Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Chuyển giá của các công ty đa quốc gia trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1 Môi trường pháp lý và tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) tại Việt Nam
Nếu năm 2007, Việt Nam thu hút được 20,3 tỷ USD từ FDI và được coi là mức kỷ lục từ khi mở của thu hút vốn đầu tư năm 1988 đến năm 2006. Trong năm 2008, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã nâng lên gấp 3 lần năm 2007 và lập mốc kỷ lục mới là 64 tỷ USD. Trong đó đáng chú ý là các dự án dầu khí có tổng giá trị trên 10 tỷ USD và dự án của Formosa với 7,8 tỷ USD.
Trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong năm 2008 thì Malaysia là quốc gia dẫn đầu với 14,9 tỷ USD với 55 dự án . Kế tiếp là các quốc gia Đài Loan (8,64 tỷ USD) với 132 dự án, Nhật Bản (7,28 tỷUSD) với 105 dự án, Singapore ( 4,46 tỷ USD) với 101 dự án, Brunei (4,4 tỷ USD) với 19 dự án.
Các địa phương thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất trong năm 2008 (trừ 8 dự án thăm dò và khai thác dầu khí) là Ninh Thuận do có dự án liên doanh sản xuất thép với tập đoàn Lion Malaysia với tập đoàn Vinashin có tổng mức đầu tư đăng ký là 9,79 tỷ USD. Đứng thứ hai là tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có 4 dự án với tổng mức vốn đăng ký lên đến 9,35 tỷ USD, TP.HCM, Hà Tĩnh và Thanh Hóa. Như vậy chúng ta có thể thấy cơ cấu các tỉnh thành dẫn đầu trong việc thu hút vốn đầu tư có thay đổi và các tỉnh Miền Trung đã có những bước tiến đáng chú ý. Trong đó đáng chú ý là tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu thu hút đến 9,35 tỷ USD (gần bằng cả năm 2006 thu hút vốn đầu tư của cả nước 10,2 tỷ). Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Để có một cái nhìn tổng quát thì chúng ta cùng nhìn lại toàn bộ quá trình thu hút vốn đầu tư từ lúc bắt đầu mở cửa nền kinh tế năm 1988 đến năm 2008.
Bảng 2.1 Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI từ năm 1988 năm 2008
Thông qua xem xét biểu đồ thu hút vốn đầu tư từ năm 1998 đến nay, chúng ta có thể chia thành ba giai đoạn chính:
Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1996: Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện mở cửa thu hút, kêu gọi đầu tư. Năm 1988 cũng là năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, ngay năm 1988 chúng ta đã thu hút được 37 dự án đăng ký với số vốn là 371,8 triệu USD. Sau hai năm thì số dự án được cấp phép hoạt động đã lên tới 107 dự án với tổng số vốn là 839 triệu USD, tốc độ tăng thu hút vốn tăng cao và quy mô vốn trung bình đạt 8,42 triệu USD/dự án. Đồng thời trong gia đoạn (1991- 1995) luật đầu tư sửa đổi kịp thời (2 lần vào năm 1990 và 1992) đã bổ sung và tăng cường chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả. Trong giai đoạn này, chính phủ đồng thời quyết định thành lập một loạt các khu công nghiệp tại các địa phương cũng đã tạo ra được một lực hút mạnh đối với FDI. Kết quả đạt được là số dự án được cấp phép đã đạt 6,24 lần tổng vốn đăng ký và gấp 9,3 lần so với thời kỳ hai năm đầu 1988 và 1989. Đồng thời trong giai đoạn này thì tổng vốn FDI cũng đạt đỉnh điểm tại năm 1996 với con số là 8 497,3 triệu USD. Từ những con số nêu trên đã cho chúng ta thấy được những thành công ban đầu trong công tác thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của chính phủ Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2003: Tháng 7 năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia… Nước ta lại nằm ngoài “tâm bão”, đây chính là thời cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các nước trong khu vực phải đang đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế. Nhưng do chưa chuẩn bị tốt và việc sửa đổi luật đầu tư năm 1996 vẫn chưa đủ hấp dẫn để có thể thu hút FDI vì vậy mà trong giai đoạn này việc thu hút vốn FDI của nước ta giảm đi một cách nhánh chóng. Việc thu hút vốn FDI giảm từ 8497,3 triệu USD năm 1996 xuống 4649,1 triệu USD (gần 50 %), và tiếp tục giảm trong những năm kế tiếp. Tuy Việt Nam không năm trong “tâm bão” của cuộc khủng hoảng tài chính, nhưng chúng ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề và kéo dài sang những năm sau đó. Kết quả là việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp FDI tiếp tục giảm mạnh và ở mức thấp nhất là 1.568 triệu USD vào năm 1999. Để cải thiện tình hình thu hút vốn đầu tư thì vào năm 2000, Quốc hội đã quyết định bổ sung và sửa đổi Luật Đầu Tư Nước Ngoài thay thế luật bổ sung năm 1996. bước đầu luật được sửa đổi bổ sung tỏ ra hiệu quả. Trong hai năm 2000 và 2001 thì tình hình thu hút vốn FDI có được cải thiện, tuy nhiên do dư chấn của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á vẫn còn và các sửa đổi bổ sung của luật đầu tư vẫn chưa đủ hấp dẫn để kích thích việc gia tăng thu hút FDI, vì vậy mà nguồn vốn FDI lại tiếp tuc bị tuột dốc và thấp hơn cả năm 1999 đạt con số 1 512,8 triệu USD vào năm 2003.
Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008: Đây là giai đoạn phục hồi và tăng tốc một cách nhanh chóng của việc thu hút vốn FDI. Sau khi cơn bão tài chính qua đi, kinh tế của các nước Châu Á đã vực dậy và phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Việt Nam và Trung Quốc trở thành những quốc gia có sức hút mạnh đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, và luôn nằm trong danh sách các quốc gia dẫn đầu thu hút FDI. Năm 2006, Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp mới ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới và một bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực luật pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố việc thẩm định và cấp phép. Việc này đã tạo ra sự chủ động trong việc quản lý nguồn vốn FDI tại các địa phương và quan trọng hơn là tạo ra một cuộc thi đua giữa các địa phương thực hiện việc cải cách hành chính thông thoáng, tạo ra điều kiện tốt cho môi trường đầu tư. Từ đó tăng cường việc thu hút đầu tư và tạo cho các nhà đầu tư cảm thấy thuận tiện. Kết quả của việc cải cách hành chính của các địa phương cho ta kết quả hết sức khả quan là năm 2006 đạt mức thu hút vốn FDI là 10,2 tỷ USD vượt qua mức kỷ lục năm 1996. Tiếp tục năm 2007, việc thu hút FDI lại lập ra một kỷ lục mới ở mức 20,3 tỷ USD. Năm 2008, mặt dù tính hình kinh tế thế giới khó khăn, giá dầu và lạm phát tăng cao nhưng việc thu hút FDI của Việt Nam vẫn tăng rất cao và tiếp tục tạo ra một kỷ lục mới tại mức 64 tỷ USD. Điều này chứng tỏ Việt Nam là đang là nơi lý tưởng để thu hút vốn đầu tư, và là môi trường đầu tư cạnh tranh.
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ lúc mở của nền kinh tế kêu gọi đầu tư nước ngoài vào năm 1987 đến khi chính thức trở thành thành viên của WTO thì hệ thống pháp luật kinh tế của Việt Nam cũng có rất nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế. Chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan trọng của pháp luật đối với sức thu hút FDI của nền kinh tế. Từ khi mở của kinh tế đến nay, mỗi lần chỉnh sửa Luật Đầu Tư gần với thông lệ quốc tế hơn là mỗi lần chúng ta lại gặt hái được thành công trong việc thu hút vốn FDI về cả số lượng và chất lượng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế
2.2 Phân tích tình hình hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp FDI trong thời gian qua tại Việt Nam Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
2.2.1 Khái quát chung về tình hình chuyển giá tại Việt Nam
Theo thống kê của Cục thuế Thành Phố Hồ Chí Minh thì có hơn 70% các doanh nghiệp FDI trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh kê khai lỗ mặc dù làm ăn tốt và tăng trưởng cao, điều này cho thấy hiện tượng chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI là rất nghiêm trọng. Trong năm 2006, hầu hết các nguồn thu ngân sách đều tăng, chỉ có nguồn thu từ khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) là thấp hơn dự toán ngân sách tới 7%. Thông tin xấu trên được công bố trong báo cáo kiểm toán nhà nước và thẩm tra của Ủy Ban Tài Chính Ngân Sách. Theo luật định, quyết toán ngân sách nhà nước năm 2006 phải 18 tháng sau mới hoàn tất thủ tục kiểm toán. Thời gian quá dài để có thể đưa ra một bảng báo cáo kiểm toán nhưng đó không phải là nguyên nhân chủ yếu mà tình trạng gian dối của các doanh nghiệp FDI (theo kiến phát biểu của tiến sĩ Trần Du Lịch tại kỳ hợp Quốc hội diễn ra ngày 10 tháng 05 năm 2008).
Tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp FDI càng phổ biến và nghiêm trọng hơn trong những năm đầu mở của kêu gọi đầu tư, khi mà luật pháp chưa được chuẩn bị tốt để có thể bắt kịp với sự gia tăng nhanh chóng của FDI cũng như trình độ quản lý của các cơ quan quản lý về thuế so với trình độ quản lý của các doanh nghiệp FDI các nước. Chúng ta cùng xem xét số liệu thông kê tình hình khai lỗ của các doanh nghiệp do Cục Thuế Thành Phố Hồ chí Minh và Cục Thống kê thực hiện.
Bảng 2.2: Tình hình khai lỗ tại các doanh nghiệp FDI trên địa bàn TP.HCM
Thông qua số liệu trong bảng trên, chúng ta có thể thấy được 71,1% các doanh nghiệp được khảo sát đã kê khai lỗ. Vậy trong số các doanh nghiệp này, có bao nhiêu doanh nghiệp lỗ thiệt và bao nhiêu doanh nghiệp nào lỗ giả (thực hiện các hành vi chuyển giá hay gian lận trong kê khai thuế).
Một nguồn số liệu khác từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cũng tiến hành khảo sát các doanh nghiệp FDI hoạt động trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, kết quả công bố chỉ trong 6 tháng đầu năm năm 2005 trong 1.450 doanh nghiệp FDI được khảo sát thì đã có đến 1.260 doanh nghiệp kê khai làm ăn thua lỗ, chiếm đến 87% các doanh nghiệp được khảo sát. Các doanh nghiệp làm ăn có lãi chỉ có 190 doanh nghiệp tương đương khoảng 13% các doanh nghiệp được khảo sát. Đứng trước những con số thống kê trên cho thấy được tình hình nghiêm trọng của hành vi chuyển giá các doanh nghiệp FDI. Tính đến tháng 12 năm 2005 đã có 116 doanh nghiệp liên doanh chuyển sang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài và tổng số vốn đầu tư lên đến 1,3 tỷ USD. Nguyên nhân chủ yếu của việc chuyển đổi hình thức sở hữu doanh nghiệp này là do thua lỗ kéo dài và bên phía liên doanh Việt Nam không còn đủ khả năng tài chính để tiếp tục hợp tác kinh doanh vì vậy phải bán phần vốn của mình lại cho đối tác. Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Bảng 2.3: Số các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ qua các năm do Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư khảo sát
Từ những con số thống kê trên, nghi ngờ tính trung thực trong các báo cáo kê khai nộp thuế do các doanh nghiệp nộp về cơ quan thuế. Trong vòng 6 tháng đầu năm 2005 thì Cục thuế TP.HCM đã tiến hành kiểm tra hơn 50 doanh nghiệp có vốn FDI và phát hiện ra nhiều sai phạm của các công ty này. Các doanh nghiệp này khai man lợi nhuận trước thuế và tổng số thuế truy thu từ các doanh nghiệp gần 60 tỷ đồng. Trong năm 2008, Cục Thuế TP.HCM đã thực hiện việc kiểm tra kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp may mặc trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong hai năm 2005 và 2006 thì kết quả thu được không lấy làm khả quan. Kết quả kinh doanh trong năm 2005 của 128 doanh nghiệp may mặc được kiểm tra thì chỉ có 25 doanh nghiệp làm ăn có lãi và tỷ suất sinh lợi bình quân là 6,07%. Như vậy tỷ suất sinh lợi của các công ty này nhỏ hơn cả lãi suất ngân hàng tại thời điểm lúc bấy giờ vì vậy chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu có hiện tượng chuyển giá xảy ra ở các doanh nghiệp này không?
Bảng 2.4: Bảng danh sách 25 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc có lãi trong năm 2005
Cục thuế TP.HCM tiếp tục thực hiện kiểm tra và phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của 128 doanh nghiệp may mặc trên địa bàn thành phố thì kết quả chỉ có 24 doanh nghiệp làm ăn có lãi và tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu chỉ còn 5,64%. Như vậy kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp may năm 2006 cho chúng ta thấy được khả năng có hoạt động chuyển giá tại các doanh nghiệp này càng cao hơn.
Bảng 2.4: Bảng danh sách 24 trên 128 doanh nghiệp được phân tích ngành may mặc có lãi trong năm 2006
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao các doanh nghiệp FDI có tiềm lực tài chính hùng hậu. Trình độ quản lý cao thì nguyên nhân dẫn đến thua lỗ là do đâu? Thật ra nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do các doanh nghiệp FDI dựa vào sự chênh lệch thuế suất thuế TNDN giữa các quốc gia để thực hiện hành vi chuyển giá. So với các nước trong khu vực thì thuế suất thuế TNDN tại nước ta vẫn còn cao hơn so với các nước trong khu vực. Thuế suất thuế TNDN tại Việt Nam trước thời điểm năm 2003 là 32% và cuối năm 2003 chính phủ đã giảm xuống còn 28% cho đến hết năm 2008. Bắt đầu từ năm 2009 thì thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt Nam là 25 %.
Như vậy thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại Việt Nam so với thuế suất thuế thu nhập doanh tại các nước trong khu vực và trên thế giới vẫn còn cao, vì vậy sẽ có một số hướng chuyển lợi nhuận như bảng thuế suất sau.
Bảng 2.6: Thuế suất thuế TNDN tại các quốc gia vào thời điểm năm 2008
Căn cứ vào bảng thuế suất được khảo sát vào năm 2002 thì thuế suất tại Việt Nam được xem là thuộc nhóm các quốc gia có thuế suất cao trong khu vực. Mặc dù đến cuối năm 2003 chính phủ đã có sự điều chỉnh thuế suất từ 32% xuống 28% nhưng trong thời gian này thì các quốc gia trong khu vực cũng điều chỉnh thuế suất xuống mức thấp hơn. Như Singapore điều chỉnh thuế suất từ 20% xuống 19%, Philippine điều chỉnh thuế suất từ 35% xuống 30% và gần đây nhất là Trung Quốc điều chỉnh thuế suất từ 33% xuống mức thuế suất mới là 25% để tăng tính cạnh tranh và chuyển hướng hoạt động chuyển giá. Sự cắt giảm thuế suất của các quốc gia trong khu vực càng làm tăng thêm áp lực hoạt động chuyển giá của các MNC lên Việt Nam.
Một trong những nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng chuyển giá xảy ra một cách nghiêm trọng tại Việt Nam là do luật pháp chưa hoàn thiện và luật pháp thường có một độ trễ so với tình hình thực tế kinh tế quốc gia đó. Các qui định pháp luật còn nhiều chỗ chưa phù hợp và nhiều khe hở, vì vậy mà các MNC lách luật hay trái luật để thực hiện các hành vi chuyển giá mà không bị phát hiện. Mặt khác năng lực của cán bộ thuế còn nhiều hạn chế và cơ quan quản lý chưa xây dựng được một cơ sở dữ liệu về giá cả của các giao dịch nội bộ để có cơ sở làm căn cứ để so sánh. Năng lực về thẩm định giá của cán bộ vẫn còn hạn chế. Các yếu kém trên cần được khắc phục để tránh làm mất nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Theo một báo cáo mới đây của Bộ Tài Chính thì tình hình hoạt động chuyển giá diễn ra một cách nghiêm trọng trong các ngành sản xuất lắp ráp ô tô, bia và các chất tẩy rửa. Hậu quả của hoạt động chuyển giá đối với xã hội và quyền lợi của người dân rất nghiêm trọng, vì vậy các cơ quan chức năng cần phải quan tâm và quản lý một cách hiệu quả hơn.
2.2.2 Tìm hiểu một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu tại Việt Nam Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Các MNC thực hiện hành vi chuyển giá nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận của mình và tối thiểu hóa số thuế mà MNC phải nộp cho chính phủ nước sở tại. Từ mục đích này thì các MNC sẽ thực hiện hành vi chuyển giá bằng nhiều cách khác nhau. Thông qua các tư liệu thì chúng ta có thể chia các hành động chuyển giá của các MNC tại Việt Nam theo các nhóm tiêu biểu sau:
2.2.2.1 Nâng giá trị vốn góp
Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam để sản xuất kinh doanh, do các MNC có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên các MNC sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại. Do phía Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ để thẩm định giá các loại thiết bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác nước ngoài định giá các thiết bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. Việc định giá cao sẽ làm nâng giá trị vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy quyền quản trị công ty. Về phía đối tác Việt Nam đa phần chỉ góp vốn bằng giá trị sử dụng đất nên giá trị vốn góp trong liên doanh thường rất thấp.
Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban đầu đã giúp cho các MNC chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ ngay từ lúc đầu tư và thông qua chi phí khấu hao hàng năm sẽ làm cho nhà nước thất thu thuế. Một trường hợp như sau công ty nâng giá trị của máy móc thiết bị lên 1.000 USD (giá trị thực của máy móc thiết bị chỉ có 10.000 USD, nhưng khi góp vốn liên doanh thì đối tác nước ngoài đã nâng lên là 11.000 USD). Ngay khi góp vốn nếu máy móc này được mua từ công ty mẹ thì đối tác nước ngoài đã chuyển 1.000 USD này về cho công ty mẹ và nếu máy móc này được khấu hao theo đường thẳng trong 10 năm thì mỗi năm chi phí khấu hao tăng thêm do phần định giá nâng lên là 100 USD một năm. Thuế suất hiện nay là 28% thì Chính phủ Việt Nam mỗi năm mất thêm 28 USD tiền thuế TNDN. Hiện tượng nâng giá này diễn ra một cách nghiêm trọng tại Việt Nam:
Ví dụ 1: Công ty Liên doanh gia cầm Việt Thái đi vào hoạt động với phần vốn góp của đối tác Thái Lan là dây chuyền giết mổ, giá trị thực tế của dây chuyền này được thẩm định chỉ có 400.000 USD. Nhưng khi tham gia góp vốn bên đối tác Thái Lan đã kê khai khống nâng giá trị vốn góp của dây chuyền này lên đến 600.000 USD. Giá trị vốn góp nâng lên chiếm đến 50% giá trị thật của dây chuyền giết mổ.
Ví dụ 2: một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4.340.000 USD. Nhưng theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn của Vina Group chỉ có giá trị là 2.990.000 USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1.350.000 USD tương đương 45.2%.
Theo một báo cáo giám định của công ty kiểm định Quốc Tế về việc xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh thực hiện vào năm 1993 cho ta kết quả trong bảng số liệu dưới đây:
Bảng 2.7: Xác định giá trị vốn góp của các bên liên doanh
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt Nam. Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn nhỏ lại; Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu dùng sản phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy bên đối tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp. Đối tác nước ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua lỗ kéo dài và bên liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt động đành phải bán lại phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.
2.2.2.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Ngoài việc nâng giá trị tài sản vốn góp khi tiến hành liên doanh thì các MNC còn thực hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí tiền bản quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản cố định vô hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ đó là tại Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam.
Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo Luật Đầu tư Nước ngoài được Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp phép số 287/GP ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực phẩm II tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan). Đến năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số 287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD (Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD. Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn, ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.
Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản quyền quá cao và tăng dần qua các năm. Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.
Trong hơn 2.000 dự án đầu tư nước ngoài được cấp phép thì chỉ có 94 trường hợp chuyển giao công nghệ với tổng giá trị hơn 200 triệu USD được trình lên Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Trong đó có 80 hợp đồng đã được phê duyệt, còn lại đang được xem xét và yêu cầu bổ sung. Trong các dự án đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam, một số công nghệ đã rất lỗi thời và bán tự động do không thông qua việc đăng ký với Bộ Khoa Học và Môi Trường vẫn được xem là chuyển giao công nghệ trong các liên doanh. Điều này đã dẫn đến tình trạng là chúng ta vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, lỗi thời trên thế giới. Hậu quả là một mặt gây ảnh hưởng môi trường, đồng thời chúng ta phải trả phí bản quyền chuyển giao công nghệ. Một nguyên nhân khác dẫn đến tình trang này là do chúng ta không chuẩn bị tốt trong khâu soạn thảo hợp đồng và đàm phán chi phí bản quyền khi tham gia liên doanh vì vậy mà chi phí cao hơn mức chi phí chuyển giao công nghệ cho phép là 5%. Phía Việt Nam thường ký vào hợp đồng đã được bên đối tác soạn sẵn. Trong số hơn 80% hợp đồng đã được Bộ Khoa Học Công Nghệ và Môi Trường phê duyệt thì bên Việt Nam sau khi thực hiện đàm phán lại chi phí bản quyền đã giảm đi so với giá trị hợp đồng trước khi đàm phán từ 20 % đến 50%. Trong năm 1998. chỉ riêng 6 trong số các hợp đồng đã được phê duyệt đã thu lai được 35 triệu USD.
Một số ví dụ điển hình như sau:
Ban đầu liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Sau khi phía Việt Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban đầu phía Đức đưa ra.
Một trường hợp khác cung trong ngành sản xuất xe ô tô đó là công ty Mitsubishi Motor Corporation (Nhật Bản) trong liên doanh sản xuất ôtô Ngôi Sao đòi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 61 triệu USD. Sau khi đàm phán lại thì giảm xuống chỉ còn 4,4 triệu USD; tức giảm đi gần 15 lần.
Công ty mía đường Đài Loan đòi phí bản quyền là 54 triệu USD nhưng sau khi đàm phán thì phí bản quyền chỉ còn là 6 triệu USD, giảm 9 lần.
2.2.2.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Các MNC khi đi vào đầu tư kinh doanh tại một quốc gia thì họ thường sẽ thích liên doanh với một công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật khác nhau, trong đó có thủ thuật chuyển giá để đẩy công ty nội địa ra và chuyển công ty liên doanh thành công ty 100% vốn nước ngoài. Dưới đây chúng ta sẽ theo dõi hai ví dụ đã xảy ra tại công ty P&G Việt Nam và công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương.
Trường hợp P&G Việt Nam
P&G Việt Nam là một công ty liên doanh giữa Công ty Proter & Gamble Far Earst với Công ty Phương Đông, được thành lập vào ngày 23 tháng 11 năm 1994. Tổng số vốn đầu tư ban đầu của liên doanh này là 14,3 triệu USD và đến năm 1996 tăng lên là 367 triệu USD. Trong đó Việt Nam góp 30% và phía đối tác chiếm 70% (tương đương 28 triệu USD).
Sau hai năm hoạt động (năm 1995 và 1996) liên doanh này đã lỗ đến một con số khổng lồ là 311 tỷ đồng. Số tiền lỗ này tương đương với ¾ giá trị vốn góp của cả liên doanh. Trong con số thua lỗ 311 tỷ này thì năm 1995 lỗ 123,7 tỷ đồng và năm 1996 lỗ 187,5 tỷ đồng. Để giải thích cho số tiền thua lỗ này thì chúng ta sẽ phân tích các nguyên nhân và chi phí sau:
Do thời điểm năm 1995 và 1996 đây là gia đoạn mới vào Việt Nam nên P&G muốn xây dựng thương hiệu tại Việt Nam và muốn các sản phẩm của mình đều được người tiêu dùng biết đến và sử dụng. Với mục đích chiếm lĩnh thị trường, trong hai năm 1995 và 1996, P&G đã chi cho quảng cáo một số tiền rất lớn lên đến 65,8 tỷ đồng. Đây là một con số quá lớn đối với quảng cáo tại Việt Nam vào thời điểm đó. Trong thời điểm này hầu như các kênh truyền hình. đài phát thanh và báo chí đều có sự xuất hiện quảng cáo của các sản phẩm của công ty P&G như Safeguard, Lux, Pantene, Header & Shouder, Rejoice… Vào thời điểm này, mọi người đều nghe các khẩu hiệu quảng cáo như “Rejoice tạo mái tóc mượt và không có gàu”, “Pantene giúp tóc bạn khỏe hơn”, “Header & Shoulder khám phá bí quyết trị gàu”, “bột giặt Tide thách thức mọi vết bẩn”… Tổng các chi phí quảng cáo này chiếm đến 35% doanh thu thuần của công ty và đã vượt xa mức cho phép của luật thuế là không quá 5% trên tổng chi phí và nó cũng đã gấp 7 lần so với chi phí trong luận chứng kinh tế ban đầu.
Ngoài các khoản quảng cáo này thì các khoản chi phí khác cũng vượt xa so với luận chứng kinh tế ban đầu. Quỹ lương năm đầu tiên xây dựng trong luận chứng kinh tế là 1 triệu USD nhưng thực tế đã chi đến 3,4 triệu USD, tức là gấp 3,4 lần. Nguyên nhân chủ yếu là do P&G đã sử dụng đến 16 chuyên gia là người nước ngoài trong khi trong luận chứng kinh tế chỉ đưa ra từ 5 đến 6 người.
Ngoài hai chi phí trên thì các chi phí khác cũng phát sinh lớn hơn nhiều so với luận chứng kinh tế ban đầu như chi phí cho chuyên gia xây dựng cơ bản ban đầu là 7 tỷ đồng, chi phí tư vấn pháp lý hết 7,6 tỷ và chi phí thanh lý hết 20 tỷ… Ngoài ra một nguyên nhân khác dẫn đến việc thua lỗ nặng nề trong năm đầu tiên là do doanh số thực tế năm chỉ đạt 54% kế hoạch và phải gánh chịu chi phí tăng cao, dẫn đến kết quả là năm đầu tiên hoạt động thua lỗ 123,7 tỷ đồng.
Tình hình này lại tiếp tục lặp lại vào năm thứ hai và kết quả là năm thứ hai lại tiếp tục thua lỗ thêm 187,5 tỷ đồng với con số thua lỗ lũy kế hai năm đến 311,2 tỷ đồng; chiếm ¾ tổng số vốn của liên doanh, và đến tháng 7 năm 1997 thì tổng giám đốc của P&G đã đầu tư quá giấy phép là 6 triệu USD, công ty phải vay tiền mặt để trả tiền lương cho nhân viên. Đứng trước tình thế thua lỗ nặng nề và để tiếp tục kinh doanh thì bên phía đối tác nước ngoài đề nghị tăng vốn thêm 60 triệu USD. Như vậy phía Việt Nam cần phải tăng theo tỷ lệ vốn góp 30% (18 triệu USD). Vì bên phía Việt Nam không có đủ tiềm lực tài chính nên cuối cùng đã phải bán lại toàn bộ số cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài. Như vậy công ty P&G Việt Nam từ hình thức là công ty liên doanh đã trở thành công ty 100% vốn nước ngoài.
Trường hợp công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương
Công ty liên doanh Coca Cola Chương Dương là một liên doanh giữa hai đối tác là Công ty Nước giải khát Chương Dương trực thuộc Bộ Công Nghiệp Việt Nam và Công ty Coca Cola Indochina PTE.. LTD. Liên doanh này được cấp phép hoạt động vào ngày 27 tháng 9 năm 1995 với tổng số vốn đầu tư là 48,7 triệu USD. Vốn pháp định của liên doanh này là 20,7 triệu USD. Trong đó phía Việt Nam góp 8,3 triệu USD bằng quyền sử dụng 6 ha đất trong thời gian là 30 năm và chiếm 40% trong tổng vốn đầu tư. Liên doanh này được cấp phép ngành nghề sản xuất kinh doanh là nước giải khát mang nhãn hiệu Coca Cola, Fanta, Sprite theo license của công ty Coca Cola Company, Atlanta, Georgia Hoa Kỳ và một số loại nước giải khát khác. Sau khi đi vào hoạt động thì công ty đã tiến hành các hoạt động chuyển giá thông qua các hành vi như sau:
Khi tham gia góp vốn liên doanh thì bên đối tác nước ngoài đã tiến hành nâng giá trị tài sản vốn góp bằng cách định giá cao các máy móc thiết bị và dây chuyền sản xuất nước giải khát. Do tại thời điểm này trình độ chuyên môn cũng như thẩm định giá trị tài sản của Việt Nam còn nhiều hạn chế nên không kiểm soát được vấn đề này. Luật pháp trong giai đoạn này cũng chưa điều chỉnh được các tình huống trên. Đến năm 1996, do nhận thấy được tình trạng trên nên Luật đầu tư đã có những sửa đổi nhưng vẫn còn chung chung, chưa cụ thể hóa. Như vậy bên liên doanh đã định giá cao các thiết bị máy móc và dây chuyền sản xuất và thực hiện thành công việc chuyển giá thông qua việc nâng giá trị tài sản vốn góp.
Sau khi bắt đầu sản xuất kinh doanh thì công ty Coca Cola bắt đầu thực hiện các chiến lược chiếm lĩnh thị phần của các công ty nội địa. Để thực hiện việc chiếm lĩnh thị trường thì công ty Coca Cola đã thực hiện các chiến lược bán phá giá sản phẩm, chiến lược quảng bá sản phẩm và xây dựng thương hiệu thông qua quảng cáo và marketing sản phẩm, thực hiện các chiến lược khuyến mãi, tài trợ để xây dựng thương hiệu và đánh bóng tên tuổi tại thị trường Việt Nam. Mặc dù mới xâm nhập vào thị trường Việt Nam với một thời gian không lâu nhưng sản phẩm mang nhãn hiệu Coca Cola đã tràn ngập thị trường và đã dần dần chiếm lấy thị phần của các công ty nội địa. Cuộc đối đầu giữa hai nhãn hiệu nước giải khát lớn là Coca Cola và Pepsi đã dần dần loại bỏ các nhà sản xuất nước giải khát nội địa như Hòa Bình, Cavinco, Chương Dương… Các công ty nội địa một số phải đóng cửa hoặc phải bỏ thị trường chính như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các thành thị để chuyển đến các thị trường nông thôn. Một số ít các công ty phải chuyển đổi sang kinh doanh sản phẩm khác như công ty Tribico. Tribico nhờ chuyển hướng kinh doanh sang sản phẩm sữa đậu nành và đây là một sản phẩm mà hai đại gia trong ngành nước giải khát chưa sản xuất nên mới có thể tiếp tục tồn tại.
Trong chiến lược xâm chiếm thị phần của mình thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thực hiện chính sách bán phá giá. Giá bán của sản phẩm giảm một cách rõ rệt qua từng năm. Có những thời điểm giá bán phá giá từ 25% đến 30% doanh thu. Chính điều này góp phần vào làm cho công ty Coca Cola Chương Dương lỗ nặng nề hơn. Theo số liệu thống kê của Cục Thuế TP.HCM thì giá bán giữa tháng 3 năm 2007 và tháng 3 năm 2008 giảm đến 23%. Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Bảng 2.8: Giá bán của một thùng Coca Cola từ năm 1996 đến 1999
Thông qua việc bán phá giá này thì công ty Coca Cola Chương Dương đã thao túng thị trường nội địa Việt Nam. Giá bán của một thùng sản phẩm giảm nhưng doanh số của Coca Cola vẫn tăng. Điều này chứng tỏ lượng hàng tiêu thụ tăng từ thị phần được mở rộng của Coca Cola. Khi tiến hành so sánh giá của một lon coca được bán tại thị trường Việt Nam và thị trường Mỹ thì chúng ta sẽ thấy sự chênh lệch giá một cách rõ rệt. Giá một lon coca tại thị trường Mỹ tại thời điểm lúc bấy giờ được bán với giá là 75 cents với tỷ giá lúc bấy giờ 1 USD = 14.000 VND, tức là 1 lon coca được bán với giá 10.500 đồng. Một lon coca cùng thời điểm trên được bán tại thị trường Việt Nam với giá từ 5.000 đồng đến 7.000 đồng (tương đương từ 40 đến 50 cents). Như vậy giá một lon coca được bán tại Việt Nam thấp hơn so với thị trường Mỹ là 25 cent (khoảng 50%). Thông qua phân tích giá bán sản phẩm thì liệu chúng ta có thể xác định chính sách bán phá giá này có được sự điều phối từ công ty mẹ ở chính quốc.
Trong thời điểm diễn ra cúp bóng đá thế giới vào năm 1998, để đánh bóng thêm cho tên tuổi và thương hiệu Coca Cola tại thị trường Việt Nam thì công ty Coca Cola còn tiếp tục thực hiện việc tài trợ 1,3 tỷ đồng bất chấp sự không đồng ý của phía liên doanh Việt Nam. Đi đôi với chiến dịch khuyến mãi này là việc tăng dung tích chai Coca Cola từ 200 ml lên thành 300 ml (tương đương 50%) nhưng giá bán không đổi. Chiến dịch khuyến mãi này được quảng cáo rầm rộ trong suốt thời gian diễn ra cúp bóng đá thế giới trên các phương tiện truyền thông như các kênh truyền hình, đài phát thanh, và báo chí… Kết quả của chiến dịch khuyến mãi này đã làm cho công ty Coca Cola đã lỗ hết 20 tỷ đồng.
Bảng 2.9: Kết quả kinh doanh của công ty Coca Cola từ năm 1996 đến 1998
Ngoài những hoạt động như khuyến mãi quảng cáo thì tại công ty Coca Cola có một đặc điểm là có hơn 40% chi phí nguyên vật liệu cho sản xuất được nhập khẩu trực tiếp từ công ty mẹ. Đối với ngành sản xuất nước giải khát thì chi phí nguyên vật liệu chiếm hơn 50% trong tổng chi phí, vì vậy giá trị nguyên vật liệu nhập từ công ty mẹ là rất lớn. Do đó chắc chắn sẽ có hiện tượng nâng giá đầu vào tại khâu mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ.
Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty, xem xét tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60,14% trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%. Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh thu và chi phí tại công ty Coca Cola so sánh với các công ty trong cùng ngành sản xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi nhuận của ngành này.
Trong thời điểm mà Nhà nước chưa quản lý được giá mua nguyên vật liệu giữa công ty Coca Cola Chương Dương và công ty Coca Cola mẹ ở chính quốc thì có thể xảy ra tình trạng kê khai nâng giá mua vào trên hóa đơn so với giá thực tế (đây là hiện tượng chuyển giá). Mục đích của việc làm này là gây lỗ cho công ty tại Việt Nam nhưng công ty mẹ tại chính quốc sẽ thu lợi do giá nguyên vật liệu đuợc bán với giá cao. Đây cũng là một hình thức chuyển lợi nhuận về chính quốc trong khi công ty con tại Việt Nam phải chịu lỗ. So sánh tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán (NVL/GVHB) của công ty Coca Cola Chương Dương và hai công ty con của Coca Cola mẹ hoạt động tại Úc và Canada. Cả ba công ty này cùng mua nguyên vật liệu và hương liệu từ công ty mẹ trong bảng sau:
Bảng 2.10: So sánh tổng hợp giữa ba công ty Coca Cola con tại ba quốc gia:
Xem xét trong bảng phân tích chúng ta có thể thấy được là tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn của hai công ty Coca Cola Enterpises and Coca Cola Amati chỉ chiếm từ 31% đến 37%. Trong khi tỷ lệ nguyên vật liệu trên giá vốn hàng bán tại Coca Cola Chương Dương luôn luôn lớn hơn 80% trong cả hai năm 1997 và 1998. Điều này đã đặt ra câu hỏi tại sao lại có sự khác biệt quá lớn về tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu trong cùng một ngành sản xuất nước giải khát như vậy? Và điều này cũng khẳng định thêm là có hành vi chuyển giá trong các nghiệp vụ mua nguyên vật liệu từ công ty mẹ. Cụ thể hơn chúng ta có thể xem xét bảng số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương năm 1996
Bảng 2.11: Số liệu doanh thu và chi phí của công ty Coca Cola Chương Dương 1996
Tỷ trọng chi phí trên tổng chi phí năm 1996
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng chi phí trên tổng chi phí công ty Coca Cola Chương Dương năm 1996
2.2.2.4 Chuyển giá thông qua chênh lệch thuế suất Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Các trường hợp chuyển giá được xem xét ở trên là chuyển giá dựa vào sự chênh lệch thuế suất thuế TNDN giữa các quốc gia. Trong trường hợp của công ty Foster’s Việt Nam đã né tránh thuế tiêu thụ đặc biệt. Công ty Foster’s Việt Nam đã dựa vào luật pháp của Việt Nam tại thời điểm đó chưa được chặt chẽ để né tránh và lách thuế nhằm giám đáng kể số thuế phải nộp.
Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt Nam bán cho các đại lý là 240.000 đồng/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là 75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:
Giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt = Giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt/(1+thuế suất) =240.000/(1+75%) = 137.143 VND
Thuế tiêu thụ đặc biệt tính =137.143 x 75% = 102.857 VND
Như vậy với giá bán một két bia là 240.000 VND thì công ty bia Foster’s Việt Nam phải có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nhà nước là 102.857 VND. Với một số thuế nộp lớn như vậy thì chủ đầu tư của Foster’s Việt Nam đã tìm cách để lách thuế và nộp số thuế nhỏ hơn. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một công ty TNHH Foster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s của hai nhà máy bia cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Với giá bán như vậy thì thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp cho mỗi két bia sẽ là:
Công ty TNHH Foster’s Việt Nam bán bia ra thị trường thì công ty này phải nộp thêm thuế giá trị gia tăng là 5%. Giả sử giá bán một két bia không đổi vẫn là 240.000 VND/két thì số thuế giá trị gia tăng mà công ty TNHH bia Foster’s phải nộp là
Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng mà chủ đầu tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH Foster’s Việt Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu chúng ta đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập công ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương 31,60%). Với cách thực hiện này thì thuế TNDN mà chủ đầu tư phải nộp có thể là không thay đổi hoặc thay đổi theo hướng có lợi cho chủ đầu tư vì chủ đầu tư có thể đưa thêm các chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí khấu hao hay chi phí quảng cáo nhằm giảm số thuế TNDN phải nộp. Với trường hợp trên thì các chuyên gia tài chính nhận định mặc dù cơ quan nhà nước có thể nhận diện ra đây là một hành vi chuyển giá nhưng do pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó còn nhiều điểm chưa chặt chẽ hoặc không có điều luật chế tài đối với hành vi trên vì vậy mà cơ quan nhà nước không thể bắt bẻ về thủ thuật tách rời khâu sản xuất và khâu thương mại của công ty bia Foster nhằm mục đích lách thuế và giảm số thuế phải nộp.
2.2.2.5 Tìm hiểu một ví dụ thực tế chuyển giá theo phương pháp giá vốn cộng lãi Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Trong phần này tác giả sẽ trình bày một ví dụ thực tế của việc định giá bán nội bộ tại một tập đoàn kinh tế. Vì lý do nhạy cảm của vấn đề nên tác giả xin phép không nêu tên MNC và sản phẩm trong ví dụ mà chỉ gọi là MNC và sản phẩm là một loại dầu gội đầu.
Chi nhánh MNC tại Việt Nam là một trong những thành viên của MNC mà MNC này đã có nhiều chi nhánh đặt tại nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới. Do những điều kiện về kinh tế và lợi thế so sánh của các chi nhánh có mặt tại các quốc gia khác nhau mà MNC chọn chi nhánh tại Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu cho các nước. Chi nhánh MNC tại Việt Nam sẽ trở thành một chi nhánh chuyên sản xuất ra sản phẩm, sau đó cung cấp cho các chi nhánh của MNC tại các quốc gia khác. MNC tại Việt Nam sẽ thực hiện chào giá bán nội bộ cho các thành viên khác và việc báo giá nội bộ sẽ được thực hiện hàng quý hay theo một vài trường hợp cụ thể tùy theo yêu cầu của các thành viên trong nội bộ của MNC.
Sau đây là biểu mẫu chào giá mà MNC này đang thực hiện:
Để tính được bảng báo giá cho các công ty thành viên của MNC thì MNC tại Việt Nam cũng dựa vào phương pháp giá vốn cộng lãi để báo giá, đưa ra chi tiết bản tính cụ thể cho một tấn sản phẩm và một thùng sản phẩm. MNC tại Việt Nam sẽ đưa ra cấu trúc chi phí để sản xuất ra một tấn sản phẩm bao gồm những chi phí gì và lợi nhuận nội bộ mà MNC tại Việt Nam đã cộng vào một tấn hay một thùng sản phẩm. Giá bán của một thùng sản phẩm được tính bằng cách lấy giá bán của một tấn sản phẩm chia cho số lượng thùng để tạo thành một tấn sản phẩm.
Trong quá trình báo giá thì MNC tại Việt Nam cũng phải thể hiện rõ cấu trúc chi phí cấu thành nên giá thành của một tấn sản phẩm. Cấu trúc chi phí được thể hiện như sau :
Trong bảng cấu trúc chi phí này các yếu tố chi phí cấu thành nên giá của một tấn sản phẩm sẽ lại được tiếp tục chi tiết trong các bảng tính kèm theo. Để hiểu rõ hơn phương pháp tính giá nội bộ này, tác giả sẽ trình bày phương pháp tính toán của từng khoản mục chi phí trong bảng cấu trúc chi phí.
Trước tiên chúng ta đi vào tìm hiểu yếu tố chi phí nguyên liệu. Nguyên liệu để sản xuất ra một tấn sản phẩm dầu gội đầu có thể được mua từ trong nước hoặc nhập khẩu. MNC tại Việt Nam sẽ tính ra giá nguyên vật liệu cho sản phẩm xuất khẩu, và thông thường sẽ cộng thêm 10% chênh lệch giữa giá có thuế nhập khẩu và giá chưa có thuế nhập khẩu. Phần chênh lệch này là chi phí cho việc làm thủ tục hoàn thuế nhập khẩu đối với các nguyên liệu nhập khẩu. Vì vậy giá nguyên vật liệu tính cho xuất khẩu nội bộ sẽ được tính bằng giá mua không có thuế nhập khẩu cộng cho 10% chênh lệch giữa giá có thuế nhập khẩu và giá không có thuế nhập khẩu. Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
Ngoài yêu tố giá của nguyên liệu sản xuất cho xuất khẩu thì MNC tại Việt Nam cũng phải trình bày chi tiết tỷ trọng các nguyên liệu để cấu thành một tấn sản phẩm. Tỷ trọng này sẽ được phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm hay phòng kế hoạch sản xuất cung cấp.
Tương tự cho chi phí bao bì của sản phẩm như sau:
Trong phần tính toán chi phí bao bì đã chỉ ra được các chỉ số như số lượng sản phẩm cho một thùng, trọng lượng của một sản phẩm, số lượng thùng trên một tấn sản phẩm và số lượng sản phẩm trên một tấn sản phẩm. Các thông tin này giúp cho công ty nhập khẩu biết được số lượng sản phẩm để đưa ra quyết định nhập khẩu.
Chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi để sản xuất ra một tấn sản phẩm sẽ được bộ phận kế toán chi phí tại nhà máy cung cấp. Kế toán chi phí sẽ căn cứ vào số lượng giờ công và giờ máy chạy thực tế và đơn giá của một giờ công và giờ máy thực tế phát sinh để tính ra chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi.
Chi phí sản xuất chung sẽ được tính bằng cách lấy tổng của chi phí nguyên liệu, chi phí bao bì, chi phí sản xuất cố định và chi phí sản xuất biến đổi nhân với tỷ lệ đóng góp của chi phí sản xuất chung trong một đồng chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Tỷ lệ này được tính như sau:
Tỷ lệ chi phí sản xuất chung được tính bằng cách lấy tổng chi phí của các bộ phận liên quan phục vụ cho hoạt động xuất khẩu của công ty chia cho tổng chi phí sản phẩm sản xuất ra trong một năm.
Cộng các khoảng chi phí nguyên liệu, chi phí bao bì, chi phí sản xuất cố định, chi phí sản xuất biến đổi và chi phí sản xuất chung lại với nhau thì có được giá xuất xưởng của một tấn sản phẩm.
Nhìn vào bảng cấu trúc chi phí của sản phẩm chúng ta còn hai yếu tố chi phí là chi phí vận tải và lợi nhuận cộng thêm mà MNC tại Việt Nam sẽ cộng vào khi báo giá bán nội bộ, chi phí vận tải sẽ tùy thuộc vào điều kiện mua bán thỏa thuận giữa hai bên mua và bán sao cho có lợi nhất. Chi phí vận chuyển và bốc xếp hàng hóa này sẽ được cộng trực tiếp vào giá của một tấn sản phẩm hay một thùng sản phẩm được bán ra. Chúng ta xem bảng tính chi phí xuất nhập khẩu sau:
Sau khi đã tính đủ các chi phí cần thiết để cấu thành nên chi phí của 1 tấn sản phẩm thì MNC tại Việt Nam sẽ tính đến phần lợi nhuận mà MNC tại Việt Nam được hưởng. Phần lợi nhuận cộng thêm này được xác định bằng một tỷ lệ qui định trong nội bộ của MNC vì vậy lợi nhuận cộng thêm này sẽ không giống với lợi nhuận của hàng hóa mà MNC bán tại thị trường Việt Nam. Trong ví dụ này thì tỷ lệ lợi nhuận cộng thêm được tính bằng 10% tổng vốn tham gia vào sản xuất ra 1 tấn sản phẩm, tổng vốn tham gia vào sản xuất ra 1 tấn sản phẩm bao gồm vốn lưu động, hàng tồn kho, công nợ và vốn cố định tham gia vào sản xuất ra một tấn sản phẩm.
Cách tính lợi nhuận cộng thêm như sau:
Như vậy với mỗi tấn sản phẩm xuất khẩu thì phần lợi nhuận của MNC tại Việt Nam chính là phần lợi nhuận cộng thêm. Nếu tỷ lệ lợi nhuận cộng thêm không được tính toán khách quan thì hiện tượng chuyển giá sẽ xảy ra.
Kết Luận Chương 2:
Nhìn chung tất cả các trường hợp chuyển giá nêu trên của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đều thực hiện các thủ đoạn như là:
- Chủ động hạch toán thu lỗ thông qua các hình thức quảng cáo, khuyến mãi, tăng chi phí chuyên gia, chi phí đại diện nhằm mục đích đẩy phía liên doanh Việt Nam ra khỏi công ty dựa vào tiềm lực tài chính vững mạnh của các công ty mẹ ở nước ngoài.
- Thực hiện mọi biện pháp để giảm thiểu số thuế TNDN phải nộp tại Việt Nam, không loại trừ các hành vi lách luật và sai luật.
- Cố gắng chuyển lợi nhuận về nước càng nhiều càng tốt bằng cách thông qua các hình thức định giá cao tài sản, nguyên vật liệu đầu vào, các chi phí về bản quyền và bí quyết công nghệ để các công ty mẹ tại chính quốc sẽ được hưởng lợi trong khi công ty tại Việt Nam phải gánh chịu thua lỗ nặng nề.
- Thực hiện việc xâm nhập thị trường, chiếm lấy thị phần và cuối cùng đánh bật các đối thủ cạnh tranh nội địa ra khỏi thị trường nhờ các hình thức quảng cáo, khuyến mãi và tiếp thị. Khi đã xây dựng được một thương hiệu vững chắc, đồng thời đẩy phía đối tác Việt Nam ra khỏi liên doanh thì các MNC sẽ tha hồ khai thác thị trường và hưởng lợi. Với thế mạnh trên thị trường thì các MNC sẽ thao túng thị trường và tạo ra sự mất công bằng trong nghĩa vụ thuế so với các công ty nội địa đồng thời làm tổn hại, mất cân bằng cho nền kinh tế. Luận văn: Thực trạng chuyển giá thu hút vốn đầy tư tại VN
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp kiểm soát HĐ các Cty trong hội nhập KT