuất khẩu tới các nước thành viên khác nhau) một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử. Điều đó có nghĩa là nếu một nước thành viên dành cho sản phẩm từ bất kỳ nước thành viên nào mức thuế quan hay bất kỳ một ưu đãi nào khác thì cũng phải dành mức thuế quan hoặc ưu đãi đó cho sản phẩm tương tự của tất cả các quốc gia thành viên khác một cách ngay lập tức và vô điều kiện. WTO cũng cho phép các nước thành viên được duy trì một số ngoại lệ của nguyên tắc này.[23, tr 4]
Trong khi nguyên tắc MFN yêu cầu một nước thành viên không được phép áp dụng đối xử phân biệt giữa các nước thành viên thì nguyên tắc NT yêu cầu một nước phải đối xử bình đẳng và công bằng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản xuất trong nước. Nguyên tắc này quy định rằng, bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau khi đã qua biên giới (đã trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu) sẽ được hưởng sự đối xử không kém ưu đãi hơn sản phẩm tương tự sản xuất trong nước. [23,tr 5] Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
MFN và NT là 2 nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của hệ thống thương mại quốc tế và đều có chung bản chất là sự không phân biệt đối xử, hay nói cách khác là đối xử bình đẳng. Nguyên tắc này được thể hiện rất rõ nét thông qua các Hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế-thương mại khu vực cũng như trong các hiệp định thương mại song phương. Ở nước ta, với chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại, Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì vậy, các nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế đang dần dần được nghiên cứu và áp dụng.
Theo cách tiếp cận của Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH10 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế, đối xử tối huệ quốc trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu có xuất xứ từ một nước so với hàng hoá tương tự nhập khẩu có xuất xứ từ nước thứ ba hoặc hàng hoá xuất khẩu đến một nước so với hàng hoá tương tự xuất khẩu đến nước thứ ba. Theo khái niệm này, nguyên tắc cơ bản khi áp dụng MFN chính là không phân biệt đối xử đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nhiều nước khác nhau. Phạm vi áp dụng MFN không chỉ đơn thuần nằm trong lĩnh vực thuế, các loại phí và các khoản thu khác đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu hoặc liên quan đến hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu mà còn bao gồm cả phương thức thanh toán, việc chuyển tiền thanh toán, các quy định và thủ tục liên quan đến xuất nhập khẩu, thuế và các loại phí thu trực tiếp hoặc gián tiếp trong nước đối với hàng hoá nhập khẩu, chính sách hạn chế định lượng…
Song song với đối xử MFN, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế quy định các nguyên tắc áp dụng đối xử quốc gia, theo đó đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá tương tự trong nước. Theo khái niệm này, Việt Nam không thể thực hiện các phân biệt đối xử giữa hàng hóa nhập khẩu và hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp sản xuất trong nước. Nói cách khác đối xử quốc gia là việc áp dụng các chính sách, quy định ưu đãi thể hiện bằng luật pháp và cơ bản bằng thuế đối với doanh nghiệp, công dân của quốc gia khác ngang bằng với các ưu đãi dành cho doanh nghiệp, công dân của quốc gia mình.
Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia cũng khẳng định Nhà nước Việt Nam áp dụng Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi. Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng đưa ra các ngoại lệ để từ đó có thể xây dựng và áp dụng các biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước khi cần thiết. Tất nhiên, việc áp dụng các ngoại lệ này phải đảm bảo phù hợp với các chuẩn mực trong thương mại quốc tế, tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo tính công bằng, có đi có lại và bình đẳng giữa các bên.
1.1.2. Khái niệm về phòng vệ thương mại Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại khi hàng rào thuế quan trên thế giới đang chịu sức ép cắt giảm, các nước bắt đầu chú ý nhiều tới các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Dù tồn tại nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc tế, biện pháp phòng vệ có thể được gói gọn lại là tất cả các biện pháp được Chính phủ của một quốc gia sử dụng nhằm hạn chế các dòng mậu dịch giữa lãnh thổ nước này với lãnh thổ nước khác. Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này đều được áp dụng nhằm mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời điểm hiện tại, nói đến các biện pháp phòng vệ có thể nhắc đến các biện pháp liên chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Phòng vệ thương mại theo đó được hiểu là những biện pháp nhằm ngăn chặn, hạn chế (áp thuế bổ sung, quy định hạn ngạch…) được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu từ nước này sang nước kia, được nước nhập khẩu áp dụng sau một quá trình điều tra mà kết quả hội đủ ba điều kiện: (i) Có hiện tượng bán phá giá hoặc bán hàng có trợ cấp hoặc nhập khẩu ồ ạt; (ii) ngành sản xuất nội địa của nước nhập khẩu chứng minh được thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi bán phá giá, bán hàng trợ cấp hay nhập khẩu ồ ạt tới ngành hàng sản xuất trong nước của nước nhập khẩu. Hoạt động này được WTO cho phép các nước nhập khẩu sử dụng để chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ các nước xuất khẩu. Tuy nhiên, cần phân biệt rõ, không phải là WTO áp dụng các biện pháp này mà là bản thân các nước nhập khẩu có quyền áp dụng các biện pháp phòng vệ vì đây là mối quan hệ giữa các nước xuất khẩu với nước nhập khẩu.[7, tr 9]
Được sử dụng để “đối phó” với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình thức, việc áp dụng biện pháp phòng vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là những biện pháp được thừa nhận trong khuôn khổ WTO (với các điều kiện chặt chẽ để tránh bị lạm dụng). Lý do là trong hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại là một hình thức “van an toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn. Với việc được công nhận và hợp thức hóa trong các Hiệp định của WTO, các biện pháp phòng vệ thương mại đang ngày càng được áp dụng một cách có hiệu quả cho các quốc gia thành viên sử dụng để tạo ra một sân chơi thương mại bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Hơn nữa, các biện pháp phòng vệ thương mại còn có tác dụng tích cực trong việc khuyến khích tự do hóa thương mại phát triển và góp phần thúc đẩy xây dựng một nền kinh tế quốc tế phát triển ổn định, lành mạnh hơn.
1.2. Cơ sở pháp lý của công cụ phòng vệ thương mại Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Nghĩa vụ MFN và NT là hai nghĩa vụ cơ bản mà các nước thành viên của WTO phải tuân thủ. Đồng thời nó cũng là nghĩa vụ bắt buộc trong các Hiệp định thương mại song phương, các thoả thuận thương mại khu vực.Tuy nhiên, song song với các quy định ràng buộc về nghĩa vụ MFN các hiệp định thương mại song phương, đa phương hay các thỏa thuận khu vực cũng cho phép áp dụng các trường hợp ngoại lệ.
Khi áp dụng MFN và NT cần đáp ứng yêu cầu cơ bản về bình đẳng, tự do cạnh tranh với các bên tham gia và phải phù hợp với các chuẩn mực trong thương mại quốc tế. Điều đáng lưu ý ở đây là cùng với việc áp dụng MFN và NT, sức ép cạnh tranh do luồng hàng hóa nhập khẩu gây ra đối với ngành sản xuất trong nước chắc chắn sẽ gia tăng. Thực tiễn trong thương mại quốc tế cho thấy, nguy cơ chịu thiệt hại của ngành sản xuất trong nước sau khi thực hiện các cam kết MFN và NT là rất cao. Chính vì vậy, song song với việc cam kết và thực hiện các cam kết MFN và NT, cần cân nhắc sử dụng triệt để các trường hợp ngoại lệ của MFN để giảm thiểu thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại mà luồng hàng hóa nhập khẩu có thể gây ra cho ngành sản xuất trong nước.
1.3. Một số biện pháp phòng vệ thương mại phổ biến
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp phòng vệ thương mại chính đáng được hiểu như các công cụ áp dụng nhằm mục đích bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu trong một giai đoạn nhất định trước sự xâm nhập và cạnh tranh không công bằng của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Các biện pháp này nhìn chung bao gồm các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống trợ cấp.
1.3.1. Biện pháp chống bán phá giá
Bán phá giá được xem là hiện tượng xuất hiện khá sớm trong thực tiễn thương mại quốc tế. Mặc dù còn có những quan điểm khác nhau, song pháp luật các nước đều coi đây là một trong những hành vi thương mại không lành mạnh.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về bán phá giá, dưới góc độ học thuật, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu được hiểu ngắn gọn là bán hàng ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa. Ví dụ Từ điển kinh tế học hiện đại cho rằng bán phá giá (dumping) được hiểu là việc bán một hàng hoá ở nước ngoài với mức giá thấp hơn so với mức giá ở thị trường trong nước. [10, tr 282]; Theo Từ điển chính sách thương mại: phá giá được hiểu là thực tiễn bán hàng của một công ty với giá bán ra nước ngoài thấp hơn giá bán tại thị trường trong nước (giá nội địa của nước xuất khẩu) [11, tr 82]; cuốn Black’s Law dictionary định nghĩa phá giá là hành vi bán hàng hoá ra nước ngoài với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa [12, tr 518]. Theo cách hiểu này, bán phá giá hàng hóa nhập khẩu là sự phân biệt giá của cùng loại sản phẩm tiêu thụ trên thị trường nước xuất khẩu và tiêu thụ trên thị trường nước nhập khẩu. Do đó, để xác định việc bán phá giá, người ta phải tính toán được giá xuất khẩu và giá bán trên thị trường xuất khẩu của hàng hóa (còn gọi là giá nội địa).
Điều 2.1 của Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 (Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO) quy định như sau: Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Trong phạm vi Hiệp định này, một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường…”. [13, Điều 2.1]
Quy định trên đây đã thể hiện rõ ràng rằng việc bán phá giá trong thương mại quốc tế có yếu tố cơ bản đó là sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, cho dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu), có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán của sản phẩm nhập khẩu còn cao hơn giá của sản phẩm tương tự hiện đang được bán tại thị trường nước nhập khẩu. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hóa xuất khẩu được bán sang một nước khác (nước nhập khẩu) với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu).
Khoản 2, Điều 2, Pháp lệnh 20/2004 có quy định: “Biên độ phá giá là khoảng cách chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt Nam”, tại đây điều luật không định nghĩa một cách trực tiếp khái niệm bán phá giá, nhưng việc xác định biên độ phá giá thông qua sự so sánh giữa giá thông thường (giá bán sản phẩm tương tự tại thị trường nước nhập khẩu là chủ yếu) với giá xuất khẩu sản phẩm đó vào Việt Nam cho chúng ta thấy bán phá giá là hiện tượng khi giá xuất khẩu một hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam thấp hơn giá thông thường của hàng hóa đó.
Một cách khái quát nhất thì bán phá giá trong thương mại quốc tế, là việc một sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được bán tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông thường. Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Các quy định của WTO không quy định cấm hành vi bán phá giá, nhưng áp đặt nghĩa vụ cho các thành viên WTO và điều chỉnh hành vi bán phá giá của các thành viên WTO. Do việc bán phá giá có thể gây thiệt hại cho ngành kinh tế nội địa của nước nhập khẩu, nên hành vi đó “bị lên án”[14, Điều VI]. Do đó, Chính phủ nhiều nước cho rằng họ cần phải có hành động chống lại hành vi đó nhằm bảo vệ ngành công nghiệp trong nước mà thông thường là thông qua việc đánh thuế chống bán phá giá để bù đắp những thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra.Để có thể áp thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bán phá giá thì nước nhập khẩu phải chứng minh được một cách rõ ràng các vấn đề: (i) có việc bán phá giá; (ii) có thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá và thiệt hại. [15, tr.93] Để xác định những vấn đề này, các quốc gia phải tiến hành các hoạt động theo quy định của pháp luật của quốc gia mình trên những cơ sở không trái với các quy định của WTO về chống bán phá giá. Như vậy, chống bán phá giá trong thương mại quốc tế là biện pháp hợp pháp được các quốc gia thừa nhận.
1.3.2. Biện pháp chống trợ cấp
Trong đời sống thường ngày, trợ cấp được hiểu đơn giản là hành vi mà một chủ thể có năng lực tài chính hỗ trợ cho chủ thể khác một khoản giá trị vật chất nhất định nhằm giúp bên được trợ cấp khắc phục những khó khăn về tài chính.
Thực tế đời sống xã hội hiện nay đã tồn tại nhiều trường hợp trợ cấp với những mục đích khác nhau, chẳng hạn như trợ cấp y tế, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp giáo dục… Trong các trợ cấp nói trên, có thể thấy rằng người được trợ cấp thường là bên cần có tiền để trang trải các chi phí y tế, giáo dục, ổn định đời sống… và bên trợ cấp thường là Nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân có năng lực tài chính.
Trong hệ thống pháp luật thương mại quốc tế, theo quy định của WTO, trợ cấp được hiểu là bất kỳ hỗ trợ tài chính nào của Nhà nước hoặc một tổ chức công (trung ương hoặc địa phương) dưới một trong các hình thức sau mang lại lợi ích cho doanh nghiệp/ngành sản xuất:
- Một là, hỗ trợ trực tiếp bằng tiền chuyển ngay (ví dụ cấp vốn, cho vay, góp cổ phần) hoặc hứa chuyển (ví dụ bảo lãnh cho các khoản vay);
- Hai là, miễn hoặc cho qua những khoản thu lẽ ra phải đóng (ví dụ ưu đãi thuế, tín dụng);
- Ba là, mua hàng, cung cấp các dịch vụ hoặc hàng hóa (trừ cơ sở hạ tầng chung);
- Bốn là, thanh toán tiền cho một nhà tài trợ hoặc giao cho một đơn vị tư nhân tiến hành các hoạt động nêu trên theo cách thức mà Chính phủ vẫn làm.
Để xác định giới hạn mức độ trợ cấp cũng như tính pháp lý của các hành vi trợ cấp trong thương mại quốc tế, Hiệp định SCM chia trợ cấp thành 3 dạng dựa trên mức độ ảnh hưởng đến thương mại của chúng : Trợ cấp đèn đỏ, trợ cấp đèn xanh và trợ cấp đèn vàng.[16, trang 7] Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Thứ nhất là trợ cấp bị cấm (hay còn gọi là trợ cấp đèn đỏ) là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm áp dụng, bao gồm: (i) trợ cấp xuất khẩu là trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn mức mà sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu… và (ii) trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng hóa nội địa so với hàng nhập khẩu.
Thứ hai là trợ cấp không bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ cấp đèn xanh) là hình thức các nước thành viên có thể áp dụng mà không bị các thành viên khác khiếu kiện, bao gồm: (i) trợ cấp không cá biệt là các loại trợ cấp không hướng tới một ngành, một nhóm doanh nghiệp, một khu vực địa lý cụ thể nào, hay nói cách khác tiêu chí để được hưởng trợ cấp loại này là khách quan, không do cơ quan có thẩm quyền một cách tùy tiện, không xem xét và không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng cho bất kỳ đối tượng nào; và (ii) các trợ cấp như: trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty tổ chức nghiên cứu tiến hành, trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp), trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi trường kinh doanh mới.
Thứ ba là trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (hay còn gọi là trợ cấp đèn vàng) bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh nêu trên). Các nước thành viên có thể sử dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất các sản phẩm tương tự của nước khác thì có thể bị kiện ra WTO.
Trợ cấp hàng hóa nhập khẩu, dù dưới bất kỳ hình thức nào cũng luôn có tác động tiêu cực tới thị trường của nước nhập khẩu vì nó phá vỡ môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm nội địa. Kết quả là, loại trợ cấp này sẽ gây thiệt hại cho doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước với sản phẩm tương tự được trợ cấp xuất khẩu.
Do vậy, WTO cho phép nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp để chống lại việc trợ cấp hàng hóa nhập khẩu nhằm hạn chế và khắc phục thiệt hại do trợ cấp hàng hóa nhập khẩu gây ra. Các biện pháp mà nước nhập khẩu dùng để chống lại hành vi trợ cấp đối với hàng hóa nhập khẩu được gọi là các biện pháp chống trợ cấp (còn được gọi là các biện pháp đối kháng – countervailing measures).
Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu là các biện pháp mà WTO cho phép Chính phủ nước nhập khẩu áp dụng nhằm chống lại các tác động tiêu cực do có sự trợ cấp của Chính phủ nước ngoài đối với hàng hóa gây ra cho thị trường nhập khẩu với mục đích đảm bảo công bằng trong thương mại, qua đó bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong nước.
Chống trợ cấp là một biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất trong nước trước các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu có sự trợ cấp của chính phủ nước ngoài. Nó nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm vào Chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp. Mục đích của biện pháp chống trợ cấp được áp dụng nhằm loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu.
1.3.3. Biện pháp tự vệ Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Các biện pháp tự vệ nguyên nghĩa của nó là các công cụ điều tiết thương mại mang tính khẩn cấp, tạm thời được đề cập và được biết đến lần đầu tiên một cách chính thức từ GATT 1947. Trong đó, biện pháp tự vệ còn được hiểu là ” các quy định mang tính phòng vệ khẩn cấp”. Tự vệ trong thương mại quốc tế nói chung là các biện pháp mang tính chất tạm thời như tăng thuế nhập khẩu hoặc hạn chế về số lượng hoặc hạn ngạch thuế quan, được một quốc gia đặt ra một cách rõ ràng và cụ thể nhằm chặn đứng hoặc làm chậm dòng hàng hoá nhập khẩu vào thị trường nội địa để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nhà cung cấp trong nước so với các nhà cung cấp nước ngoài.
Các biện pháp tự vệ được phân biệt với các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp ở đối tượng mà nó điều chỉnh. Trong khi, việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp chủ yếu xuất phát từ yếu tố cạnh tranh thiếu lành mạnh, thì việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể dựa trên bất cứ sự cạnh trạnh nào xảy ra mà kết quả của nó gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đến một ngành sản xuất trong nước nhất định.
Mỗi nước nhập khẩu là thành viên WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng; và
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.
Các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội địa điều chỉnh; biện pháp tự vệ không được kéo dài quá 4 năm (tính cả thời gian áp dụng biện pháp tạm thời) và phải giảm dần theo định kỳ sau năm đầu tiên áp dụng. Trường hợp biện pháp được áp dụng trên 3 năm thì phải được xem xét lại vào giữa kỳ để cân nhắc khả năng chấm dứt hoặc giảm mức áp dụng mạnh hơn nữa. Biện pháp tự vệ có thể gia hạn biện pháp tự vệ nhưng tổng cộng thời gian áp dụng và gia hạn không được quá 8 năm. Tuy nhiên, WTO có quy định đối với các nước đang phát triển như Việt Nam có thể kéo dài thời hạn áp dụng thêm 2 năm, tức là các nước đang phát triển như Việt Nam có quyền áp dụng biện pháp tự vệ với thời hạn không quá 10 năm.[17, tr.3]
1.4. Tính chất, mục đích của công cụ phòng vệ thương mại Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại.
Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng để đối phó với hành cạnh tranh không lành mạnh. Thuế chống bán phá giá là biện pháp chống bán phá giá được sử dụng phổ biến nhất, được áp dụng đối với sản phẩm bị điều tra và bị kết luận là phá giá vào nước nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất nước đó. Thực tế, thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung (ngoài thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài nhập khẩu là đối tượng của quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
Tương tự như biện pháp chống bán phá giá, biện pháp chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong khi biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp thì biện pháp chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Thuế chống trợ cấp (hay còn gọi là thuế đối kháng) là cũng là khoản thuế bổ sung, ngoài thuế nhập khẩu thông thường đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào nước nhập khẩu. Đây có thể được xem là biện pháp nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài bị trợ cấp, chứ không nhằm vào chính phủ nước ngoài thực hiện việc trợ cấp.
Khác với hai biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, biện pháp tự vệ thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong trường hợp khẩn cấp nhằm hạn chế những thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất trong nước do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Như vậy, biện pháp tự vệ có thể được áp dụng kể cả khi các đối tác thương mại thực hiện hoạt động kinh doanh chính đáng, không có tình trạng cạnh tranh không công bằng, nên về hình thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại tự do hóa thương mại. Tuy vậy, biện pháp tự vệ vẫn là biện pháp được thừa nhận trong WTO, với các điều kiện áp dụng chặt chẽ nhằm tránh việc các quốc gia thành viên lạm dụng công cụ này. Vì vậy, đây được coi là một biện pháp mà chính phủ các quốc gia có thể sử dụng để bảo vệ ngành sản xuất nội địa trong ngắn hạn.
1.5. Pháp luật về phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ
1.5.1. Khái quát chung về phòng vệ thương mại trong pháp luật Hoa Kỳ
Về bản chất, các biện pháp phòng vệ thương mại là các công cụ được phép của nước nhập khẩu áp dụng nhằm hạn chế sự cạnh tranh về hàng hóa từ các công ty nước ngoài để bảo vệ lợi ích cho ngành công nghiệp nội địa. Do đó, pháp luật Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại được soạn thảo cũng với mục đích hỗ trợ ngành sản xuất nội địa của Hoa Kỳ để đảm bảo ngành sản xuất trong nước được hưởng lợi từ các biện pháp đó. Đây được xem như là một công cụ hiệu quả của Hoa Kỳ trong sự cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài, xuất phát từ đặc điểm và tính chất bảo hộ của các biện pháp này.
Nhìn chung, pháp luật Hoa Kỳ có nhiều điểm bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu nước ngoài. Pháp luật về chống bán phá giá nói riêng và phòng vệ thương mại nói chung của Hoa Kỳ có từ những năm đầu thế kỷ XX, cụ thể là năm 1916, sau đó được định hình rõ ràng trong Luật thuế quan năm 1930 và từ đó đến nay tiếp tục được bổ sung thêm trở thành một hệ thống hoàn chỉnh các quy định kỹ thuật phức tạp, tinh vi theo hướng bảo vệ tối đa quyền lợi của các nhà sản xuất nội địa.[25] Có thể dễ dàng nhận thấy các Hiệp định trong WTO vẫn thể hiện một phần quan trọng quan điểm của Hoa Kỳ và do đó, hệ thống pháp luật phòng vệ thương mại “mang tính bảo hộ” của Hoa Kỳ vẫn tiếp tục được duy trì đến nay. Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp chống trợ cấp áp dụng nhằm chống lại hiện tượng bán hàng hóa nước ngoài được trợ cấp của Chính phủ nước xuất khẩu vào Hoa Kỳ gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự nội địa Hoa Kỳ. Biện pháp phòng vệ được áp dụng trong trường hợp cần bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước hiện tượng hàng hóa nhập khẩu tăng đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành này.
Ngoài các biện pháp phòng vệ nêu trên, Hoa Kỳ còn quy định nhiều biện pháp phòng vệ thương mại khác áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài vào Hoa Kỳ (ví dụ Biện pháp về sở hữu trí tuệ quy định tại Chương 337 -Bộ Luật Tổng hợp USC của Hoa Kỳ; Biện pháp về tiếp cận thị trường quy định tại Chương 301, Biện pháp hạn chế thương mại vì lý do an ninh tại Chương 232…). Tuy nhiên, tần suất sử dụng các biện pháp thuộc nhóm chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ là thường xuyên và rộng rãi nhất. [18, tr.16]
1.5.2. Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ theo pháp luật Hoa Kỳ
1.5.2.1. Chống bán phá giá theo pháp luật của Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng nhằm chống lại hiện tượng hàng hóa nước ngoài được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu hoặc nước thứ ba gây thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất “sản phẩm tương tự” nội địa Hoa Kỳ. [25]. Pháp luật về chống bán phá giá của Hoa Kỳ quy định về các vấn đề trình tự, thủ tục, nội dung của quá trình điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tại Hoa Kỳ và các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động này. Hiện nay, các vấn đề về chống bán phá giá được quy định trong các văn bản sau đây: Luật chống bán phá giá 1916; Luật Thuế quan 1930; Các Phần 1671-1677n, Mục 19 Bộ luật Hoa Kỳ (US Federal Code); Các Phần 351.101-702 Mục 19 Bộ quy định Hoa Kỳ (US Federal Regulation) và các Phần 207.1-120 Mục 19 Bộ luật Quy định Hoa Kỳ. [19, tr 80]
Về thủ tục, một vụ điều tra chống bán phá giá tại Hoa Kỳ được tiến hành theo các giai đoạn sau đây: (i) Đơn kiện được nộp; (ii) Khởi xướng điều tra; (iii) Điều tra sơ bộ về thiệt hại; (iv) Điều tra sơ bộ về việc bán phá giá; (v) Điều tra cuối cùng về bán phá giá; (vi) Điều tra cuối cùng về thiệt hại; (vii) Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá; (viii) Rà soát hành chính hàng năm; (ix) Rà soát hoàng hôn. [19, tr 82-84] Không phải tất cả các vụ điều tra đều đi hết các giai đoạn nói trên. Theo pháp luật cũng như trong thực tiễn thì ở mọi giai đoạn của vụ việc đều có những khả năng để chấm dứt vụ điều tra. Pháp luật Hoa Kỳ quy định thời hạn tối đa cho từng hoạt động cụ thể trong mỗi giai đoạn của vụ điều tra chống bán phá giá. Trong thực tế, các thời hạn này có thể thay đổi tùy thuộc vào tính chất và hoàn cảnh khách quan của từng vụ việc cũng như khả năng chủ quan của cơ quan điều tra (trong giới hạn mà pháp luật cho phép). Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
- Nộp đơn kiện
Một vụ kiện chống bán phá giá bắt đầu bằng việc nộp đơn khởi kiện nhân danh “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ”. Ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ được định nghĩa bao gồm:
- Một là, các nhà sản xuất hoặc kinh doanh một loại sản phẩm nội địa giống hệt với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra;
- Hai là, hiệp hội các nhà sản xuất hoặc kinh doanh loại sản phẩm đó;
- Và ba là, công đoàn hoặc nhóm công nhân làm việc trong ngành công nghiệp nội địa đó.
Đơn khởi kiện phải được sự ủng hộ của các nhà sản xuất Hoa Kỳ có sản lượng vừa đồng thời chiếm tối thiểu 25% tổng sản lượng trong nước, vừa chiếm trên 50% tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp Hoa Kỳ lên tiếng nhân danh “ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ” (ủng hộ hoặc phản đối vụ kiện). Khi thụ lí vụ kiện, trước hết các cơ quan giải quyết vụ kiện sẽ xem nội dung đơn khởi kiện có bao gồm những thông tin cần thiết và được ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ ủng hộ hay không. [26, page. I-7]
Theo pháp luật Hoa Kỳ, một vụ điều tra chống bán phá giá có thể được tiến hành trên cơ sở đơn kiện của một bên “liên quan” hoặc theo quyết định của Bộ Thương mại (Department of Commerce – DOC) mà không cần đơn kiện của ngành sản xuất nội địa. Đơn kiện được nộp đồng thời cho cả DOC và Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (International Trade Commission – ITC). Bên bị kiện trong vụ kiện chống bán phá giá bao gồm: tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu mặt hàng bị kiện sang Hoa Kỳ; hiệp hội mà phần lớn các thành viên là các nhà sản xuất, xuất khẩu mặt hàng bị kiện và Chính phủ nước xuất khẩu bị kiện. Trong vòng 20 ngày (có thể được gia hạn), DOC sẽ tiến hành xem xét các vấn đề ban đầu của đơn kiện để quyết định có chấp nhận đơn kiện và khởi xướng điều tra chống bán phá giá hay không. Việc xem xét “tiền tố tụng” của DOC đối với đơn kiện trong giai đoạn này chủ yếu tập trung vào hai vấn đề cơ bản: tính đầy đủ của đơn kiện (đây là yếu tố xem xét bắt buộc) và tư cách khởi kiện của nguyên đơn (chỉ xem xét khi có đơn khiếu nại về vấn đề này của bị đơn).
- Khởi xướng điều tra Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
ITC và DOC sẽ bắt đầu điều tra trong vòng 20 ngày sau khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện bằng việc xem xét đơn khởi kiện có hội đủ các điều kiện luật định hay không.
Giai đoạn điều tra của ITC và DOC là khác nhau. Đối với ITC là 3 năm trước thời điểm đơn kiện được nộp, và khi cần thiết ITC vẫn có thể yêu cầu các bên cung cấp thông tin dự đoán cho 2 năm tiếp theo kể từ thời điểm nộp đơn kiện. Trong khi DOC chỉ quan tâm đến thông tin và dữ liệu của 4 quý tài khóa trước và gần ngày nộp đơn khởi kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế thị trường, hoặc 2 quý tài khóa trước và gần ngày nộp đơn kiện nhất – áp dụng đối với những nước có nền kinh tế phi thị trường. [26, page. II-3, II-4 ]
- Điều tra sơ bộ về thiệt hại
Điều tra sơ bộ trong vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp ở Hoa Kỳ bao gồm 02 hoạt động riêng rẽ: điều tra sơ bộ về thiệt hại do ITC tiến hành và điều tra sơ bộ về bán phá giá do DOC tiến hành.Các kết luận này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp tục hoặc chấm dứt vụ điều tra. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày Đơn kiện được nộp, ITC sẽ phải ra kết luận sơ bộ về thiệt hại mà ngành sản xuất sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ phải chịu từ việc nhập khẩu mặt hàng bị kiện. Thời hạn ngày này là cố định, không có gia hạn. Nếu ITC ra quyết định sơ bộ khẳng định có thiệt hại thì vụ điều tra được tiếp tục. Ngược lại nếu ITC ra quyết định sơ bộ phủ định việc có thiệt hại thì vụ điều tra chấm dứt ngay lập tức ở cả DOC và ITC. Thủ tục điều tra sơ bộ về thiệt hại của ITC tương đối đơn giản. Sau đơn kiện khoảng một tuần, ITC sẽ thông báo lịch trình cho việc điều tra sơ bộ về thiệt hại trên Công báo Liên bang.Trong thời hạn 160 ngày kể từ ngày có đơn kiện, DOC sẽ tiến hành điều tra sơ bộ để xác định hàng hóa nhập khẩu có bị bán phá giá hay không. Trường hợp vụ kiện đặc biệt phức tạp hoặc nếu nguyên đơn có yêu cầu thì các thời hạn này có thể kéo dài đến 210 ngày. Thủ tục điều tra của DOC trong quá trình này bao gồm:(i) DOC gửi Bảng câu hỏi điều tra chi tiết tới các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài liên quan;(ii) Các nhà sản xuất, xuất khẩu nước ngoài trả lời Bảng câu hỏi điều tra trong khoảng 30 ngày (45 ngày nếu được gia hạn) sau khi nhận được Bảng câu hỏi điều tra;(iii) Dựa trên Bảng câu hỏi đã được trả lời, DOC sẽ tiến hành gửi các câu hỏi bổ sung, nếu có;(iv) DOC có quyền tiến hành thẩm tra thực địa (tại nhà máy của các doanh nghiệp) để xác minh các thông tin được khai trong bản trả lời Bảng câu hỏi (tuy nhiên trên thực tế DOC hầu như không thực hiện việc thẩm tra thực địa trong giai đoạn này mà chủ yếu trong giai đoạn điều tra cuối cùng). [26, page. II-5 – page II-7 ]
- Điều tra sơ bộ về bán phá giá Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Quy trình điều tra sơ bộ về bán phá giá được DOC thực thi qua ba giai đoạn, bao gồm:
Thứ nhất, do quyết định sơ bộ được đưa ra trên cơ sở giả định rằng các thông tin và dữ liệu do bên bị đơn cung cấp là xác thực, DOC cần tiến hành thẩm tra để khẳng định tính xác thực này trước khi công bố Quyết định cuối cùng về tình trạng phá giá. DOC cử chuyên viên kỹ thuật đến cơ sở sản xuất và kinh doanh của các bị đơn bắt buộc ở nước sở tại nhằm thẩm tra tại chỗ.
Thứ hai, sau khi thẩm tra tại chỗ, các chuyên viên kỹ thuật của DOC lập “Báo cáo thẩm tra”, trong đó nhận định những thông tin và dữ liệu mà các bị đơn cáo buộc đã báo cáo trong giai đoạn điều tra sơ bộ của DOC.
Thứ ba, trên cơ sở Báo cáo thẩm tra, DOC đưa ra “Quyết định cuối cùng” (thông thường trong vòng 215 ngày sau khi DOC bắt đầu điều tra hoặc tối đa 275 ngày trong trường hợp phức tạp), trong đó xác định biên phá giá của các nhà xuất khẩu và kết luận về nhiều vấn đề khác nhau, như trường hợp nhập khẩu khẩn cấp và thuế suất riêng biệt.
- Điều tra cuối cùng về bán phá giá
Sau phiên điều tra trần, ITC đưa ra quyết định cuối cùng kết luận về sự tổn hại của ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ (thông thường trong vòng 260 ngày sau khi có đơn khởi kiện hoặc khoảng 45 ngày sau khi quyết định cuối cùng của DOC trong trường hợp phức tạp).
- Điều tra cuối cùng về thiệt hại
Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại phức tạp và lâu hơn thủ tục điều tra sơ bộ. Thủ tục điều tra cuối cùng về thiệt hại của ITC bao gồm các hoạt động: thu thập thông tin về thiệt hại, đánh giá các thông tin thu thập được (báo cáo trước phiên điều trần, lập luận trước phiên điều trần, phiên điều trần, lập luận sau phiên điều trần, báo cáo cuối cùng của ITC, bình luận về các số liệu, ủy viên ITC bỏ phiếu). Thời hạn để ITC hoàn tất việc điều tra cuối cùng về thiệt hại phụ thuộc vào kết luận sơ bộ của DOC. Theo đó, nếu DOC ra kết luận sơ bộ phủ định về việc bán phá giá nhưng sau đó lại kết luận cuối cùng khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC ra kết luận cuối cùng về thiệt hại là 75 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối cùng. Nếu DOC ra kết luận sơ bộ khẳng định có bán phá giá thì thời hạn để ITC ra kết luận cuối cùng về thiệt hại là thời điểm muộn hơn trong hai thời điểm: (i) 120 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận sơ bộ, và (ii) 45 ngày kể từ ngày DOC ra kết luận cuối cùng. Nếu các thời hạn để DOC ban hành kết luận sơ bộ và/hoặc cuối cùng được gia hạn thì thời hạn ITC ra kết luận cuối cùng cũng được gia hạn tương ứng. Như vậy là khoảng 280-420 ngày kể từ ngày có đơn kiện ITC sẽ ra kết luận cuối cùng về thiệt hại trong vụ việc. [26, page. II-13][19, tr 105-108]
- Quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Nếu quyết định cuối cùng của ITC khẳng định dấu hiệu có tổn hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây tổn hại nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa Hoa Kỳ, thì DOC sẽ ban hành lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá và giao cho cơ quan hải quan thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá (thông thường khoảng 1-2 tuần sau Quyết định cuối cùng của ITC). Lệnh áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ chính thức được thực hiện sau khi được công bố trên Công báo Liên Bang (Federal Register). [26, page. II-6
Sau khi DOC có kết luận cuối cùng khẳng định có hiện tượng hàng nhập khẩu bán phá giá và ITC có kết luận cuối cùng khẳng định có thiệt hại và mối quan hệ nhân quả thì Bộ trưởng DOC sẽ ra lệnh áp thuế chống bán phá giá và công bố lệnh này trên Công báo liên bang. DOC cũng đồng thời gửi thông báo cho Cục Hải quan Hoa Kỳ với các hướng dẫn cụ thể cho cơ quan này trong thủ tục đối với hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của lệnh áp thuế. Tiền thuế chính thức (cho phép thông quan chính thức) cho các lô hàng này sẽ chỉ được xác định trong tương lai (căn cứ vào các rà soát hành chính hàng năm).Hoa Kỳ áp dụng phương pháp hồi tố trong việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Theo đó, các mức thuế được nêu trong Lệnh áp thuế chống bán phá giá chỉ là tạm thời, được sử dụng làm căn cứ để tính mức ký quỹ cho các lô hàng nhập khẩu liên quan sau thời điểm có lệnh áp thuế; mức thuế chính thức sẽ được xác định bởi quá trình rà soát hành chính thực hiện mỗi năm sau đó.
- Rà soát hành chính hàng năm
Rà soát hành chính, vì thế, là quá trình tính toán biên độ bán phá giá thực tế trong năm để xác định mức thuế chính thức của năm đó. Thủ tục rà soát hành chính gần giống với điều tra ban đầu về phá giá. Rà soát hành chính chỉ là điều tra về biên độ phá giá, không bao gồm điều tra về thiệt hại như trong điều tra ban đầu. Kết quả rà soát hành chính sẽ là mức thuế chính thức cho năm liền trước rà soát. Kết quả này cũng là mức thuế tạm thời áp dụng cho năm liền sau rà soát này. Các rà soát hành chính cứ tiến hành như vậy cho đến khi lệnh áp thuế được áp dụng hết 5 năm. [19, tr 122-125]
- Rà soát hoàng hôn
Kết thúc giai đoạn rà soát hành chính hàng năm, DOC và ITC sẽ tiến hành rà soát cuối kỳ (còn gọi là rà soát hoàng hôn) để xem xét có tiếp tục lệnh áp thuế thêm năm nữa hay chấm dứt thuế. Nếu cả DOC và ITC sau quá trình rà soát hoàng hôn mà đi đến kết luận rằng việc chấm dứt biện pháp chống bán phá giá sẽ dẫn tới hiện tượng tiếp diễn hoặc tái diễn tình trạng phá giá và thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ thì biện pháp chống bán phá giá sẽ tiếp tục có hiệu lực thêm 5 năm nữa (và sau 5 năm đó quy trình rà soát hoàng hôn này sẽ lặp lại tương tự). Nếu một trong hai hoặc cả hai cơ quan (DOC hoặc ITC) kết luận phủ định (rằng việc bán phá giá và/hoặc thiệt hại sẽ không tiếp tục hoặc tái diễn sau khi chấm dứt biện pháp chống bán phá giá) thì biện pháp này sẽ chính thức chấm dứt (chấm dứt hoàn toàn vụ việc). [19, trg 126-127]
1.5.2.2. Biện pháp chống trợ cấp theo pháp luật Hoa Kỳ Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Điều tra chống trợ cấp về cơ bản được thực hiện theo trình tự, thủ tục tương tự với điều tra chống bán phá giá. Cụ thể, cả hai biện pháp này đều gồm có các bước sau: (i) Khởi xướng điều tra, (ii) Xác định thiệt hại sơ bộ, (iii) Trả lời bảng câu hỏi,
Quyết định sơ bộ của Bộ Thương mại, (v) Xác minh, (vi) Những lập luận pháp lý sau khi xác minh, (vii) Kết luận cuối cùng của Bộ Thương mại, (viii) Lệnh áp đặt thuế, (ix) Rà soát của Tòa án, và (x) Rà soát hành chính. Trong các bước thủ tục này, một vài điểm là cố định, không thể thay đổi trong khi có một số điểm lại rất linh hoạt. Dưới đây, sẽ trình bày rõ hơn những khác biệt của thủ tục, trình tự điều tra chống trợ cấp so với điều tra chống bán phá giá.[18, tr137]
Thời hạn trong vụ điều tra trợ cấp cụ thể như sau:
Khác với điều tra chống bán phá giá, ngay cả khi quyết định khởi xướng điều tra, việc điều tra sẽ không được tiến hành tự động đối với tất cả các chương trình trợ cấp bị cáo buộc trong Đơn kiện. Trên thực tế, đối với từng chương trình trợ cấp bị cáo buộc, DOC sẽ xem xét: (i) có đủ bằng chứng để xác định đó là một hình thức trợ cấp hay không; hoặc (ii) chương trình trợ cấp đó có thực sự đến với doanh nghiệp hay không. Nếu không có đủ bằng chứng về các vấn đề nói trên đối với một chương trình bị cáo buộc là trợ cấp, DOC sẽ không tiến hành khởi xướng điều tra đối với chương trình đó.
Việc điều tra chống trợ cấp được thực hiện với hai nội dung, bao gồm: điều tra về trợ cấp và biên độ trợ cấp do DOC tiến hành và điều tra về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả do ITC tiến hành. Điều tra về thiệt hại gây ra đối với ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ và mối quan hệ của nó với việc nhập khẩu hàng hóa nước ngoài bị điều tra do ITC thực hiện có nội dung tương tự như phương pháp điều tra mà ITC tiến hành trong điều tra chống bán phá giá. Điều tra về trợ cấp và biên độ trợ cấp do DOC thực hiện sử dụng các phương pháp có rất nhiều khác biệt trong tính toán trong khi vẫn sử dụng các phương pháp thu thập và xác minh thông tin như điều tra chống bán phá giá.[18, tr 141]
Theo pháp luật Hoa Kỳ (phù hợp với quy định của WTO ghi nhận trong SCM), một chương trình bị xem là “trợ cấp có thể đối kháng”phải có đầy đủ ba yếu tố sau: (i) Yếu tố đóng góp tài chính – có sự đóng góp tài chính của Nhà nước hoặc một chủ thể công; (ii) Yếu tố lợi ích – sự đóng góp tài chính đó phải mang lại một lợi ích cho người nhận; (iii) Yếu tố riêng biệt – sự đóng góp tài chính đó phải được thực hiện cho một doanh nghiệp, một nhóm doanh nghiệp hoặc một ngành, một khu vực cụ thể chứ không phải là trợ cấp chung cho tất cả các đối tượng.[18, tr 142]
Trong quy trình điều tra chống trợ cấp, bên cạnh việc gửi Bảng câu hỏi đến các bên liên quan, DOC còn bắt buộc phải gửi Bảng câu hỏi điều tra về trợ cấp đến Chính phủ nước xuất khẩu bị điều tra. Vì vậy, kết quả điều tra không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của doanh nghiệp trong việc chứng minh mà còn phụ thuộc vào hành động của Chính phủ nước xuất khẩu cũng như các cơ quan liên quan đến chương trình trợ cấp bị cáo buộc. Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Cũng giống như trường hợp áp dụng biện pháp chống bán phá giá, trong điều tra chống trợ cấp, DOC sẽ tiến hành tính toán biên độ trợ cấp để từ đó xác định mức thuế chống trợ cấp tương ứng. DOC sẽ tính toán biên độ trợ cấp theo từng chương trình trợ cấp cụ thể bằng cách chia giá trị phần lợi ích mà chương trình trợ cấp đó mang lại trong khoảng thời gian điều tra cho trị giá của các lô hàng được xem là nhận trợ cấp trong khoảng thời gian đó.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, không phải mọi trợ cấp (ở tất cả các mức độ) đều bị trừng phạt bằng thuế chống trợ cấp. Thuế chống trợ cấp chỉ được sử dụng để đáp trả và khắc phục thiệt hại do hành vi trợ cấp ở mức đáng kể, được xác định là từ 1% giá trị xuất khẩu của sản phẩm được trợ cấp trở lên đối với trường hợp nước xuất khẩu là nước phát triển (2% nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển). Biên độ trợ cấp dưới 1% được gọi là biên độ trợ cấp không đáng kể và khi đó doanh nghiệp bị đơn này sẽ không phải nộp thuế. Phương pháp điều tra về thiệt hại và mối quan hệ nhân quả của ITC trong vụ điều tra chống bán phá giá và điều tra chống trợ cấp là tương tự nhau. Cụ thể, nếu nước xuất khẩu là nước đang phát triển và có lượng nhập khẩu sản phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hóa tương tự vào Hoa Kỳ thì vụ điều tra sẽ chấm dứt đối với nước xuất khẩu đó. Tuy nhiên, quy định này sẽ không được áp dụng nếu tổng lượng nhập khẩu từ tất cả các nước xuất khẩu có hoàn cảnh tương tự chiếm trên 9% tổng lượng nhập khẩu hàng hóa tương tự vào nước nhập khẩu (tỷ lệ này trong điều tra chống bán phá giá tương ứng là 3% và 9%). Tương tự như trong điều tra chống bán phá giá, trong điều tra chống trợ cấp, biện pháp chống trợ cấp có thể là một “thỏa thuận đình chỉ” thay vì áp dụng thuế chống trợ cấp, và có thể là: thỏa thuận ngừng xuất khẩu, thỏa thuận loại bỏ trợ cấp, thỏa thuận loại bỏ thiệt hại từ việc trợ cấp.Việc đề xuất, chấp thuận và kết quả của thỏa thuận đình chỉ trong điều tra chống trợ cấp cũng tương tự như trong điều tra chống bán phá giá và chỉ khác ở các thời hạn. [18, tr 150]
Nếu nội dung thỏa thuận đình chỉ là ngừng xuất khẩu hoặc loại bỏ trợ cấp, DOC sẽ chấm dứt việc đình chỉ thông quan đã thực hiện trước khi có thỏa thuận và sẽ ra quyết định hoàn trả tất cả các khoản đặt cọc hay ký quỹ đã thu của doanh nghiệp bị đơn liên quan.
Nếu nội dung của thỏa thuận đình chỉ là điều chỉnh để loại bỏ thiệt hại, DOC sẽ tiếp tục việc đình chỉ thông quan (nếu trước đó chưa có lệnh đình chỉ thông quan thì nay DOC sẽ ra lệnh đình chỉ thông quan) cho đến ít nhất 20 ngày (thời hạn để các bên có liên quan nêu yêu cầu rà soát về thiệt hại với ITC). Nếu ITC quyết định tiến hành rà soát xem thỏa thuận có thực sự loại trừ được thiệt hại gây ra do việc bán phá giá không thì lệnh đình chỉ thông quan sẽ còn kéo dài trong suốt quá trình ITC rà soát (75 ngày). Nếu ITC kết luận rằng thỏa thuận đình chỉ trên thực tế có thể loại bỏ thiệt hại thì lúc này lệnh đình chỉ thông quan mới hết hiệu lực và các khoản ký quỹ, đặt cọc sẽ được hoàn trả. [18, tr 152]
1.5.2.3. Biện pháp tự vệ Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Theo quy định của pháp luật Hoa kỳ, biện pháp tự vệ được áp dụng trong trường hợp cần bảo vệ ngành sản xuất nội địa Hoa Kỳ trước hiện tượng hàng hóa nhập khẩu tăng đột biến gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành này. Do đó, nếu điều tra kết luận hàng nhập khẩu gia tăng gây ra những thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa, Chính phủ Hoa Kỳ có thể áp dụng rất nhiều các biện pháp hạn chế khác nhau như thuế quan, hay kết hợp các biện pháp này.Về cơ bản, thủ tục điều tra tự vệ cũng gần tương tự với nhóm các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp, tuy nhiên hệ quả của biện pháp tự vệ hoàn toàn khác biệt. Cụ thể, biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp là “biện pháp trừng phạt” một chiều đối với nhà xuất khẩu có hành vi thương mại không công bằng (chủ yếu thông qua việc bị áp dụng các mức thuế bổ sung khi nhập khẩu mặt hàng liên quan vào Hoa Kỳ) mà Hoa Kỳ có thể thực hiện mà không mất gì thì biện pháp tự vệ lại không phải biện pháp “miễn phí” như vậy: việc xuất khẩu vào Hoa Kỳ của nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài bị hạn chế (bằng các biện pháp như cấm nhập khẩu, áp dụng hạn ngạch, thuế bổ sung… đối với sản phẩm liên quan) đồng thời Hoa Kỳ cũng phải bồi thường cho nước xuất khẩu (bằng cách giảm thuế cho các mặt hàng khác với trị giá thương mại tương tự). Ngoài ra, khác biệt về tính chất này cũng tạo ra những khác nhau trong điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ so với điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp (ví dụ thiệt hại phải là nghiêm trọng, việc áp dụng biện pháp tự vệ phải chịu nhiều hạn chế về thời gian và mức độ…). Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ cũng khác so với nhóm các biện pháp chống bán phá giá và chống trợ cấp. Cụ thể, thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ là bốn năm, có thể gia hạn một lần không quá hai năm và có các yêu cầu bắt buộc về rút ngắn thời gian áp dụng.
Pháp luật tự vệ của Hoa Kỳ về cơ bản được xây dựng dựa trên các quy định về tự vệ của WTO (cụ thể là Hiệp định về Tự vệ của WTO -SA). Theo đó, cơ quan có thẩm quyền trong áp dụng tự vệ tại Hoa Kỳ là Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (ITC) với nhiệm vụ tiến hành điều tra tự vệ, đề xuất biện pháp áp dụng lên Tổng thống. Tổng thống là người có quyền quyết định cuối cùng có tiến hành điều tra hay không, quyết định về hình thức và thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ tạm thời/chính thức.
Thời hạn điều tra biện pháp tự vệ được quy định cụ thể như sau. Khởi xướng điều tra trong thời hạn 120 kể từ ngày nhận được đơn kiện (180 ngày trong trường hợp nghiêm trọng), trong trường hợp cực kỳ phức tạp là 150 ngày kể từ ngày nộp đơn kiện (210 ngày trong trường hợp nghiêm trọng). Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời trong trường hợp nghiêm trọng là 90 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, thời hạn báo cáo kết quả điều tra của ITC là 180 ngày (240 ngày trong trường hợp nghiêm trọng). Hành động thích hợp và khả thi để bảo vệ ngành sản xuất trong nước là 60 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo trên (50 ngày nếu đã áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời). Hành động này sẽ có hiệu lực trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tổng thống tuyên bố hành động đó (90 ngày nếu Tổng thống thấy cần phải đàm phán thêm). Trong thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ, nguyên đơn phải nộp một bản kế hoạch điều chỉnh lên ITC và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ trong vòng 120 ngày kể từ ngày nộp đơn kiện. Các thông tin liên quan đến vụ kiện sẽ được đăng trên Công báo liên bang (Federal Register).[27]
Kết luận chương 1 Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Trào lưu của thương mại quốc tế hiện đại là tự do hóa thương mại, theo đó, các quốc gia thường phải cam kết gỡ bỏ những rào cản thương mại để hàng hóa có thể lưu thông một cách tối đa qua biên giới các nước. Các biện pháp bảo hộ thương mại truyền thống như việc áp dụng thuế nhập khẩu ngày càng bị coi là không hợp pháp và bị hạn chế áp dụng. Tuy nhiên, song song với tinh thần tự do hóa thương mại luôn luôn tồn tại một nhu cầu chính đáng được công nhận của các quốc gia, đó là, nhu cầu bảo hộ ngành sản xuất trong nước trước những rủi ro đe dọa tiềm tàng từ hàng hóa nhập khẩu. Chính vì vậy, pháp luật thương mại quốc tế đương đại vẫn cho phép áp dụng một số biện pháp phòng vệ thương mại, được hiểu là những biện pháp phi thuế quan mà các quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng một cách hợp pháp trong những trường hợp hàng hóa nhập khẩu vào nước mình có những diễn biến bất thường có thể gây thiệt hại tới ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu đó. Ngoài biện pháp chống bán phá giá, pháp luật thương mại quốc tế đương đại còn công nhận và cho phép các quốc gia áp dụng hai biện pháp phòng vệ thương mại khác, đó là, chống trợ cấp và biện pháp tự vệ thương mại. Khóa luận: Áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại theo pháp luật.
Những vấn đề, kiến thức được nghiên cứu trong Chương 1 của khoá luận tốt nghiệp này sẽ được coi là nền tảng, tiền đề để tác giả tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại tại Chương II, qua đó đưa ra những đánh giá, so sánh khi đối chiếu với pháp luật WTO và pháp luật về phòng vệ thương mại tại Hoa Kỳ.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Thực trạng pháp luật biện pháp phòng vệ thương mại