Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Tổng quan về Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Tên Công ty:  Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thương mại ICC.

Tên tiếng anh: Investment and Commercial Construction Joint Stock Company.

Tên viết tắt: ICC

Địa chỉ: Phòng 312, Tầng 3, Tòa nhà DG Tower, số 15 Trần Phú, phường lương Khánh Thiện, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Điện thoại: 031.3652273. Fax: 031.3652272.

Email: icchaiphong@gmail.com.

Mã số thuế: 0200101855.

Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thương mại tiền thân là Công trường Xây dựng quận Lê Chân, được thành lập từ năm 1976.

Ngày 08/12/1992 đổi tên thành Công ty Vật liệu và Xây lắp Thương nghiệp Hải Phòng theo Quyết định số 1419/QĐ-TCCQ của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.

Ngày 10/7/1995 đổi tên Công ty Vật liệu và Xây lắp Thương nghiệp thành Công ty Vật liệu và Xây lắp Thương mại thành theo Quyết định số 1152/QĐ-TCCQ của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.

Ngày 28/02/2010 chuyển đổi Công ty Vật liệu và Xây lắp Thương mại thành Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thương mại thành Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC theo Quyết định số 434/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phốthành phố Hải Phòng. Đăng ký kinh doanh số 0203002191 do Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp đổi lần thứ 11 ngày 27/5/2010.

Đặc điểm sản xuất kinh doanh

Trong cùng một thời gian, Công ty thường triển khai xây dựng nhiều hợp đồng khác nhau, trên các địa điểm khác nhau nhằm hoàn thành yêu cầu của chủ đầu tư theo hợp đồng đã kí kết. Với năng lực hiện có để thực hiện đồng thời nhiều hợp đồng xây dựng khác nhau, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thương mại ICC đã tổ chức lực lượng sản xuất thành các ban chỉ đạo công trình, đội công trình, điều này giúp Công ty tăng cường tính năng động linh hoạt và gọn nhẹ về mặt trang bị tài sản cố định, tận dụng tối đa lực lượng lao động tại chỗ và góp phần giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Bên cạnh đó, đặc điểm của sản phẩm xây dựng cũng như quy trình công nghệ nêu trên cũng ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức sản xuất và quản lý của công ty, làm cho công ty cũng có nhiều điểm khác so với các ngành sản xuất khác (điều này được thể hiện rõ nét qua cơ chế giao khoán của đơn vị). Nội dung là các công trình và hạng mục công trình mà công ty nhận thầu thi công đều được thực hiện theo cơ chế giao khoán toàn bộ chi phí thông qua hợp đồng giao khoán giữa công ty và các ban chỉ đạo công trình.

Những khối lượng công việc có khối lượng riêng và đặc thù riêng sẽ có tỷ lệ giao khoán riêng thông qua từng hợp đồng giao khoán.

Các đơn vị nhận khoán phải tổ chức thi công, chủ động cung ứng vật tư, nhân lực thi công, đảm bảo tiến độ chất lượng kĩ thuật, an toàn lao động và phải tính đến các chi phí cần thiết cho việc bảo hành và luân chuyển chứng từ nhằm đảm bảo phản ánh chính xác, khách quan, đầy đủ, kịp thời mọi hoạt động kinh tế phát sinh. Cuối quý, phải kiểm kê khối lượng công việc dở dang. Đơn vị phải lập kế hoạch hàng tháng, quý, năm về nhân công, vật tư, phương tiện thi công và báo cáo về công ty.

Đặc điểm sản phẩm: Sản phẩm kinh doanh của công ty đều là sản phẩm xây dựng và có những đặc điểm sau:

  • Sản phẩm mang nhiều tính cá biệt, đa dạng về công dụng, cấu tạo nên sản phẩm. Sản phẩm phụ thuộc vào tính chất của từng dự án, từng công trình, điều kiện địa lý, địa chất công trình nơi xây dựng…
  • Sản phẩm là những công trình được xây dựng và sử dụng tại chỗ. Vốn đầu tư xây dựng lớn, thời gian kiến tạo và thời gian sử dụng lâu dài.

Do đó, khi tiến hành xây dựng phải có sự đầu tư, nghiên cứu về tiến độ thi công, chất lượng, kết quả kinh doanh của công trình; tính khả của dự án.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:   

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Quản Trị Kinh Doanh

2.1.2. Tổ chức bộ máy quản lý của ICC Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Bộ máy quản lý của Công ty được chia thành các phòng chức năng, bố trí theo sơ đồ hỗn hợp trực tuyến. Sau đây là bộ máy tổ chức quản lý của Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây lắp Thương mại ICC:

  • Đại hội đồng cổ đông
  • Hội đồng Quản trị
  • Tổng Giám đốc
  • Ban Kiểm soát
  • Các phó Tổng Giám đốc
  • Kế toán trưởng

Đại hội đồng cổ đông:

Là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty.

Hội đồng Quản trị Công ty là cơ quan cao nhất của Công ty giữa hai kỳ đại hội đồng cổ đông quyết định phương án sản xuất kinh doanh, phương án tổ chức bộ máy Công ty, cơ chế quản lý của Công ty để thực hiện nghị quyết của Đại hội đồng Cổ đông Công ty.

Ban kiểm soát:

Là người đại diện cho cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và điều hành Công ty.

Công ty được điều hành bởi Tổng Giám đốc và các Phó Tổng Giám đốc do Hội đồng Quản trị bổ nhiệm và các phòng ban giúp việc theo phương án tổ chức được Hội đồng Quản trị phê duyệt.

Chủ tịch Hội đồng Quản trị: là người chịu trách nhiệm chung về tổ chức hoạt động của Hội đồng Quản trị và có các quyền hạn và nhiệm vụ theo quy chế và điều lệ của Công ty và pháp luật.

Tổng Giám đốc: Là người điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty, trực tiếp phụ trách công tác tài chính kế toán, tổ chức, sản xuất kinh doanh của Công ty và là người đại diện phát luật của Công ty.

Phó Tổng giám đốc: Các Phó Tổng giám đốc phụ trách chuyên trách từng hoạt động của Công ty: Tài chính, dự án, kinh doanh, đầu tư…

Các phòng Ban công ty: Trực tiếp thực hiện các công việc được phân công của từng phòng ban trong Công ty.

2.1.3. Khái quát  về kết quả HĐKD của Công ty giai đoạn 2013 – 2017

Trong giai đoạn 2013 – 2017, Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, cụ thể được trình bày trong bảng 2.1.

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Qua bảng các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của Công ty trong giai đoạn 2013 – 2017 cho thấy, hoạt động kinh doanh của Công ty ngày một tăng trưởng, doanh thu tăng bình quân 19%/năm, tuy nhiên chi phí của doanh nghiệp tăng với tốc độ cao hơn (trung bình 21%/năm) nên lợi nhuận tăng bình quân của Công ty chỉ tăng bình quân 12%/năm, đời sống cán bộ công nhân viện được cải thiện với mức thu nhập tăng bình quân 17%/năm. Thế mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây của là lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản; đây là hướng đi, hướng phát triển phù hợp của Công ty nên Công ty cần tập trung và đầu tư vốn cho lĩnh vực này.

2.2. Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại ICC

2.2.1 Thực trạng hiệu suất hoạt động Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

2.2.1.1 Thực trạng hiệu suất sử dụng vốn cố định

Hiệu suất sử dụng vốn cố định của ICC không ổn định và có xu hướng giảm trong 2 năm cuối 2016- 2017.

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Năm 2014 hiệu suất sử dụng vốn cố định của ICC là 1,41 vòng, tăng 0,14 vòng so với năm 2013  tuy nhiên vẫn thấp hơn năm 2015 (năm 2015 đạt 1,46 vòng). Năm 2016 và 2017 chỉ số này của ICC chỉ còn 1,16 và 1,17 vòng. Việc giảm hiệu suất sử dụng VCĐ đã làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và HQKD nói chung của ICC.

Nguyên nhân chính là do ICC không ngừng đẩy mạnh đầu tư tài sản cố định nhằm tăng quy mô kinh doanh làm tăng doanh thu. Tuy nhiên, doanh thu tăng chậm hơn tốc độ tăng của TSDH nên hiệu suất sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp giảm.

2.2.1.2 Thực trạng hiệu suất sử dụng vốn lưu động

Số vòng quay vốn lưu động

Hiệu suất sử dụng VLĐ hoàn toàn có xu hướng tăng trong giai đoạn 2013-2017. Năm 2014 là 1,13 vòng, tăng 0,11 vòng so với năm 2014, nhưng năm 2017 chỉ tiêu này đã đạt 1,92 vòng. ICC có vốn lưu động trung bình chiếm từ 33%- 56% tổng vốn kinh doanh, do đó việc tăng hiệu suất sử dụng VLĐ đã làm tăng hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và HQKD nói chung của ICC.

Chỉ tiêu số ngày một vòng quay vốn lưu động

Số ngày một vòng quay VLĐ của ICC giảm với sự tăng lên của số vòng quay VLĐ. Năm 2014 một vòng quay vốn lưu động cần 357 ngày thì đến năm 2017 giảm xuống còn 190 ngày. Sự suy giảm của số ngày luân chuyển VLĐ cho thấy khả năng chuyển hoá VLĐ của ICC trong những năm qua đã được cải thiện.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Như vậy, xét cả giai đoạn 2013- 2017, hiệu suất sử dụng của VCĐ có xu hướng giảm trong khi hiệu suất sử dụng VLĐ có xu hướng tăng khá nhanh.

Do đó hiệu suất sử dụng VLĐ sẽ có tác động tích cực đến hiệu suất sử dụng tổng vốn, là yếu tố góp phần làm tăng HQKD cho ICC.

Để đánh giá chi tiết về hiệu suất sử dụng VLĐ có thể xem xét hiệu suất sử dụng của 3 loại vốn chủ yếu cấu thành nên VLĐ đó là: vốn bằng tiền, hàng tồn kho và các khoản phải thu ngắn hạn.

2.2.1.3 Thực trạng tốc độ quay vòng tiền Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Trong giai đoạn 2013- 2017, thị trường BĐS bắt đầu ấm lên kéo theo thị trường xây dựng có dấu hiệu phục hồi, doanh thu của ICC tăng kéo theo lượng dự trữ tiền mặt đáp ứng nhu cầu giao dịch bằng tiền và thanh toán các khoản nợ tới hạn tăng. Tuy nhiên, tốc độ tăng của doanh thu thuần chậm hơn nhiều so với tốc độ tăng của vốn bằng tiền đã làm giảm vòng quay tiền.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Qua biểu đồ 2.2 cho thấy số vòng quay tiền của ICC có xu hướng giảm mạnh trong giai đoạn từ năm 2013 đến 2017. Cụ thể, năm 2014 tiền của ICC quay được 633 vòng/năm (tăng 47 vòng so với năm 2013) nhưng đến năm 2017 chỉ còn 83 vòng/năm. Như vậy, tốc độ luôn chuyển vốn bằng tiền của ICC ngày càng chậm đã làm ảnh hưởng không tốt đến tốc độ quay vòng của vốn lưu động nói riêng và toàn bộ vốn của doanh nghiệp nói chung.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Như vậy, có thể đánh giá việc quản lý vốn bằng tiền của chưa thật sự hiệu quả và có xu hướng ngày càng kém đi. Đây là biểu hiện không tốt, ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán cũng như khả năng sinh lời của doanh nghiệp.

Hiện nay, việc quản lý tiền tại ICC bước đầu đã được quan tâm nhưng việc dự báo dòng tiền chủ yếu được lập cho các dự án cụ thể. Công tác lập dự báo dòng tiền trong ngắn hạn một cách thường xuyên và liên tục còn chưa được quan tâm đúng mực và mức độ dự báo còn thiếu chính xác. Tại ICC, công tác dự báo dòng tiền thu vào-chi ra trên cơ sở các hợp đồng được ký kết, về đầu tư tài sản và huy động vốn trong kỳ, cộng với chính sách thanh quyết toán hạng mục công trình với các nhà thầu nhỏ hơn, với khách hàng và các bên khác liên quan. Bên cạnh đó, việc xác định mức tồn quỹ tối thiểu và mức tồn quỹ tối ưu cũng chưa được ICC quan tâm xây dựng. Xác định dự trữ lượng tồn quỹ tối thiểu chính xác đảm bảo khả năng thanh toán tức thời, tạo ra sự an toàn trong thanh toán. Xác định lượng dự trữ tồn quỹ tối ưu đảm bảo tiết kiệm chi phí, tăng khả năng sinh lời vốn bằng tiền. Việc xác định mức tồn quỹ tại ICC được xác định trong ngắn hạn và chủ yếu dựa trên kế hoạch chi tiêu cũng như kinh nghiệm quản lý. Điều này dẫn đến tình trạng chưa chủ động trong việc xử lý lượng tiền thừa, thiếu trong từng thời điểm nhất định, làm giảm khả năng thanh toán cũng như tăng chi phí của doanh nghiệp.

Mặc dù trên lý thuyết, đã có một số mô hình xác định ngân quỹ tối ưu như Baumol, Miller-Orr hay Bernell Stone. Song hiện nay, ICC chưa áp dụng các mô hình này một cách đầy đủ và hiệu quả.

2.2.1.4 Thực trạng tốc độ quay vòng hàng tồn kho

Số vòng quay hàng tồn kho có xu hướng tăng chậm trong giai đoạn 2013 –2016, sau đó tăng mạnh trong năm 2017.

Năm 2013 có số vòng quay hàng tồn kho thấp nhất là 1,96 vòng/năm, năm 2014 số vòng quay hàng tồn kho tăng lên 2,12 vòng/năm cao hơn cả năm 2015 (2,07 vòng/năm). Năm 2016 chỉ số này là 2,8 vòng/năm thì năm 2017 tăng lên 4,09 vòng/năm. Nguyên nhân chính bởi hàng tồn kho có xu hướng giảm trong khi giá vốn có xu hướng tăng.

Nguồn: Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Hàng tồn kho của ICC chủ yếu là nguyên vật liệu và chi phí sản xuất kinh doanh dở dang hoặc các dự án hoàn thành nhưng chưa thể nghiệm thu hoặc chưa bán được. Do đặc thù ngành xây dựng, sản phẩm là các công trình, dự án nên thời gian thi công thường dài, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang rất lớn luôn là thách thức lớn đối với ICC.

2.2.1.5 Thực trạng tốc độ quay vòng các khoản phải thu ngắn hạn

Đánh giá hiệu quả sử dụng các khoản phải thu ngắn hạn của doanh nghiệp chúng ta dựa vào hai chỉ tiêu là: số vòng quay các khoản phải thu ngắn hạn và kỳ thu tiền bình quân. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Số vòng quay các khoản phải thu ngắn hạn

Trong giai đoạn 5 năm 2013-2017, tốc độ quay vòng các khoản phải thu ngắn hạn của ICC có xu hướng tăng (năm 2013 là 1,81 vòng/năm, 2014 là 2,03 vòng/năm, 2015 là 3,0 vòng/năm, 2016 là 3,26 vòng/năm đến năm 2017 đạt 3,36 vòng/năm). Như vậy, trong giai đoạn này, tốc độ quay vòng các khoản phải thu ngắn hạn tăng làm tăng HQKD của ICC.

Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân

Kỳ thu tiền bình quân của ICC giảm do sự gia tăng của số vòng quay các khoản phải thu, năm 2013 trung bình là 201 ngày đến năm 2014 tăng là 180 ngày/vòng. Tuy nhiên đến năm 2015 chỉ tiêu này của ICC chỉ còn 122 ngày/vòng, thậm chí đến năm 2016 -2017 chỉ còn lại tương ứng là 112 và 108 ngày/vòng. Điều này cho thấy nếu như năm 2013 bình quân để thu hồi KPT ngắn hạn thì ICC cần 201 ngày tới năm 2014 cũng để thu hồi các KPT ngắn hạn ICC mất tới 180 ngày. Thậm chí trong năm 2016 – 2017 ICC chỉ cần hơn 3 tháng đã thu được tiền. Đây được coi là kết quả đáng khích lệ của Công ty, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Để đạt được kết quả này, ICC đã sử dụng kế toán thu hồi nợ chuyên nghiệp. Việc đốc thúc và theo dõi, đòi nợ được giao cho nhân viên kế toán chuyên theo dõi các khoản phải thu. Công nợ của doanh nghiệp được theo dõi bằng phần hành kế toán phải thu trong phần mềm đồng thời theo dõi chi tiết trên các mẫu biểu tự thiết kế trên excel. Theo đó, công nợ được sắp xếp chi tiết theo từng khoản mục phát sinh theo tuổi nợ (thời gian thu hồi nợ), theo khách hàng và theo cả dự án.Việc đối chiếu công nợ được thực hiện thường xuyên định kỳ theo tháng, quý và kết thúc năm. Đặc biệt, thời điểm kết thúc năm tài khóa, công nợ được đối chiếu độc lập thông qua yêu cầu xác nhận công nợ. Tuy nhiên việc thu hồi công nợ của ICC vẫn mang tính hình thức, ngoài việc gọi điện nhắc nhở, gửi văn bản, đốc thúc ít khi trực tiếp gặp mặt, cũng chưa áp dụng các biện pháp mạnh hơn để thu hồi công nợ. Đặc biệt, trong giai đoạn khó khăn hiện nay việc trì hoãn trả nợ của khách hàng là không tránh khỏi, có nhiều khách hàng khó khăn về tài chính thực thụ nhưng cũng có khách hàng cố không trả nợ đúng hạn.

Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động

Để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của ICC có thể sử dụng 3 chỉ tiêu: (1)Hệ số sử dụng lao động; (2)Mức sinh lời/lao động và (3)Doanh thu bình quân một lao động.

Hệ số sử dụng lao động: Trong giai đoạn 2013 – 2017; hệ số sử dụng lao đông của ICC có xu hướng tăng, trung bình đạt mức 1,29 lần. Điều này cho thấy, hiện nay ICC đang bị thiếu nhân lực khá trầm trọng, trung bình 29%/năm, đặc biệt là cán bộ quản lý cấp cao và lao động lành nghề. Hệ quả của hiện trạng này dẫn đến ICC liên tục phải thuê lao động thời vụ, số lượng và chất lượng lao động không ổn định nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ cũng như chất lượng công trình.

Mức sinh lời của lao động tại ICC khá thấp nhưng có xu hướng ngày càng được cải thiện. Trong giai đoạn 2013 – 2017 trung bình một lao động sử dụng trong doanh nghiệp sẽ tạo ra 132 triệu đồng lợi nhuận/năm. Như vậy chi phí lương cho người lao động chiếm khoảng 70% mức sinh lời của lao động.

Doanh thu bình quân của lao động khá cao và có xu hướng được cai thiện. Trong giai đoạn 2013 – 2017 trung bình một lao động sử dụng trong doanh nghiệp sẽ tạo ra 1.570 triệu đồng doanh thu/năm. Đây là một trong những nhân tố góp phần làm tăng HQKD của ICC.

2.2.2 Thực trạng hiệu quả kinh doanh tổng quát của ICC

2.2.2.1 Thực trạng hiệu suất hoạt động tổng quát của ICC Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Sau khi nghiên cứu hiệu quả kinh doanh của ICC dưới góc độ từng thành phần là hiệu quả sử dụng vốn cố định, hiệu quả sử dụng vốn lưu động (tiền, hàng tồn kho, công nợ phải thu) thì một trong những nội dung quan trọng cần phải nghiên cứu đó là đánh giá hiệu quả kinh doanh một cách tổng quát mà ICC đã đạt được.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Số vòng quay tổng vốn kinh doanh của ICC tăng nhẹ trong 3 năm đầu và giảm nhẹ trong 2016 nhưng lại tăng lên trong năm 2017. Năm 2013 số vòng quay tổng vốn kinh doanh đạt 0,57 vòng, đến năm 2014 tăng lên 0,59 vòng và đạt 0,58 vòng vào năm 2015. Tuy nhiên năm 2016 chỉ tiêu này đạt 0,65 vòng và tăng lên 0,71 vòng vào năm 2017. Điều này chứng tỏ tốc độ luân chuyển vốn của ICC mặc dù đã được cải thiện nhưng còn khá chậm, khả năng tạo ra doanh thu thuần từ mỗi đồng vốn đầu tư thấp. ICC chưa khai thác triệt để năng lực sản xuất của tài sản, tốc độ tăng doanh thu chưa theo kịp tốc độ đầu tư tài sản làm số đồng doanh thu trên một đồng tài sản tuy có xu hướng tăng nhưng còn khá thấp ảnh hưởng không nhỏ tới HQKD của Công ty.

Thực trạng này xuất phát từ những lý do sau:

  • Thứ nhất, ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế đã tác động tiêu cực đến các DNXD nói chung và ICC nói riêng.
  • Thứ hai, ICC hiện nay đang sử dụng máy móc thiết bị cũ kỹ và công nghệ lạc hậu, khả năng đổi mới công nghệ còn hạn chế.

Xét theo các yếu tố đầu vào trong chuỗi giá trị ngành xây dựng thì chi phí máy xây dựng chiếm từ 10- 20% giá thành của một công trình xây dựng. Trong đó, 76% là máy xúc đào, 19% là xe lu còn 5% là máy ủi. Tuy nhiên hiện nay tại ICC chủ yếu là máy móc cũ, máy móc đã qua sử dụng.

Thực tế tình hình ứng dụng các công nghệ xây dựng mới của ICC còn nhiều hạn chế, trong khi đó các công nghệ xây dựng mới giúp tiết kiệm chi phí xây dựng, phần hành công việc và rút ngắn đáng kể thời gian thi công. Các công nghệ mới trong lĩnh vực nền móng như: công nghệ cố kết chân không, công nghệ Top- Down có thể tiết kiệm 30% chi phí và thời gian thực hiện, công nghệ Top- Based có thể tiết kiệm 30- 50% chi phí và thời gian.

Ứng dụng công nghệ mới trong lĩnh vực xây thô như sàn bóng, dự ứng lực, nhà thép tiền chế giảm thời gian và chi phí trong lĩnh vực xây dựng dân dụng còn hạn chế. Nguyên nhân chính của thực trạng này là khả năng tài chính của ICC còn chưa mạnh và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng đòi hỏi của công nghệ hiện đại.

Như vậy, sử dụng máy móc cũ kỹ, lạc hậu và chậm đổi mới công nghệ, trang thiết bị là một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu suất hoạt động tài sản, làm tăng chi phí, không đảm bảo chất lượng sản phẩm thấp làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh doanh của ICC.

2.2.2.2 Thực trạng khả năng sinh lời tổng quát Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Để đánh giá khả năng sinh lời tổng quát, ta sử dụng 4 chỉ tiêu cơ bản: ROS; BEP; ROA; ROE

Cho thấy năng sinh lời trên doanh thu thuần của ICC có xu hướng biến động không nhất quán qua các năm, song xu hướng chung có sự giảm rõ rệt. Năm 2013 tỷ lệ này đạt 10% và tăng lên 11,3% vào năm 2014. Đến năm 2015 chỉ còn 8,9%, đến năm 2016 đạt 6,1% và 7,1% vào năm 2017. Điều này cho thấy chi phí của ICC chưa được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả làm cho HQKD của ICC có xu hướng giảm đi trong những năm gần đây.

Thực trạng này xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, tỷ lệ giá vốn trên doanh thu gia tăng

Giá vốn hàng bán trung bình chiếm từ 84%- 89% doanh thu thuần của ICC và đang có chiều hướng gia tăng. Giá thành của một công trình xây dựng thông thường bao gồm 60%- 70% là nguyên vật liệu (trong đó thép chiếm 60%- 70%, xi măng chiếm 10%- 15% trong cơ cấu vật liệu xây dựng). Một mặt, trong bối cảnh thị trường giai đoạn này, giá các yếu tố đầu vào (sắt, thép, xi măng, gạch, đá, cát, sỏi, …), nhiên liệu (điện, xăng,..) tăng làm tăng giá vốn. Thêm vào đó năng lực quản lý công trình yếu kém gây thất thoát, lãng phí nguyên vật liệu.

Chi phí nhân công chiếm từ 10%- 20% giá thành một công trình xây dựng, trong đó, có tới 80% là lao động thời vụ. Trong giai đoạn 2013 – 2017, do sự thiếu hụt lao động trong ngành xây dựng kéo theo đơn giá tiền lương tăng đã khiến chi phí nhân công gia tăng đáng kể.

Mặt khác, doanh thu của ICC chủ yếu là theo giá hợp đồng. Trong đó, chủ yếu là hợp đồng có sự điều chỉnh giá, giá cố định chiếm một tỷ lệ thấp hơn nhiều. Để có thể thắng thầu, ICC cố gắng giảm giá thầu. Đây là một trong các nguyên nhân chính làm cho doanh thu và lợi nhuận của ICC có sự biến động ngược chiều.

Thứ hai, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là cán bộ quản lý.

Hiện nay, ICC còn thiếu nguồn nhân lực có đủ trình độ quản lý, nhất là đối với các dự án, công trình xây dựng lớn. Các cấp bậc quản lý cũng chủ yếu phân theo yếu tố kinh nghiệm và thiếu những đánh giá về kiến thức quản lý mới. Bên cạnh đó, theo nguyên tắc kế toán, chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm cả khoản trích lập dự phòng cho khoản phải thu và nợ xấu. Nợ xấu là vấn đề phổ biến của các công ty ngành xây dựng. Đây cũng là một trong các yếu tố chính làm tăng chi phí quản lý.

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên tài sản (BEP)

Khả năng sinh lời kinh tế của tài sản tại ICC trong giai đoạn 2013-2017 không ổn định và có xu hướng giảm.

Năm 2013 tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên tài sản của ICC là 7,6% đến năm 2014 tăng lên 9,1% thì đến năm 2015 chỉ đạt 7,9%. Thậm chí chỉ tiêu này chỉ đạt 5,0% vào năm 2016 và tăng lên 6,7% vào năm 2017. Điều này cho thấy, nếu như năm 2013 doanh nghiệp đầu tư 100 đồng tài sản thì thu được 7,6 đồng lợi nhuận trước lãi vay và thuế nhưng đến năm 2017 chỉ thu được 6,7 đồng, hiệu quả sử dụng tài sản giảm đi rõ rệt.

BEP là một chỉ tiêu quan trọng để đánh khả năng sinh lời kinh tế của tài sản hay một đồng vốn kinh doanh nói chung bao gồm cả vốn CSH và vốn vay. Do đó, nó thường được so sánh với lãi suất vay vốn của các doanh nghiệp để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay cũng như hiệu quả sử dụng đòn bẩy tài chính của các doanh nghiệp. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Theo thống kê lãi suất cho vay bình quân trên thị trường trong năm 2013 là 12,5% và ổn định ở mức 10,5% trong giai đoạn 2014- 2017. Mặc dù lãi suất cho vay bình quân đã giảm kể từ năm 2013 nhưng BEP của ICC đều thấp hơn nhiều tại cùng thời điểm chứng tỏ lợi nhuận tạo ra từ các đồng vốn vay không đủ để trang trải cho chi phí sử dụng các đồng vốn vay này. Đặc biệt là ở năm 2016 và năm 2017, lãi suât vay vốn bình quân cao hơn 3,8% tới 5,5% so với BEP của ICC.

Như vậy, ICC sử dụng vốn vay và đòn bẩy tài chính không hiệu quả, nếu Công ty càng tăng vay nợ sẽ gặp nhiều rủi ro và làm giảm ROE của Công ty.

Do đặc thù ngành xây dựng nhu cầu vốn cho các dự án là rất lớn nên ICC thường phải sử dụng một lượng vốn vay lớn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Nếu việc sử dụng đón bẩy tài chính là hiệu quả thì mỗi đồng nợ vay sẽ mang lại thêm cho chủ sở hữu những đồng lợi nhuận mới còn việc sử dụng đòn bẩy không hiệu quả thì càng tăng sử dụng vốn vay thì càng làm lợi nhuận đi xuống. Chính vì vậy, sau khi xem xét BEP thì chúng ta cần quan tâm thêm đến chỉ tiêu ROA. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh tốt hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp. Nó phản ánh thực sự bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế mà chủ sở hữu có thể tạo ra từ 100 đồng tài sản. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả kinh doanh từ tổng vốn càng cao.

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản (ROA)

Cũng tương tự như chỉ tiêu BEP, ROA của ICC trong giai đoạn 2013 – 2017 không ổn định và có sự sụt giảm.

Năm 2013 tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản (ROA) của ICC là 5,7%, đến năm 2014 tăng lên 7,1% thì đến năm 2015 chỉ đạt 6,1%. Thậm chí chỉ tiêu này chỉ đạt 3,8% vào năm 2016 và tăng lên 5,1% vào năm 2017.

Như vậy, trong giai đoạn 2013- 2017 khả năng sinh lời ròng trên tài sản của ICC khá thấp và có xu hướng giảm dần. Nếu năm 2013 trung bình 100 đồng tài sản đưa vào kinh doanh đem lại 6,1 đồng lợi nhuận sau thuế, sang năm 2016 cũng 100 đồng tài sản đưa vào kinh doanh chỉ đem lại 3,8 đồng.

Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Chỉ tiêu ROE của ICC trong giai đoạn 2013- 2017 nhìn chung không ổn định và có xu hướng giảm. Cụ thể, ROE năm 2013 của ICC đạt 23,3%, đến năm 2014 tăng lên 32,2% thì đến năm 2015 chỉ đạt 13,8%. Thậm chí chỉ tiêu này chỉ đạt 7,1% và 7,8% trong năm 2016 và năm 2017.

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) Nguồn: Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Xem xét tương quan giữa ROE của ICC với lãi suất huy động bình quân trên thị trường của các ngân hàng (…..) cho thấy, HQKD của ICC phần nào đảm bảo được lợi ích cho vốn đầu tư của CSH.

Số liệu tổng hợp từ BCTC của ICC Trong giai đoạn 2013 – 2015 khi đạt ROE cao hơn so với lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng. Tuy nhiên trong 2 năm 2016- 2017 là giai đoạn nguyên vật liệu đầu vào tăng giá, ICC bị ảnh hưởng lớn, hiệu quả sử dụng vốn chủ đưa vào kinh doanh rất thấp, chỉ ngang bằng gửi tiền vào ngân hàng.

2.2.3 Phân tích khả năng sinh lời trên vốn CSH theo Dupont Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Phân tích chỉ tiêu ROE bằng DUPONT trong giai đoạn 5 năm từ năm 2014-2017 cho thấy khả năng tạo doanh thu và kiểm soát các loại chi phí của ICC không tốt (đặc biệt là chi phí xây dựng và chi phí lãi vay), hiệu suất sử dụng tài sản giảm và việc sử dụng đòn bẩy tài chính cao trong điều kiện bất lợi làm sụt giảm khả năng sinh lời trên vốn CSH.

Số liệu trong bảng 2.3 cho thấy, Năm 2014 ROE của ICC đạt 32,16%; tăng 8,89% so với năm 2013 là do: (1)Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm 3%; (2)Mức khấu hao tăng 2% kéo theo mức LNTT, lãi vay và khấu hao trên doanh thu tăng 1%; (3)vòng quay của vốn tăng 0.02 vòng/năm và (4)mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính tăng 0,72 lần.

Năm 2015 ROE của ICC chỉ đạt 13,76%; giảm 18,4% so với năm 2014 là do: (1)Mức khấu hao tăng 1%; (2)Tỷ suất LNTT, lãi vay và khấu hao trên doanh thu giảm 4%; (3)vòng quay của vốn giảm 1% và (4)mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính giảm 2,15 lần so với năm 2014.

Năm 2016 ROE của ICC chỉ còn 7,11%; giảm 6,65% so với năm 2015 là do: (1)Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp giảm 2%; (2)Hệ số LNTT trên LNTT và lãi vay giảm 5%; (3) Hệ số lợi LNTT và lãi vay trên LNTT, lãi vay và khấu hao giảm 3%; (4)Tỷ suất LNTT, lãi vay và khấu hao trên doanh thu giảm 3%; (5)vòng quay của vốn tăng 0.07 vòng/năm và (6)mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính giảm 0,87 lần.

Năm 2017 ROE của ICC tăng nhẹ đạt 7,79%; tăng 0,69% so với năm 2016 là do: (1)Hệ số LNTT trên LNTT và lãi vay tăng 2%; (2)Hệ số lợi LNTT và lãi vay trên LNTT, lãi vay và khấu hao tăng 3%; (3)Tỷ suất LNTT, lãi vay và khấu hao trên doanh thu tăng 1%; (4)vòng quay của vốn tăng 0.06 vòng/năm và (6)mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính giảm 0,25 lần.

Như vậy, có thể thấy trong giai đoạn 2013- 2017, ROE của ICC sụt giảm nhanh chóng chủ yếu là do:

  • ROS liên tục giảm mạnh qua các năm từ 11,3% năm 2014 xuống còn 7,1% năm 2017. Biên lợi nhuận ròng của Công ty ngày càng thấp, việc sử dụng chi phí chưa tiết kiệm, hiệu quả.
  • Mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính ngày càng giảm tuy nhiên khả năng sinh lời kinh tế của tài sản luôn thấp hơn so với lãi suất vay vốn bình quân tại cùng thời điểm làm ROE giảm với tốc độ nhanh hơn.

Do đặc điểm ngành nghề xây dựng nhu cầu vốn cho hoạt động của doanh nghiệp thường rất lớn, bởi vậy ICC có hệ số nợ cao hơn mức trung bình nhiều ngành khác như dược phẩm, dệt may, thực phẩm, … Trong khi đó, các ICC chưa chủ động đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, còn lệ thuộc phần lớn vào vốn vay ngân hàng; chưa sử dụng hình thuê tài chính để huy động vốn.

Như vậy, qua phân tích chỉ tiêu ROE bằng DUPONT trong giai đoạn 5 năm từ năm 2013-2017cho thấy khả năng tạo doanh thu và kiểm soát các loại chi phí của ICC chưa thực sự tốt (đặc biệt là chi phí xây dựng và chi phí lãi vay), hiệu suất sử dụng tài sản giảm và việc sử dụng đòn bẩy tài chính đã được cải thiện nhưng khả năng sinh lời của tài sản thấp làm sụt giảm khả năng sinh lời trên vốn CSH. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Phân tích khả năng sinh lời trên vốn CSH theo các nhân tố ảnh hưởng cho thấy: Có 6 nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới ROE của ICC trong đó có 3 nhân tố khách quan là thuế, lãi vay, khấu hao tài sản cố định và 3 nhân tố chủ quan là tỷ suất lợi nhuận biên, số vòng quay toàn bộ tài sản và mức độ sử dụng đòn bẩy tài sản.

Thứ nhất, nhân tố thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Khi số thuế phải nộp càng thấp thì lợi nhuận sau thuế càng cao, hệ số lợi nhuận sau thuế trên lợi nhuận trước thuế cao. Hệ số này của ICC dao động từ 0,75- 0,8 qua các năm 2013- 2017. Đây là nhân tố khách quan tác động tới hiệu quả sử dụng vốn chủ của các doanh nghiệp do chính sách thuế TNDN của Nhà nước.

Thứ hai, tác động của nhân tố lãi vay. Khi chi phí lãi vay trong kỳ cao thì phần lợi nhuận trước lãi vay và thuế dành trả lãi vay cho chủ nợ sẽ cao làm giảm hệ số lợi nhuận trước thuế trên lợi nhuận trước lãi vay và thuế, từ đó làm giảm tỷ suất lợi nhuận vốn chủ. Đây là nhân tố mang tính khách quan mang lại. Chi phí lãi vay ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ mà ngân hàng trung ương theo đuổi trong từng thời kỳ.

Thứ ba, dựa vào chỉ tiêu EBIT/EBITDA có thể thấy khấu hao tài sản cố định đã tác động tương đối mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong giai đoạn 2013- 2017.

Thứ tư, nhân tố EBITDA/DTT cho biết hiệu quả tạo ra lợi nhuận trước thuế, trả lãi và khấu hao từ DTT của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này giảm dần đều qua các năm xuống còn 0,1% vào năm 2017. Rõ ràng, hiệu quả kinh doanh của ICC xét trên tiêu chí này là đi xuống.

Thứ năm, nhân tố số vòng quay toàn bộ vốn tới HQKD thể hiện tác động của tốc độ luân chuyển toàn bộ vốn tới HQKD của ICC hiện nay. Có thể thấy xu hướng chung về tốc độ luân chuyển toàn bộ vốn của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC có xu hướng được cải thiện. Điều này đã tác động tích cực tới HQKD của ICC. Tuy nhiên số vòng quay của vốn còn khá thấp nên ICC cần phải quản trị hiệu quả toàn bộ vốn kinh doanh một cách tiết kiệm nhưng tạo ra DTT ở mức lớn để cải thiện tốc độ luân chuyển toàn bộ vốn.

Thứ sáu, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới HQKD của ICC. Trong 5 năm qua ICC không ngừng mở rộng quy mô vốn và nhưng chủ yếu được tài trợ từ vốn chủ vì vậy mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính giảm.

Như vậy, từ phân tích DUPON cho thấy tác động rõ rệt của các nhân tốc khách quan và chủ quan tới HQSKD của ICC. Nhân tố nào gia tăng, nhân tố nào sụt giảm, mức độ tác động cuả các nhân tố đó đã được thể hiện trong mô hình DUPON.

2.3. Đánh giá về hiệu quả kinh doạnh tại ICC

2.3.1 Điểm mạnh

Qua những phân tích đánh giá về hiệu quả kinh doanh của ICC chúng ta thấy một số kết quả đạt được như sau:

  • Duy trì doanh thu cao và kinh doanh có lợi nhuận. Như chúng ta thấy trong giai đoạn 2013- 2017, thị trường bất động sản khá trầm lắng kéo theo sự sụt giảm của thị trường xây dựng. Mặc dù vậy, ICC vẫn cố gắng khắc phục khó khăn duy trì doanh thu hàng năm ở mức cao.
  • Hiệu quả sử dụng vốn ngắn hạn tăng kéo theo kỳ luân chuyển vốn ngắn hạn giảm góp phần làm tăng HQKD của Công ty.
  • Tốc độ quay vòng của hàng tồn kho ngày càng được cải thiện làm tăng HQKD của Công ty.
  • Vòng quay khoản phải thu tăng, kỳ thu tiền bình quân có xu hướng giảm.

2.3.2 Hạn chế Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Bên cạnh những kết quả đạt được thì ICC cũng gặp những hạn chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh cần khắc phục. Trong đó có các hạn chế nổi bật như sau:

  • Quy mô lợi nhuận sụt giảm và không ổn định.
  • Mặc dù kỳ thu tiền bình quân đã được cải thiện nhưng vẫn ở mức cao dẫn đến tình trạng bị chiếm dụng vốn, giảm HQKD của Công ty.
  • Khả năng sinh lời có xu hướng đi xuống và không ổn định theo thời gian.

Từ những nghiên cứu và đánh giá về HQKD của ICC có thể thấy trong thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng trong hoạt động SXKD nhưng kết quả vẫn chưa đạt được như kỳ vọng. Để có thể xây dựng các giải pháp đúng hướng, phù hợp và có tính thực tiễn cao thì việc tìm ra các nguyên nhân của hạn chế trên là một việc làm rất có ý nghĩa

2.3.3 Nguyên nhân

Thứ nhất, công tác điều hành doanh nghiệp còn chậm chễ, bảo thủ và chậm thay đổi.

Tiền thân ICC xuất phát điểm từ doanh nghiệp nhà nước chính vì thế tư duy bao cấp, kế hoạch nhà nước vẫn mang nặng trong tư duy của các nhà lãnh đạo. Trong xu thế hội nhập, môi trường kinh doanh liên tục biến động đã làm cho ICC chậm thích nghi với bối cảnh mới, bảo thủ ít thay đổi để chớp lấy thời cơ kinh doanh trong điều kiện mới. Bên cạnh đó, hệ thống quản lý của ICC còn cồng kềnh nhiều phòng ban. Công việc chồng chéo dẫn đến chậm chễ trong các quá trình ra quyết định quản lý

Thứ hai, chưa đa dạng kênh huy động vốn, nguồn vốn huy động chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng.

Khi thực hiện các dự án kinh doanh mới, ngoài phần vốn tự có thì ICC đi vay nhưng chủ yếu là gõ cửa ngân hàng dưới hình thức tiền tệ. Tuy nhiên, ICC chỉ quan hệ với 1 hoặc 2 ngân hàng và tổ chức tín dụng điều này làm cho ICC gặp phải những vấn đề như: không chủ động được nguồn vốn kinh doanh khi chính sách tín dụng của ngân hàng thay đổi hoặc việc đàm phán lãi suất trở nên khó khăn do quan hệ tín dụng với 1 ngân hàng nên các ngân hàng dễ dàng áp đặt lãi suất có lợi cho họ. Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động của ICC chủ yếu xuất phát từ các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân. Tuy thủ tục vay vốn có dễ dàng và linh hoạt hơn nhưng lãi vay của các ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân tương đối cao và đi kèm với phí trả nợ trước hạn rất lớn. Chính điều này đã tác động tiêu cực đến HQKD của ICC.

Thứ ba, chưa đa dạng kênh bán hàng và quản lý vốn lưu động còn hạn chế.

Những năm qua, huy động vốn trở nên khó khăn, chi phí sử dụng vốn tăng cao tuy nhiên ICC bị đọng quá nhiều vốn vào HTK và NPT. Do chính sách bán hàng chưa linh hoạt nên các công trình xây dựng hoàn thành chưa thể bán được điều này diễn ra nhiều ở các công trình xây dựng dân dụng. Bên cạnh đó việc bán hàng lại để cho đối tác chiếm dụng quá nhiều vốn cũng làm cho hiệu quả sử dụng VLĐ đi xuống. Các mô hình tiên tiến về quản lý tiền, quản lý HTK và NPT chưa được sử dụng rộng rãi. Việc đầu tư vào HTK và NPT phụ thuộc quá nhiều vào các nhân tố khách quan, thiếu sự chủ động. Tại một số quyết định về dự trữ HTK và gia tăng NPT thì mang tính cá nhân, vội vã chưa mang tính chất khoa học và có chiến lược cụ thể. Chính những điều này đã làm sụt giảm sâu sắc hiệu quả sử dụng VLĐ của DN. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

Thứ tư, việc đầu tư, nâng cấp vốn cố định trong doanh nghiệp chưa khoa học, hợp lý.

Tài sản cố định của DN quyết định năng lực cạnh tranh của các DN trong dài hạn. Những năm qua, ICC đã đầu tư một lượng lớn TSCĐ để nâng cao HQKD của mình tuy nhiên tác động tích cực của nó thì không nhiều. Nguyên nhân của nó là do ICC nhập khẩu và đầu tư máy móc thiết bị cũ, lạc hậu từ các nước khác về Việt Nam. Mặc dù các máy móc thiết bị cũ có chi phí đầu tư thấp hơn nhiều so với nhập khẩu máy móc mới nhưng máy móc cũ thì chất lượng và sự phù hợp với các công trình không cao. Đơn cử như máy xúc, máy đào bánh xích là một loại tài sản giá trị lớn ICC có tương đối nhiều nhưng loại máy móc này có những bất tiện như: khi vận chuyển đến công trình phải thông qua máy kéo somi romooc, chi phí vận hành cao,… mà bây giờ chủ yếu phải vận hành bằng máy đào, máy xúc bánh lốp để cơ động và có chi phí vận hành giảm xuống. Như thế, việc đầu tư quá nhiều VCĐ vào máy móc cũ, lạc hậu cộng với việc ít thanh lý, mua sắm mới để thay thế làm hạn chế HQSD VCĐ.

Ngoài ra, các quyết định hay các phương án đầu tư nâng cấp TSCĐ của ICC hiện nay diễn ra một cách tuỳ ý. Việc cân nhắc, tính toán chưa được coi trọng một cách đầy đủ dẫn tới phương án mua sắm trước khi thực hiện rất khả thi nhưng khi mua về thì lại không mang lại lợi nhuận như kỳ vọng. Chính vì vậy, nhiều phương án đầu tư đã trở nên lãng phí và trở thành gánh nặng của Công ty khi hầu hết các tài sản này được tài trợ bởi vốn vay ngân hàng.

Thứ năm, trình độ lao động còn nhiều bất cập.

Điều này đúng với cả lao động trình độ cao và lao động phổ thông tại ICC. Nếu như tìm được lao động có chất lượng cao ngày một khó khăn do nguồn lao động này vốn đã ít lại chủ yếu làm việc tại các công ty nước ngoài thì nguồn lao động phổ thông có tay nghề và kỷ luật rất kém.

Bên cạnh đó, việc đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động lĩnh vực xây dựng diễn ra khá khó khăn do đặc thù các công trình không cố định. Nguồn lao động chủ yếu lấy tại địa phương nên khi đào tạo xong lao động cũng chính là lúc công trình hoàn thành và di chuyển sang khu vực mới để thực hiện công trình khác dẫn tới nhiều lao động không theo công ty được và công ty lại phải đào tạo lực lượng lao động mới. Quá trình cứ như thế tiếp diễn dẫn tới lao động phổ thông khó nâng cao tay nghề và tăng năng suất lao động.

Tóm tắt chương 2

Trên cơ sở lý luận đã hệ thống ở chương 1, tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng HQKD của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC trong giai đoạn từ 2013 – 2017 và thu được một số kết quả chủ yếu sau:

Một là, khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC trong giai đoạn 2013 – 2017.

Hai là, dựa vào những chỉ tiêu đánh giá ở chương 1 tác giả phân tích thực trạng HQKD của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC như: hiệu suất hoạt động, khả năng sinh lời.

Ba là, trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu tài chính phản ánh HQKD của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC tác giả chỉ ra những kết quả đạt được những hạn chế đồng thời đưa ra các nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan của những hạn chế. Đây là những cơ sở quan trọng để tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nâng cao HQKD của Công ty cổ phần Đầu tư và xây lắp thương mại ICC ở chương 3. Luận văn: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty ICC

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY

===>>> Khóa luận: Biện pháp phát triển kinh doanh của Công ty ICC

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x