Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới biến động của giá cổ phiếu – Bằng chứng thực nghiệm tại các công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tp. HCM dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1. Cơ sở lý thuyết về kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

2.1.1. Khái niệm, mục đích của kiểm toán báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Kiểm toán là quá trình thu thập và đánh giá các bằng chứng về một thông tin nhằm xác định và báo cáo về sự phù hợp của thông tin này với các tiêu chuẩn được thiết lập. Quá trình kiểm toán phải được thực hiện bởi các KTV có đủ năng lực và độc lập”. (Arens et al., 2012).

Kiểm toán BCTC là việc KTV hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến về tính trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu của BCTC của đơn vị được kiểm toán theo quy định của chuẩn mực kiểm toán (Theo luật kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12).

Theo ISA 200, việc kiểm toán BCTC nhằm mục đích là tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với BCTC. Điều này đạt được thông qua việc các KTV đưa ra ý kiến về việc liệu BCTC có được lập và trình bày trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng hay không.

Từ đây có thể thấy rằng báo cáo kiểm toán là phương tiện truyền thông giữa KTV và người sử dụng BCTC. Nó đại diện cho khía cạnh quan trọng nhất của quy trình kiểm toán và KTV sử dụng báo cáo này để chuyển tải kết quả của quá trình kiểm toán đến những người sử dụng BCTC.

Theo Arens et al. (2006), nhu cầu về dịch vụ kiểm toán xuất phát từ nhiều yếu tố như khoảng cách xa giữa người sử dụng BCTC và người chuẩn bị các báo cáo này, xung đột lợi ích giữa những người sử dụng BCTC, sự phức tạp của các giao dịch kinh tế và những ảnh hưởng kỳ vọng của BCTC đối với việc ra quyết định.

Tuy nhiên, báo cáo kiểm toán – cụ thể là ý kiến kiểm toán thực sự có ý nghĩa hay không với các nhà đầu tư vẫn là một vấn đề còn chưa thống nhất. Estes và Reimer (1977), Houghton (1983), Robertson (1988) và Lin et al. (2003) cho rằng báo cáo kiểm toán không gây ra ảnh hưởng đáng kể trong các phân tích của họ. Tuy nhiên, Firth (1980), Gul (1987), Bessell et al. (2003) và Guillamon (2003) cho lại cho rằng báo cáo kiểm toán là một nguồn thông tin hữu ích cho các bên tham gia trong thị trường, và các loại ý kiến không phải chấp nhận toàn phần ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và quyết định đầu tư.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2. Các loại ý kiến kiểm toán báo cáo tài chính Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Ngày 06/12/2012, Bộ Tài Chính ra Thông tư 214/2012/TT-BTC ban hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, gồm 37 chuẩn mực kiểm toán mới, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 nhằm hướng đến hài hòa và hội tụ với quốc tế trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán. Theo đó, một số chuẩn mực cũ liên quan đến báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán đã được thay mới.

Để đạt được số lượng mẫu cần thiết cho nghiên cứu, bài viết sử dụng dữ liệu trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016, do đó một số báo cáo kiểm toán trong mẫu nghiên cứu được trình bày theo hệ thống chuẩn mực trước. Vì vậy, tác giả sẽ tóm tắt các nội dung liên quan đến cả hai hệ thống chuẩn mực và tiến hành so sánh.

Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cũ (Ban hành và công bố theo Quyết định 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 09 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và đã hết hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014)

Trong đoạn 34, chuẩn mực VSA 700 của hệ thống chuẩn mực này, căn cứ vào kết quả thực hiện kiểm toán, KTV có thể đưa ra một trong các loại ý kiến đối với BCTC của đơn vị được kiểm toán, như sau:

Ý kiến chấp nhận toàn phần

Báo cáo kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp KTV và công ty kiểm toán cho rằng BCTC phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). Ý kiến chấp nhận toàn phần cũng mang hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh BCTC.

Ý kiến chấp nhận từng phần

Báo cáo kiểm toán loại này được đưa ra trong trường hợp KTV và công ty kiểm toán cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà KTV đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa nếu vấn đề này ảnh hưởng trọng yếu đến BCTC thì BCTC đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.

Yếu tố tuỳ thuộc trong báo cáo do KTV nêu ra thường liên quan đến các sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và KTV. Việc đưa ra yếu tố tuỳ thuộc cho phép các KTV hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người sử dụng BCTC phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra.

Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược)

Báo cáo với ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà KTV cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của BCTC.

Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến)

Loại ý kiến kiểm toán từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra khi hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà KTV không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về BCTC.

Trong hệ thống 37 chuẩn mực kiểm toán mới, có hiệu lực từ 01/01/2014 có ba chuẩn mực quy định về báo cáo kiểm toán và ý kiến kiểm toán:

VSA 700: Hình thành ý kiến kiểm toán và báo cáo kiểm toán về BCTC;

VSA 705: Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần ;

VSA 706: Đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” và “Vấn đề khác” trong báo cáo kiểm toán về BCTC.

Theo hệ thống chuẩn mực mới này, ý kiến kiểm toán được phân loại như sau:

Ý kiến chấp nhận toàn phần

KTV đưa ra ý kiến dạng này khi kết luận rằng BCTC đã được lập, trên các khía cạnh trọng yếu, phù hợp với khuôn khổ về lập và trình bày BCTC được áp dụng. Ý kiến này hàm ý rằng:

  • KTV đã thu thập đầy đủ bằng chứng thích hợp về BCTC;
  • Mọi thay đổi về chính sách kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá đầy đủ và đã được công bố trong thuyết minh BCTC;

Không có nghi ngờ đáng kể về giả định hoạt động liên tục của đơn vị.

Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần

Theo VSA 705 “Ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần”, KTV không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong trường hợp:

  • BCTC, xét trên phương diện tổng thể, vẫn còn sai sót trọng yếu;
  • Không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để đưa ra kết luận rằng BCTC, xét trên phương diện tổng thể, không còn sai sót trọng yếu. Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Ý kiến này gồm các loại ý kiến:

Kiểm toán ngoại trừ

Dạng ý kiến này được trình bày khi KTV cho rằng BCTC chỉ phản ánh trung thực và hợp lý nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố ngoại trừ khi BCTC. Cụ thể KTV đưa ra dạng ý kiến này khi:

  • Các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC, hoặc
  • Không thể thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán để là cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán, nhưng các ảnh hưởng của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC.

Kiến kiểm toán trái ngược

Đây là trường hợp ngược lại của ý kiến chấp nhận toàn phần. KTV đưa ra ý kiến này khi các sai sót, xét riêng rẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. KTV phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở cho ý kiến. Đây là trường hợp mà các sai sót là quan trọng hoặc liên quan đến đa số khoản mục và làm cho tổng thể của BCTC bị sai sót trọng yếu đến mức phản ứng không trung thực và hợp lý về tình hình tài chính hoặc kết quả hoạt động của đơn vị. Lúc này, vì tính nghiêm trọng của vấn đề nên ý kiểm kiểm toán ngoại trừ là không thể áp dụng.

Từ chối đưa ra ý kiến

KTV đưa ra ý kiến này khi không thể thu thập được đầy đủ bằng chứng thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán và những ảnh hưởng có thể của các sai sót chưa được phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu và lan tỏa đối với BCTC. Nói cách khác, hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng và các thông tin bị thiếu liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức mà KTV không thể thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để có thể cho ý kiến về BCTC.

Kiến kiểm toán có đoạn giải thích về “Vấn đề cần nhấn mạnh” hoặc “vấn đề khác”

Theo chuẩn mực VSA 706, KTV sẽ thêm một đoạn với tiêu đề riêng “Vấn đề nhấn mạnh” ngay sau “Ý kiến kiểm toán” khi:

  • Muốn thu hút sự chú ý của người sử dụng đối với một vấn đề đã được trình bày hoặc đã thuyết minh trong BCTC, và
  • Vấn đề đó đặc biệt quan trọng để người sử dụng hiểu được BCTC, và
  • Vấn đề đó không bị sai sót trọng yếu trong BCTC.

Những tình huống cần sử dụng đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” để thu hút sự chú ý của người sử dụng BCTC có thể là:

Khuôn khổ về lập và trình bày BCTC theo yêu cầu của pháp luật và các quy định là không thể chấp nhận được nhưng đơn vị đó vẫn phải áp dụng vì đó là yêu cầu bắt buộc của pháp luật và các quy định;

Có sự tồn tại của yếu tố không chắc chắn liên quan đến sự kiện hoặc điều kiện có thể dẫn đến nghi ngờ đáng kể khả năng hoạt động liên tục của đơn vị được kiểm toán (giả định này là phù hợp và đã được thuyết minh đầy đủ trong BCTC của đơn vị được kiểm toán);

  • BCTC được lập theo khuôn khổ về lập và trình bày BCTC cho mục đích đặc biệt và do đó, BCTC này có thể không phù hợp cho mục đích khác;
  • BCTC kỳ trước có sai sót nhưng chưa được sửa chữa và chưa phát hành lại

BCKT, nhưng thông tin so sánh là dữ liệu tương ứng đã được trình bày lại một cách hợp lý hoặc đã có các thuyết minh phù hợp trong BCTC kỳ hiện hành.

KTV có thể thêm đoạn với tiêu đề riêng “Vấn đề khác” ngay sau đoạn “Ý kiến của

KTV” và sau đoạn “Vấn đề cần nhấn mạnh” khi:

  • Nhận thấy cần phải trao đổi về một vấn đề khác ngoài vấn đề đã được trình bày và thuyết minh trên BCTC;
  • Vấn đề đó là thích hợp để người sử dụng hiểu rõ hơn về cuộc kiểm toán và trách nhiệm của KTV hoặc về BCKT, đồng thời pháp luật và các quy định của không cấm việc này.
  • So sánh hai hệ thống chuẩn mực về phương diện ý kiến kiểm toán

Về phương diện ý kiến kiểm toán, hai hệ thống chuẩn mực này có một số khác biệt cơ bản sau:

  • Hệ thống 37 chuẩn mực mới sử dụng thuật ngữ ý kiến kiểm toán không phải ý kiến chấp nhận toàn phần, với ý nghĩa bao gồm ý kiến ngoại trừ, ý kiến không chấp nhận và ý kiến từ chối đưa ra ý kiến. Như vậy, theo như chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hiện hành, ý kiến kiểm toán được phân thành hai loại chính là ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần và ý kiến kiểm toán không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần.
  • Khi BCTC xuất hiện yếu tố trọng yếu nhưng không chắc chắn liên quan đến sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và KTV thì khi đó KTV đưa ra ý kiến có đoạn nhấn mạnh thay vì ý kiến chấp nhận từng phần tùy thuộc vào như chuẩn mực cũ. Như vậy, chuẩn mực kiểm toán hiện hành đã loại bỏ ý kiến chấp nhận từng phần dạng tùy thuộc vào so với chuẩn mực cũ.

Trong phần nội dung của luận văn, tác giả sử dụng 2 dạng ý là ý kiến kiểm toán ngoại trừ, hay ý kiến chấp nhận từng phần theo chuẩn mực cũ và ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh liên quan đến sự không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục hoặc khủng hoảng tài chính. Ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh được bao gồm trong mẫu nghiên cứu, mang ý nghĩa là một dạng ý kiến điều chỉnh, tách biệt với ý kiến chấp nhận toàn phần. Việc sử dụng dạng ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh liên quan đến sự không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục hoặc khủng hoảng tài chính là sự kế thừa từ các nghiên cứu trước như Chel et al., (2000), Bessel et al. (2003) Giuseppe Ianniello và Giuseppe Galloppo (2015).

2.2. Cơ sở lý thuyết về cổ phiếu và giá cổ phiếu

2.2.1. Cổ phiếu Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Luật Chứng khoán số 70/2006/QH-11 ngày 29 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nêu ra định nghĩa như sau: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành”.

2.2.2. Đặc điểm

Bản chất của cổ phiếu là loại giấy chứng nhận góp vốn, do đó không có kỳ hạn và không hoàn vốn;

Cổ tức của cổ phiếu tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, do đó không cố định;

Khi công ty phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn lại của tài sản thanh lý;

Giá cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy, đặc biệt là trên thị trường thứ cấp, do nhiều nhân tố nhưng nhân tố cơ bản nhất là hiệu quả kinh doanh và giá thị trường của công ty.

2.2.2. Các loại cổ phiếu Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Theo cách phân loại phổ biến nhất – dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt thành cổ phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.

Cổ phiếu phổ thông: là loại cổ phiếu phổ biến nhất trong các loại cổ phiếu của một công ty cổ phần. Các cổ đông sở hữu loại cổ phiếu này được quyền tự do chuyển nhượng, có đầy đủ quyền biểu quyết đối với các quyết định của công ty tại

Đại hội cổ đông và được hưởng cổ tức theo kết quả kinh doanh và giá trị cổ phiếu họ nắm giữ.

Cổ phiếu ưu đãi: là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu trong một công ty, đồng thời cho phép người nắm giữ loại cổ phiếu này được hưởng một số quyền lợi ưu tiên hơn so với cổ đông phổ thông. Người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi được gọi là cổ đông ưu đãi của công ty.

Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, tác giả chỉ tập trung vào cổ phiếu phổ thông (hay cổ phiếu thường).

2.2.3. Giá cổ phiếu thường

Các hình thức giá của cổ phiếu thường gồm:

  • Mệnh giá của cổ phiếu thường: Giá trị ghi trên giấy chứng nhận cổ phiếu là mệnh giá cổ phiếu. Mệnh giá của mỗi cổ phiếu chỉ có giá trị danh nghĩa.
  • Giá trị sổ sách: là giá của cổ phiếu ghi trên sổ sách kế toán phản ánh tình trạng vốn cổ phần của công ty ở một thời điểm nhất định.

Trường hợp công ty chỉ phát hành cổ phiếu thường thì giá trị sổ sách của một cổ phiếu thường được xác định bằng cách lấy vốn chủ sở hữu hoặc tổng giá trị tài sản thuần (phần giá trị chênh lệch giữa giá trị tổng tài sản với tổng số nợ) của công ty chia cho tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành. Trường hợp công ty phát hành cả cổ phiếu ưu đãi, thì phải lấy tổng giá trị tài sản thuần trừ đi phần giá trị thuộc cổ phiếu ưu đãi rồi mới chia cho số cổ phiếu thường đang lưu hành.

Giá trị nội tại: là giá trị thực của cổ phiếu tại thời điểm hiện tại, được tính toán căn cứ vào cổ tức công ty, triển vọng phát triển của công ty và lãi suất thị trường. Đây là căn cứ quan trọng cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào cổ phiếu, đánh giá được giá trị thực của cổ phiếu, so sánh với giá của thị trường và chọn lựa phương án đầu tư có hiệu quả nhất.

Giá trị thị trường: là giá cả cổ phiếu trên thị trường tại một thời điểm nhất định. Tùy theo quan hệ cung cầu mà giá thị trường có thể thấp hơn, cao hơn hoặc bằng giá trị thực của nó tại thời điểm mua bán. Quan hệ cung cầu cổ phiếu, lại bị tác động bởi nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, xã hội, …trong đó yếu tố quan trọng nhất là giá thị trường của công ty và khả năng sinh lợi của nó. Do đó, giá thị trường của một cổ phiếu thường xuyên biến động.

2.3. Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới sự biến động giá cổ phiếu Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

2.3.1. Ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới sự biến động giá cổ phiếu

Báo cáo hàng năm của các công ty được lập theo các tiêu chuẩn được thiết lập, theo luật, chuẩn mực của từng quốc gia, khu vực như các nguyên tắc được chấp nhận chung GAAP, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế IFRS. Các báo cáo này cần được công bố ra công chúng để thông tin cho các bên liên quan của doanh nghiệp.

Tại Việt Nam, theo thông tư số 155/2015/TT-BTC, ngày 06 tháng 10 năm 2015, Công ty đại chúng phải công bố BCTC năm đã được kiểm toán trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tổ chức kiểm toán ký báo cáo kiểm toán nhưng không vượt quá 90 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Trường hợp công ty đại chúng không thể hoàn thành việc công bố BCTC năm trong thời hạn nêu trên do phải lập BCTC năm hợp nhất hoặc BCTC năm tổng hợp; hoặc do các công ty con, công ty liên kết của công ty đại chúng cũng phải lập BCTC năm có kiểm toán, BCTC năm hợp nhất hoặc BCTC năm tổng hợp thì Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn thời gian công bố BCTC năm khi có yêu cầu bằng văn bản của công ty, nhưng tối đa không quá 100 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính bảo đảm phù hợp với quy định pháp luật liên quan.

Ảnh hưởng kỳ vọng của người sử dụng báo cáo là một nhân tố quan trọng đứng sau nhu cầu cho dịch vụ này. Báo cáo kiểm toán là một trung gian truyền thông giữa các KTV và người sử dụng báo cáo, do đó báo cáo này phải dễ hiểu, khách quan và được chấp nhận bởi người sử dụng như là một nguồn thông tin thích hợp. Sự thích hợp của báo cáo có nghĩa nó phải tạo ra sự khác biệt trong việc đưa ra quyết định, ngược lại, người sử dụng báo cáo sẽ không đọc báo cáo và sẽ không xem xét nó trong quá trình ra quyết định. Theo Al-Thuneibat et al., (2008), ảnh hưởng lên việc ra quyết định có nghĩa là báo cáo kiểm toán phải có nội dụng thông tin có ý nghĩa, ảnh hưởng tới quyết định đầu tư, quyết định vay nợ và giá cổ phiếu.

Bằng chứng thực nghiệm ở Trung Quốc bởi Chen et al (2000) cho thấy ý kiến kiểm toán chấp nhận toàn phần với đoạn vấn đề cần nhấn mạnh liên quan đến sự không chắc chắn về khả năng hoạt động liên tục hoặc khủng hoảng tài chính ảnh hưởng tiêu cực tới biến động giá cổ phiếu. Nghiên cứu đã đưa ra giải thích rằng các KTV đã sử dụng ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh như một sự thay thế thuận tiện cho ý kiến kiểm toán ngoại trừ để họ không mất khách hàng trong khi tránh được việc vi phạm các chuẩn mực kiểm toán. Do đó, loại ý kiến này như một chỉ báo tiêu cực cho các nhà đầu tư. Giuseppe Ianniello and Giuseppe Galloppo, (2015) tìm thấy ảnh hưởng tiêu cực của ý kiến kiểm toán ngoại trừ lên biến động giá cổ phiếu tại Italia, hàm ý một dấu hiệu tiêu cực. Tuy nhiên, ý kiến chấp nhận toàn phần với đoạn nhấn mạnh nhận được kết quả là tạo ảnh hưởng tích cực đối với biến động giá cổ phiếu. Điều này được giải thích trong bối cảnh ở Ý rằng, loại ý kiến này như một đánh giá thuận lợi liên quan đến khả năng hoạt động liên tục, đặc biệt ở các công ty đang rất khó khăn. Nhóm tác giả đã cho rằng có thể các nhà đầu tư có thể đã đánh giá cao giá trị của ý kiến kiểm toán khi lựa chọn giữa việc đưa ra một trong hai loại ý kiến với ranh giới rất mong manh bởi kết luận của KTV.

2.3.2. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới biến động giá cổ phiếu Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Các nghiên cứu liên quan về phản ứng của giá cổ phiếu trên thế giới và ở Việt Nam, theo tìm hiểu của tác giả, hầu hết sử dụng phương pháp nghiên cứu nghiên cứu sự kiện. Một số khái niệm, nội dung liên quan đến phương pháp thực hiện nghiên cứu này:

Phương pháp nghiên cứu sự kiện (Event Study Methodology)

Các nhà nghiên cứu thường được được yêu cầu đo lường ảnh hưởng của một sự kiện kinh tế lên giá trị công ty. Điều này dường như là một nhiệm vụ khó khăn nhưng nó có thể được hiện dễ dàng bằng một nghiên cứu sự kiện. Sử dụng dữ liệu thị trường tài chính, một nghiên cứu sự kiện đo lường ảnh hưởng của một sự kiện cụ thể lên giá trị công ty. Tính hữu ích của phương pháp này đến từ thực tế là, với một mức độ hợp lý của thị trường, sự ảnh hưởng của một sự kiện sẽ được phản ánh ngay lập tức trong thị trường cổ phiếu. Vì vậy, việc đo lường ảnh hưởng về mặt kinh tế có thể được thực hiện bằng việc quan sát giá cổ phiếu trong một khoảng thời gian ngắn (MacKinlay, 1997).

Phương pháp cửa sổ sự kiện là một trong những công cụ phân tích được sử dụng thường xuyên nhất trong nghiên cứu tài chính. Mục tiêu của một nghiên cứu sự kiện là để đánh giá xem liệu có bất cứ khoản thu nhập bất thường hoặc thu nhập vượt trội nào phát sinh bởi người nắm giữa cổ phiếu kèm theo bởi một sự kiện cụ thể nào đó (ví dụ như thông báo lợi nhuận, thông báo sáp nhập, thông báo chia tách cổ phiếu,…) (Pamela P. Peterson ,1989).

Cửa sổ sự kiện (event window):

Nhiệm vụ đầu tiên để thực hiện một nghiên cứu sự kiện là xác định ngày sự kiện và xác định khoảng thời gian mà giá cổ phiếu của các công ty liên quan trong nghiên cứu sự kiện được kiểm tra – Đây là cửa sổ sự kiện (MacKinlay, 1997).

Cửa sổ sự kiện có thể là ngày sự kiện được đưa ra công chúng cộng, trừ một số ngày. Việc xác định cửa sổ sự kiện dài hay ngắn phụ thuộc vào tính chất hiệu quả của thị trường vì khả năng các thông tin có thể bị rò rỉ ra công chúng trước ngày sự kiện được công bố chính thức. Do đó, cửa sổ sự kiện thường được chia thành ba giai đoạn nhỏ, gồm thời gian trước sự kiện, ngày sự kiện và thời gian sau sự kiện (Glenn V. Henderson, Jr, 2000). Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

Thu nhập bình thường (normal return) và thu nhập bất thường (abnormal return)

Trước khi tính toán thu nhập, cần phân biệt giữa hai giai đoạn trong loại nghiên cứu này. Giai đoạn ước lượng, các ước lượng được tính toán ở giai đoạn này. Những ước lượng này được sử dụng để tính toán thu nhập kỳ vọng hay thu nhập bình thường cho mỗi công ty trong giai đoạn cửa sổ sự kiện (Glenn V. Henderson, Jr, 2000). Thu nhập bất thường là sự khác biệt giữa thu nhập quan sát được và một giá trị thu nhập được tính toán bởi mô hình – thu nhập bình thường (Pamela P. Peterson,1989).

Trong các nghiên cứu sự kiện, mô hình được sử dụng phổ biến nhất để ước lượng thu nhập bất thường là mô hình thị trường (MacKinlay, 1997). Ngoài ra có thể sử dụng hoặc mô hình thu nhập điều chỉnh trung bình, hoặc một số mô hình phân tích khác như mô hình nhân tố. Dựa vào tổng kết lý thuyết của MacKinlay (1997) và Glenn V. Henderson, Jr, 2000), tác giả tổng kết, tóm tắt nội dung của một số mô hình ước lượng như sau:

Mô hình thị trường

Theo mô hình này, phân tích sử dụng một cửa sổ ước lượng (thường 120 ngày) trước của sổ sự kiện để xác định mối quan hệ giữa cổ phiếu của công ty và chỉ số giá thị trường thông qua phân tích hồi quy. Dựa vào hệ số hồi quy, thu nhập sẽ được dự đoán và được sử dụng để tính toán thu nhập bất thường.

Mô hình thị trường được mô tả bằng công thức sau:

αi: Giới hạn chặn

βi  : Đo lường tác động của thu nhập thị trường trên thu nhập của cổ phiếu i

Ri,t : Thu nhập cổ phiếu i tại ngày t

Rm.t : Thu nhập của thị trường tại ngày t (được tính toán từ một danh mục thị trường hoặc một chỉ số thị trường).

ARi,t : Thu nhập bất thường của cổ phiếu i tại ngày t

, ̂ : Là ước lượng của α, β từ phương pháp bình phương bé nhất OLS.

Trong mô hình thị trường có xét đến tác động của thị trường lên thu nhập của cổ phiếu do đó phương sai thu nhập bất thường của mô hình này giảm xuống.

Mô hình thu nhập điều chỉnh trung bình

Trong cách tiếp cận của mô hình này, việc thiếu thông tin mới, được kỳ vọng tạo ra mức thu nhập giống kết quả được tính trung bình trong giai đoạn ước lượng.

Với ERi,t là thu nhập trung bình của chứng khoán i, được tính toán từ một khoản thời gian ước lượng, công thức xác định như sau:

ERi,t

Từ đó tính thu nhập bất thường theo công thức

ARi,t  =Ri,t – ERi

Các mô hình phân tích khác

Một số mô hình phân tích khác đã được đề xuất. Một loại mô hình phân tích được sử dụng là mô hình nhân tố. Các mô hình nhân tố được thúc đẩy bởi lợi ích của việc giảm sai lệch của thu nhập bất thường bằng cách giải thích nhiều hơn sự sai lệch của thu nhập bình thường. Nhân tố điển hình được xem xét là danh mục các chứng khoán được giao dịch. Mô hình thị trường là ví dụ của kiểu mô hình một nhân tố. Những mô hình đa nhân tố khác bao gồm các chỉ số ngành bổ sung ngoài chỉ số thị trường. Một biến thể khác của mô hình nhân tố là việc tính toán thu nhập bất thường bằng cách tính toán mức chênh lệch giữa thu nhập bình thường và thu nhập của danh mục các công ty có cùng kích cỡ giống nhau, với kích cỡ công ty được đo lường bằng giá trị vốn hóa thị trường. Tuy nhiên, mô hình này có những giới hạn như chỉ áp dụng hiệu quả khi những quan sát trong mẫu có những đặc điểm chung như cùng một ngành,…

Trên cơ sở tổng kết và kế thừa từ những nguyên cứu thực hiện gần đây như Al-Thuneibat et al., (2008), Moradi et al., (2011), Giuseppe Ianniello and Giuseppe Galloppo, (2015), tác giả sử dụng phương pháp sự kiện và sử dụng mô hình thị trường (MacKinlay, 1997) để đo lường ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới biến động giá cổ phiếu.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 bao gồm những lý thuyết nền tảng liên quan đến các vấn đề trong nội dung nghiên cứu của đề tài. Cụ thể, nội dung chương này đã trình bày một số vấn đề liên quan đến giá cổ phiếu, báo cáo kiểm toán, các loại ý kiến kiểm toán; mối quan hệ kỳ vọng giữa ý kiến kiểm toán và giá cổ phiếu và cách thức đo lường ảnh hưởng của mối quan hệ này. Những nội dung lý thuyết này là nền tảng quan trọng để tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của ý kiến kiểm toán tới biến động giá cổ phiếu. Việc xây dựng giả thuyết nghiên cứu, phương pháp thực hiện và kết quả thực nghiệm sẽ được trình bày cụ thể trong các chương tiếp theo. Luận văn: Thực trạng báo cáo tài chính và ý kiến kiểm toán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng về kiểm toán tới biến động của giá cổ phiếu

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x