Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài

Trải qua chặng đường hơn 20 năm phát triển, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã chuyển biến đáng kể, ngày một hoàn thiện và hiệu quả hơn từ khi mới đi vào hoạt động năm 2000. Khuôn khổ pháp lý, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện và đồng bộ; sản phẩm, dịch vụ của thị trường ngày càng đa dạng và mở rộng; năng lực quản lý, điều hành và giám sát thị trường chứng khoán được nâng cao. Quy mô vốn hóa TTCK có sự tăng trưởng vượt bậc, từ mốc sơ khai chỉ đạt 986 tỷ đồng, chiếm 0,28% GDP tại năm 2000, đến giữa tháng năm 2020 giá trị vốn hóa TTCK đạt 94,8% GDP. Điều này đã góp phần định hình hệ thống tài chính hiện đại trên nền tảng hài hòa giữa TTCK và thị trường tiền tệ – tín dụng. Cùng với sự gia tăng về quy mô, số lượng công ty chứng khoán (CTCK) trên thị trường cũng tăng vọt. Từ khởi điểm chỉ là 6 CTCK, số lượng CTCK trên thị trường Việt Nam có thời điểm lên tới con số hơn 100, sau nhiều cuộc sáp nhập, giải thể hiện vẫn có 74 CTCK trên thị trường. Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Chính quy mô thị trường ngày một lớn mạnh như vậy tạo ra rất nhiều thuận lợi cũng như thách thức cho các CTCK hoạt động hiệu quả. Với tư cách là một chủ thể trên TTCK, các CTCK đã và đang góp phần làm tăng tính sôi động và hiệu quả của thị trường và nhờ đó, hiệu quả hoạt động của CTCK cũng dần được cải thiện. Tuy nhiên, so với các đối thủ là các CTCK nước ngoài, năng lực cạnh tranh (NLCT) của các CTCK Việt Nam vẫn được đánh giá là thấp. Đặc biệt, Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), là Công ty chứng khoán đầu tiên được thành lập và tiên phong trên thị trường chứng khoán Việt Nam nhưng trong những năm gần đây đã đánh mất vị thế và bị các CTCK trẻ hơn vượt mặt về thị phần. Trước áp lực đang được tạo ra bởi hội nhập kinh tế, bởi sự hiện diện của các CTCK nước ngoài vượt trội về đẳng cấp tại Việt Nam cũng như áp lực cạnh tranh khốc liệt từ các CTCK trong nước khác, BVSC sẽ khó phát triển bền vững, khó đảm đương được trọng trách trên TTCK nếu không tiếp tục nâng cao NLCT.

Cạnh tranh và bài toán phân tích NLCT của doanh nghiệp tại Việt Nam là vấn đề luôn thu hút được nhiều sự quan tâm từ nhiều đối tượng khác nhau. Có thể nói các đề tài nghiên cứu liên quan đến năng lực cạnh tranh đã được thực hiện với tần suất dày đặc trong những năm gần đây và phổ biến tại mọi lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Đối với lĩnh vực tài chính – chứng khoán, con số các đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh cụ thể đã lên tới con số vài chục đề tài, trong đó các đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán cũng chiếm một phần không nhỏ. Các đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực chứng khoán khá đa đạng, phong phú.

Với vai trò một trung gian tài chính quan trọng của TTCK, các CTCK nói chung và công ty BVSC nói riêng sẽ không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh trên TTCK, đảm bảo chỗ đứng vững chắc, vị thế vững chắc để phát triển bền vững. Tuy nhiên với số lượng các CTCK tăng nhanh và đóng vai trò quan trọng trong các giao dịch chứng khoán trên thị trường, CTCK tại Việt Nam chưa thực sự có các nghiên cứu chuyên sâu về NLCT của họ. Chính vì lý do đó, tác giả đã lựa đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt” để nghiên cứu.

Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) là công ty chứng khoán hàng đầu và uy tín trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và đầu tư chuyên nghiệp cho tất cả các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân, các quỹ và ngân hàng đầu tư danh tiếng trong nước và nước ngoài. Được thành lập từ năm 1999 với cổ đông sáng lập là Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (nay là Tập đoàn Bảo Việt), trực thuộc Bộ Tài chính, BVSC kế thừa thương hiệu uy tín và thế mạnh tài chính của một Tập đoàn tài chính bảo hiểm hùng mạnh. Với vai trò Công ty chứng khoán đầu tiên được thành lập và tiên phong trên thị trường chứng khoán, BVSC đã liên tục nâng cao năng lực tài chính, không ngừng củng cố hoạt động, đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, hoàn thiện, nâng cao chất lượng dịch vụ và trở thành một trong những công ty chứng khoán uy tín hàng đầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam. BVSC đã liên tiếp được đón nhận các giải thưởng và bình chọn đánh giá của các tổ chức lớn có uy tín trong nước và nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực hoạt động. Về lĩnh vực tư vấn, với đội ngũ chuyên gia chuyên nghiệp và giàu kinh nghiệm, BVSC đã được vinh danh với giải thưởng “Nhà tư vấn M&A tiêu biểu” do báo Đầu tư Chứng khoán và Bộ Kế hoạch Đầu tư phối hợp tổ chức trong hai năm liên tiếp 2011&2012, năm 2014,2015 BVSC một lần nữa được vinh danh là Tổ chức Tư vấn cổ phần hóa tiêu biểu nhất. Các thương vụ M&A do BVSC tư vấn cũng được bình chọn là những thương vụ tiêu biểu nhất trên thị trường. Về lĩnh vực môi giới, BVSC đã từng liên tục giữ vị trí trong TOP 10 CTCK có thị phần giao dịch lớn nhất trên 2 sàn HSX và HNX và trong TOP 3 CTCK có thị phần môi giới trái phiếu lớn nhất thị trường. Tuy nhiên, trong những năm trở lại đây, BVSC gặp phải sự cạnh tranh đáng kể từ các công ty chứng khoán nước ngoài cũng như sự nổi lên của các công ty chứng khoán nội địa. Trong bối cảnh đó, BVSC đã phải thực hiện nhiều phương án đối phó với tình trạng này. Bên cạnh đó, diễn biến phức tạp của đại dịch COVID – 19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Vì vậy, luận văn sẽ tìm hiểu thực tế, lý do cho việc giảm vị thế và đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty BVSC.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Kinh Tế

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

Từ khi thị trường chứng khoán của Việt Nam ra đời và phát triển mạnh mẽ, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về thị trường tài chính, thị trường chứng khoán nói chung và công ty chứng khoán nói riêng. Trong đó, chủ đề về năng lực cạnh tranh trong các công ty chứng khoán đã thu hút nhiều mối quan tâm của các nhà nghiên cứu. Dưới đây là một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về năng lực cạnh tranh, về hoạt động công ty chứng khoán và nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán.

  • Sách tham khảo “Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế” của GS.TS Chu Văn Cấp, NXB Chính trị quốc gia (2003);
  • “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế” của TS. Nguyễn Vĩnh Thanh, NXB Lao động – xã hội (2005);
  • “Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” của TS. Vũ Trọng Lâm, NXB Chính trị quốc gia (2006);
  • “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa” của tác giả Trần Sửu, NXB Lao động (2006);
  • “Tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ” của GS.TS Phạm Quang Trung, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân (2006)

Một số công trình nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán:

  • Luận án tiến sĩ của Nguyễn Duy Hùng (2016), Nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán Việt Nam, Đại học Kinh tế quốc dân.
  • Nguyễn Duy Thanh, Phạm Long (2015), Nâng cao năng lực cạnh tranh cho công ty chứng khoán – Một nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 214 tháng 4/2015.
  • Lê Đức Tố (2018), Năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán trong điều kiện hiện nay, Tạp chí Tài chính tháng 6/2018.
  • Vũ Thanh Hương và Ngô Thanh Loan (2017), Nâng cao năng lực cạnh tranh của các công ty chứng khoán Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Công thương tháng 6/2017.

Các công trình nghiên cứu trên đã nhấn mạnh đến sự phát triển mạnh mẽ của các công ty chứng khoán ở Việt Nam, trở thành chủ thể trung gian quan trọng trên thị trường, cung cấp hầu hết mọi dịch vụ từ môi giới, bảo lãnh phát hành, tư vấn… Tuy nhiên, trong quá trình cạnh tranh, nhiều công ty chứng khoán tiềm lực yếu đã và sẽ bị đào thải hoặc bị sáp nhập và thị trường chỉ còn lại những công ty có năng lực, cung cấp được những dịch vụ làm thỏa mãn tối ưu nhu cầu của khách hàng. Các công trình nghiên cứu đã đánh giá thực trạng hoạt động của các công ty chứng khoán hiện nay tại Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh của các công ty trong thời gian tới. Tuy vậy, trong phạm vi hiểu biết của học viên, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về năng lực cạnh tranh của Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cũng như đánh giá khả năng cạnh tranh của BVSC thông qua một hệ thống các tiêu chí về tài chính. Vì vậy, luận văn này không hoàn toàn trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã có, đồng thời có một số đóng góp mới về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn:

Đề xuất các giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán BVSC.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:

  • Hệ thống hóa vấn đề lý luận khoa học về năng lực cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán;
  • Nghiên cứu yếu tố bên trong tác động đến năng lực cạnh tranh của BVSC;
  • Đề xuất giải pháp tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh cho BVSC, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế khó khăn do COVID-19.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Để đảm bảo xây dựng và phân tích được dữ liệu minh bạch nhằm phản ánh tốt nhất kết quả nghiên cứu, tác giả sử dụng đối tượng nghiên cứu là Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC), với tìm hiểu thực tế một số “case study” từ các CTCK niêm yết khác trên TTCK Việt Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt không gian: Bao gồm Hội sở của BVSC tại Thủ đô Hà Nội và chi nhánh BVSC tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Về mặt thời gian: học viên tiến hành khảo sát, thu thập số liệu trong giai đoạn 2016 – 2020, trong đó một số phân tích dựa vào dữ liệu kể từ khi TTCK Việt Nam thành lập đến nay và một số số liệu được cập nhật cho tới năm 2021. Theo đó, giới hạn phạm vi nghiên cứu này sẽ không làm ảnh hưởng tới kết quả tổng thể cũng như mục tiêu nghiên cứu của luận văn. Các đơn vị được nhắc đến trong nghiên cứu đều có tính tiêu biểu cao. Mặt khác, luận văn cũng sẽ đưa ra những phân tích, nhân định có tính tổng quát đối với từng vấn đề, những nhận định này sẽ được làm rõ hơn qua việc phân tích môi trường cạnh tranh và CTCK cụ thể.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Phương pháp luận: Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng XHCN nói chung, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán… nói riêng.

Phương pháp thu thập dữ liệu: thu thập các nguồn dữ liệu qua việc sử dụng hồ sơ, báo cáo, tài liệu có sẵn

Phương pháp nghiên cứu:

Từ quan điểm của M. Porter, Thompson – Strickland và các lý thuyết khác, với 13 nhóm yếu tố bên trong cấu thành NLCT của một công, tác giả xác định đi sâu phân tích 06 nhóm yếu tố phản ánh NLCT của BVSC, bao gồm:

  • Chất lượng sản phẩm của CTCK;
  • Chất lượng dịch vụ khách hàng của CTCK;
  • Thương hiệu, uy tín và hoạt động xúc tiến của CTCK;
  • Tiềm lực tài chính của CTCK;
  • Tiềm lực về vốn trí tuệ của CTCK;
  • Trình độ công nghệ của CTCK.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn vận dụng mô hình đánh giá các yếu tố nội bộ của Thompson và Strickland [2, tr. 21] để phân tích, đánh giá hệ thống 06 yếu tố bên trong tác động đến năng lực cạnh tranh của BVSC, bao gồm yếu tố về tiềm lực tài chính; vốn trí tuệ; chất lượng sản phẩm; trình độ công nghệ; chất lượng dịch vụ; thương hiêu, uy tín và hoạt động xúc tiến. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao NLCT của BVSC như:

  • Xây dựng mô hình tổ chức chặt chẽ, xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên, xác định các tiêu chí thực hiện trong thu hút nhân tài, nghiên cứu phát triển sản phẩm nhằm cụ thể hoá và nâng cao năng lực trí tuệ cho các CTCK;
  • Xây dựng yêu cầu về công nghệ tổng thể cho hoạt động của CTCK, xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ cập nhật của công nghệ cũng như ứng dụng công nghệ mới vào sản phẩm dịch vụ, các vấn đề liên quan đến giao dịch trực tuyến đảm bảo thông suốt 24/24, suôn sẻ… được cụ thể hoá thành các yêu cầu cần có nhằm đẩy mạnh năng lực công nghệ cho sự phát triển của CTCK.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm các phần mở đầu, kết luận và 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán

Chương 2: Thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty cồ phần chứng khoán Bảo Việt

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm công ty chứng khoán

1.1.1.1. Khái niệm

Theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của UBCKNN “CTCK là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số các loại hình kinh doanh chứng khoán”.

Tại Việt Nam, theo Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 của Quốc hội thì Công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty TNHH thành lập theo pháp luật Việt Nam để kinh doanh theo Giấy phép do UBCKNN cấp, theo đó CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ kinh doanh sau:

  • Môi giới chứng khoán
  • Tự doanh chứng khoán
  • Bảo lãnh phát hành chứng khoán
  • Tư vấn đầu tư chứng khoán

Như vậy, CTCK được hiểu là một tổ chức tài chính trung gian được thành lập theo pháp luật, thực hiện một và/hoặc một số hoạt động trên TTCK.

1.1.1.2. Đặc điểm công ty chứng khoán

CTCK là một tổ chức tài chính trung gian hoạt động trên TTCK – một thị trường có mức độ nhạy cảm cao và có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Do vậy, CTCK thuộc loại hình kinh doanh có điều kiện, tức là để có thể tiến hành một hoặc một số các hoạt động trên TTCK, CTCK phải đáp ứng các điều kiện do luật pháp qui định cũng như những nguyên tắc ứng xử riêng của ngành chứng khoán. Điều kiện này chính là những đặc điểm khác biệt giữa hoạt động của CTCK với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. Đặc điểm này bao gồm:

Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về giao dịch:

TTCK hoạt động với đặc điểm khác biệt với các thị trường khác là người mua và người bán không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận giá và tiến hành giao dịch, mà họ phải giao dịch thông qua hệ thống các CTCK. CTCK có nhiệm vụ nhận lệnh của người mua và người bán, sau đó nhập các lệnh này vào hệ thống. Hệ thống sẽ tự động so khớp các lệnh với nhau, cuối cùng sẽ đưa ra một mức giá khớp tốt nhất với một khối lượng khớp nhất định. Ngày nay khách hàng có thể tự nhập các lệnh giao dịch trực tuyến (online) trên các nền tảng giao dịch do CTCK cung cấp,

Công ty chứng khoán là trung gian cung cấp thông tin:

Công ty chứng khoán với trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, cùng với đội ngũ nhân viên có trình độ cao trong việc thu thập xử lý và phân tích thông tin liên quan đến chứng khoán thành những thông tin có ích, phục vụ cho việc ra quyết định đầu tư của CTCK cũng như của nhà đầu tư. CTCK sẽ cung cấp thông tin cho khách hàng thông qua nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư… Nhờ đó, khách hàng có thể được sử dụng những thông tin một cách có hiệu quả với chi phí thấp hơn rất nhiều so với vịêc họ tự thu thập, xử lý thông tin.

CTCK là tổ chức trung gian về vốn giữa người mua và người bán:

Đặc điểm này của CTCK được thể hiện trong nghiệp vụ cho vay ứng trước, cho vay ký quỹ… CTCK sẽ hỗ trợ vốn cho khách hàng khi khách hàng đã thực hiện lệnh bán thành công nhưng tiền chưa kịp về tài khoản hoặc trong trường hợp khách hàng muốn mua số chứng khoán nhiều hơn số tiền đang có dựa trên một tỷ lệ nhất định. Công ty chứng khoán sẽ hưởng lãi suất trên số vốn hỗ trợ cho nhà đầu tư. Điều này sẽ giúp khách hàng có thêm cơ hội đầu tư, đồng thời tạo thu nhập cho CTCK.

Công ty chứng khoán là tổ chức trung gian về rủi ro:

Với những ưu thế về thông tin, nguồn vốn, CTCK có thể giảm thiểu rủi ro cho khách hàng thông qua hoạt động uỷ thác đầu tư, bảo lãnh phát hành chứng khoán. CTCK có thể tập trung vốn của khách hàng có nhu cầu, sau đó thực hiện giảm thiểu rủi ro cho khách hàng thông qua các danh mục đầu tư hiệu quả hơn, chia sẻ rủi ro với các tổ chức phát hành thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành.

Công ty chứng khoán là trung gian thanh toán:

Công ty chứng khoán là một thành viên của Sở Giao dịch Chứng khoán và thành viên của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán, qua đó thực hiện chức năng của một trung gian thanh toán. Chức năng này được thể hiện thông qua việc thanh toán giữa người mua và người bán trên TTCK. Trên cơ sở dữ liệu của Sở Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký Chứng khoán gửi về, CTCK sẽ thực hiện việc hạch toán tiền và chứng khoán cho người bán và người mua.

Đặc điểm về xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng:

CTCK cung cấp dịch vụ môi giới cho khách hàng, tuy nhiên CTCK cũng chính là một nhà đầu tư đặc biệt thông qua hoạt động tự doanh chứng khoán. Cả CTCK và khách hàng đều có chung mục tiêu khi tham gia thị trường là tìm kiếm lợi nhuận, do đó đôi khi xảy ra xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng.

Ngoài ra, giữa khách hàng và CTCK cũng xảy ra xung đột lợi ích như trên khi CTCK vừa cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, vừa thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Xung đột lợi ích này rất dễ xảy ra khi nhân viên CTCK không đề cao đạo đức nghề nghiệp và tư vấn bất lợi cho khách hàng nhằm thu lợi cho CTCK. Đặc điểm này tạo ra sự khác biệt trong hoạt động của CTCK với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác.

CTCK là tổ chức kinh doanh có điều kiện, thể hiện bởi các yếu tố:

Điều kiện về vốn:

Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại không bị các ràng buộc về vốn pháp định. Tuy nhiên, do hoạt động của CTCK không chỉ ảnh hưởng tới chính CTCK mà còn ảnh hưởng đến một bộ phận rất lớn nhà đầu tư, vì vậy pháp luật các nước đều đưa ra quy định về vốn pháp định đối với các CTCK nhằm đảm bảo các CTCK khi thành lập đều là các công ty có tiềm lực tài chính, qua đó bảo vệ lợi ích cho nhà đầu tư.

Mỗi nước việc qui định mức vốn này có thể chung cho một CTCK khi tiến hành đăng ký thành lập (không kể CTCK đó thực hiện một, hai hay tất cả các hoạt động trên TTCK), ví dụ như Hàn quốc, mức vốn tối thiểu cho một CTCK là 50 tỷ won, hoặc có thể qui định riêng cho từng loại hình kinh doanh cụ thể.

Việt Nam, theo Điều 75 Nghị định 155/2020/NĐ-CP, yêu cầu về vốn điều lệ tối thiểu cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán như sau:

  • Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng;
  • Tự doanh chứng khoán: 50 tỷ đồng;
  • Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng;
  • Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng.

Điều kiện về chuyên môn hoá và nhân sự:

Nếu như ở các doanh nghiệp sản xuất, giữa các khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm phải có mắt xích kết nối và sản phẩm ra đời đều trải qua tất cả các công đoạn, không được phép thiếu một công đoạn nào thì tại CTCK, mỗi nghiệp vụ đều có những đặc điểm riêng trong hoạt động. Đối với hoạt động môi giới và tư vấn đầu tư thì khách hàng chủ yếu là các cá nhân nhỏ lẻ và mục tiêu của họ là tìm kiếm lợi nhuận trên TTCK. Ngược lại, đối với hoạt động tư vấn tài chính doanh nghiệp thì khách hàng chủ yếu lại là các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng các dịch vụ cổ phần hoá, tái cấu trúc, phát hành, niêm yết, M&A… Như vậy, giữa các bộ phận trong CTCK có sự chuyên môn hoá và độc lập tương đối.

Các nghiệp vụ của CTCK đều là những nghiệp vụ phức tạp, có độ rủi ro cao, ảnh hưởng tới nhà đầu tư và TTCK, do đó đòi hỏi các cán bộ và nhân viên làm việc trong CTCK phải là những người có năng lực, trình độ, kinh nghiệm và am hiểu về lĩnh vực tài chính cũng như pháp luật. Pháp luật về chứng khoán cũng đưa ra yêu cầu cán bộ làm việc tại CTCK khi thực hiện các nghiệp vụ cần có chứng chỉ hành nghề tương ứng để đảm bảo kiến thức, trình độ khi thực hiện nghiệp vụ với khách hàng.

Đặc biệt là vấn đề đội ngũ lãnh đạo tại CTCK: Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo trong bất kỳ lĩnh vực nào đều phải có kiến thức chuyên môn, có đạo đức trong kinh doanh, không vi phạm pháp luật và có trình độ quản lý. Đối với lĩnh vực chứng khoán, ngoài những yêu cầu trên, đội ngũ lãnh đạo ở các CTCK còn phải có chứng chỉ hành nghề và phải có giấy phép đại diện do cơ quan có thẩm quyền cấp. Và yêu cầu đối với đội ngũ lãnh đạo về trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác phải cao hơn đội ngũ nhân viên.

Điều kiện về cơ sở vật chất:

Để có thể đăng ký làm thành viên của SGDCK, các CTCK đều phải đáp ứng được các yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật và hệ thống phần mềm nhằm đảm bảo việc kết nối và giao dịch được thông suốt. Qua đó đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư cũng như không ảnh hưởng tới giao dịch chung trên SGDCK. Điều kiện về cơ sở vật chất cũng là một rào cản đáng kể với các công ty có ý định gia nhập vào lĩnh vực chứng khoán, bởi ngoài chi phí đầu tư ban đầu lớn, các công ty chứng khoán còn phải bỏ ra các chi phí bảo trì và nâng cấp hệ thống thường xuyên.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của CTCK còn là hệ thống các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình truyền lệnh của khách hàng, thông báo kết quả giao dịch cũng như giúp khách hàng kiểm tra số dư tài khoản hoặc tìm kiếm thông tin…

1.1.2. Vai trò của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Bằng các hoạt động trên TTCK, CTCK thể hiện vai trò quan trọng đối với thị trường nói chung và các chủ thể tham gia trên thị trường nói riêng.

Thứ nhất, CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Nhờ có CTCK mà chứng khoán của các tổ chức phát hành đến được tay các nhà đầu tư bất kể họ ở đâu và được lưu thông trên thị trường và qua đó một lượng vốn lớn ngày càng được tập hợp từ những nguồn nhỏ lẻ để đưa vào đầu tư phát triển doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Các CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, sẽ giúp cho các tổ chức phát hành tiết kiệm thời gian, công sức đảm bảo cho đợt phát hành thành công, qua đó làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường.

Thứ hai, CTCK góp phần ổn định giá cả chứng khoán trên thị trường. CTCK với hoạt động tự doanh cùng với các yêu cầu qui định của pháp luật đã góp phần tạo nên sự ổn định giá cả chứng khoán cũng như tạo thị trường cho những chứng khoán mới phát hành.

Thứ ba, CTCK góp phần tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường. Hoạt động môi giới là hoạt động mà ở đó nhân viên môi giới của công ty có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với bộ phận có chức năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm của công ty để từ đó cho ra đời các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó là tạo ra được sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng và với phí dịch vụ thấp sẽ ngày càng thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư.

Thứ tư, CTCK giúp cơ quan quản lý thị trường quản lý, giám sát các hoạt động trên thị trường một cách có hiệu quả. Một trong những nghĩa vụ của CTCK là phải cung cấp thông tin về thị trường cho các nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Việc cung cấp thông tin thị trường cho cơ quan quản lý nhằm mục tiêu quản lý thị trường. CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường, do vậy thông tin về nhà phát hành hay thông tin liên quan tới giao dịch mua bán chứng khoán, thông tin về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư… đều được CTCK báo cáo lên cơ quan quản lý. Nhờ vậy, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Và cũng qua các thông tin này, các cơ quan quản lý nắm bắt được thực trạng thị trường để từ đó có các chính sách, biện pháp thích hợp cho việc phát triển thị trường.

Thứ năm, CTCK góp phần giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư. Việc mua bán chứng khoán thông qua CTCK sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, nhờ đó tiết kiệm được chi phí giao dịch, xét cho từng giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường và giúp nâng cao thanh khoản của chứng khoán. Đồng thời, giúp các nhà đầu tư giảm được rủi ro trong quá trình mua bán chứng khoán, các nhà đầu tư khi mua được đảm bảo sẽ nhận được chứng khoán và đó là những chứng khoán thật, và đối với nhà đầu tư bán sẽ được đảm bảo nhận được tiền sau khi giao chứng khoán.

Ngoài ra, CTCK còn giúp các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư có hiệu quả, tham gia thị trường một cách thuận lợi và góp phần hình thành nên một nền văn hóa đầu tư chứng khoán. Với việc tìm kiếm và giúp đỡ những nhà đầu tư không có kiến thức và thời gian, khuyến khích họ tham gia thị trường, CTCK đã góp phần thực hiện được một điều quan trọng của thị trường đó là kích cầu chứng khoán.

1.1.3. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Hoạt động chính của CTCK bao gồm: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn tài chính. Các hoạt động này có thể được chia thành hai mảng hoạt động chính đó là hoạt động tự doanh và hoạt động cung cấp dịch vụ chứng khoán (bao gồm các hoạt động còn lại của CTCK).

1.1.3.1. Hoạt động tự doanh

Là một trong các hoạt động cơ bản của CTCK. Hoạt động này được xem như là hoạt động đầu tư của CTCK vì khi tiến hành tự doanh CTCK phải bỏ tiền ra mua, công ty sẽ có lãi khi giá chứng khoán tăng và ngược lại, sẽ lỗ khi giá chứng khoán giảm. Do đó, hoạt động tự doanh của CTCK cũng chứa đựng tiềm ẩn rủi ro về sự biến động giá chứng khoán trên thị trường. Như vậy, hoạt động tự doanh là việc CTCK mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình để hưởng lợi, đồng thời cũng chấp nhận rủi ro từ hoạt động đó.

Trong hoạt động tự doanh, lợi nhuận mà CTCK có được có thể từ việc chênh lệch giữa giá mua và giá bán hoặc từ cổ tức, trái tức mà nhà phát hành trả.

Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên SGDCK hoặc trên thị trường OTC. Khi thực hiện hoạt động tự doanh trên thị trường OTC, các CTCK sẽ tiến hành mua bán chứng khoán trực tiếp với các đối tác thông qua thương lượng và qua một hệ thống máy tính nối mạng với nhau. Khi thực hiện hoạt động tự doanh trên SGDCK, các CTCK lúc này cũng như các nhà đầu tư khác trên thị trường, do đó lệnh mua bán chứng khoán của CTCK cũng được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như các lệnh mua bán của các nhà đầu tư. Lệnh của CTCK có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không xác định được trước.

Tùy theo mục đích, tính chất đầu tư mà hoạt động tự doanh của CTCK bao gồm các hoạt động cụ thể như tự doanh với mục đích hưởng lợi, nắm quyền kiểm soát, quản lý ngân quĩ hay tạo lập thị trường…

Hoạt động tự doanh của CTCK có những đặc điểm sau:

  • Quy mô đầu tư lớn. CTCK phải có một lượng vốn (dưới dạng tiền mặt và chứng khoán) lớn để có thể thực hiện được các mục tiêu trong hoạt động tự doanh.
  • Đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, tính nhạy cảm cao trong công việc, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.

CTCK có thể triển khai thực hiện nhiều hoạt động, trong đó có những hoạt động có thể sẽ dẫn tới xung đột với hoạt động tự doanh về lợi ích của khách hàng và của CTCK. Do vậy, khi tiến hành hoạt động tự doanh, CTCK phải đáp ứng các yêu cầu do luật pháp qui định, cụ thể:

Thứ nhất, phải có sự tách biệt giữa hoạt động tự doanh với hoạt động môi giới, giữa hoạt động tự doanh với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.

Khi CTCK vừa thực hiện hoạt động môi giới vừa thực hiện hoạt động tự doanh dễ phát sinh xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng. Vì vậy để tránh xung đột lợi ích và để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động các nước đều yêu cầu CTCK tách biệt hoạt động môi giới và tự doanh. Sự tách biệt này bao gồm: tách biệt về yếu tố con người có nghĩa là nhân viên của CTCK không được phép vừa làm trong bộ phận môi giới vừa làm trong bộ phận tự doanh; tách biệt về qui trình nghiệp vụ; tách biệt về tài sản và vốn của khách hàng và công ty tức là công ty không được phép dùng vốn và tài sản của khách hàng để kinh doanh cho công ty mà phải dùng chính nguồn vốn của công ty để tiến hành kinh doanh. Có nước không cho phép CTCK vừa thực hiện hoạt động môi giới trên thị trường tập trung vừa thực hiện hoạt động tự doanh.

Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh cũng còn phải có sự tách biệt với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, nếu không quyền lợi của các nhà đầu tư sẽ không được đảm bảo. Khi bộ phận tự doanh muốn mua chứng khoán nào đó thì bộ phận tư vấn sẽ khuyên khách hàng bán chứng khoán đó, và ngược lại, khi muốn bán họ lại tư vấn cho khách hàng mua chứng khoán đó.

Thứ hai, ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của CTCK. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và khả năng phân tích thị trường tốt hơn các khách hàng cá nhân nên CTCK có nhiều ưu thế hơn các nhà đầu tư cá nhân trong quyết định mua bán chứng khoán. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng giữa các nhà đầu tư cá nhân với các CTCK (nhà đầu tư chuyên nghiệp), CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khớp lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty. Điều đó có nghĩa trong trường hợp lệnh giao dịch của khách hàng và lệnh tự doanh của CTCK đến cùng một lúc thì lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của CTCK.

Thứ ba, bình ổn giá cả thị trường. Theo đó, khi thị trường có sự sụt giảm giá chứng khoán thì CTCK có trách nhiệm mua vào, khi giá chứng khoán tăng đột biến thì CTCK có trách nhiệm bán ra nhằm giữ giá chứng khoán ổn định. Khi thực hiện chức năng bình ổn giá chứng khoán trên thị trường, CTCK bỏ qua mục tiêu lợi nhuận. Để thực hiện được yêu cầu này, các nước thường qui định CTCK phải dành một tỷ lệ phần trăm nhất định các giao dịch của mình cho mục tiêu bình ổn thị trường.

Thứ tư, tạo thị trường cho chứng khoán mới phát hành. Khi chứng khoán mới được phát hành chưa có thị trường giao dịch, để tạo thị trường cho các chứng khoán này, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán sẽ tạo tính thanh khoản cho chứng khoán đó trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường OTC, CTCK liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh khác, qua đó, CTCK tạo ra và duy trì một thị trường liên tục cho chứng khoán mà họ kinh doanh.

Bên cạnh việc tạo thị trường cho những chứng khoán mới phát hành, CTCK cũng tạo thị trường cho những chứng khoán ít được giao dịch bằng việc mua bán các loại chứng khoán đó. Đặc biệt đối với những thị trường mới thành lập, các nhà đầu tư tham gia thị trường chủ yếu là các cá nhân nhỏ lẻ tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chưa cao. Do đó, họ chỉ tập trung vào một số chứng khoán thịnh hành trên thị trường. Vì vậy, với hoạt động tự doanh, CTCK sẽ góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, định hướng cho toàn bộ thị trường.

Ngoài ra, CTCK cũng cần phải tuân thủ một số các qui định khác đối với hoạt động tự doanh như:

  • Không được thực hiện mua bán cùng một loại chứng khoán trong một thời điểm, nhưng được phép giao dịch mua bán cùng một loại chứng khoán trong ngày giao dịch.
  • Không cho người khác sử dụng tài khoản tự doanh của công ty.
  • Không được tiến hành các giao dịch trá hình, tức là các giao dịch không làm dịch chuyển quyền sở hữu làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán.
  • Không được lợi dụng các thông tin quyết định của khách hàng để mua bán trước.
  • Bị hạn chế đầu tư theo một tỷ lệ nhất định tuỳ theo loại chứng khoán đang lưu hành. Yêu cầu này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh chứng khoán, hạn chế rủi ro khi giá chứng khoán biến động mạnh, đặc biệt đối với những chứng khoán có độ rủi ro cao.

1.1.3.2. Hoạt động cung cấp dịch vụ chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

CTCK là một tổ chức tài chính trung gian trên TTCK, do vậy, bên cạnh hoạt động tự doanh, CTCK còn thực hiện nhiều hoạt động khác với tính chất cung cấp các dịch vụ liên quan tới chứng khoán cho khách hàng (nhà đầu tư và nhà phát hành). Các hoạt động cung cấp dịch vụ chứng khoán của CTCK gồm hoạt động môi giới, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và các hoạt động khác.

1.1.3.2.1. Hoạt động môi giới

Đối với CTCK, các hoạt động xuất hiện theo những nhu cầu của nhà đầu tư và theo sự phát triển của thị trường. Hoạt động môi giới được xem là hoạt động xuất hiện đầu tiên đồng thời là hoạt động cơ bản nhất trong số các hoạt động mà một CTCK triển khai. Thông qua hoạt động môi giới, CTCK sẽ đảm đương vai trò là nhà trung gian giúp cho nhà đầu tư thực hiện việc mua bán chứng khoán. CTCK với lợi thế có mạng lưới thông tin rộng khắp trên cả thị trường chính thức lẫn phi chính thức có thể cung cấp cho nhà đầu tư một bức tranh toàn cảnh về TTCK và giúp khách hàng có thể mua bán được chứng khoán ở bất kỳ thị trường nào.

Như vậy, hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động kết nối giữa những người cần mua và những người cần bán chứng khoán. Theo luật chứng khoán, môi giới chứng khoán là việc CTCK làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng.

Sau mỗi giao dịch mua bán chứng khoán được thành công, cả bên mua và bên bán đều trả cho CTCK một khoản tiền, khoản tiền này được gọi là phí môi giới giao dịch. Cách tính phí môi giới giao dịch tùy theo việc CTCK tiến hành mua bán hộ chứng khoán cho khách hàng trên thị trường nào. Nếu mua bán chứng khoán trên thị trường chính thức (sở giao dịch), thông thường phí môi giới giao dịch sẽ được tính là một tỷ lệ phần trăm trên tổng giá trị giao dịch. Nếu trên thị trường phi chính thức (OTC), phí giao dịch được tính kèm vào giá (markup).

Phí môi giới giao dịch là một trong những nguồn thu của CTCK. Phí này có được thông qua việc CTCK thực hiện mua bán chứng khoán cho khách hàng. Do đó, số lượng khách hàng tiến hành mua bán qua công ty càng nhiều thì doanh thu từ hoạt động môi giới càng lớn. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho CTCK là làm thế nào để thu hút và giữ được khách hàng đến với công ty. Để giải quyết vấn đề này, các CTCK đều tiến hành các công việc liên quan tới tiếp cận khách hàng và cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, cụ thể:

Công việc trước tiên CTCK cần tiến hành bao gồm các khâu: (1) Tìm kiếm khách hàng; (2) Sàng lọc khách hàng; (3) Tìm hiểu cụ thể nhu cầu đầu tư, khả năng tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro… của khách hàng; (4) Cung cấp các dịch vụ cho khách hàng.

Khi TTCK chưa phát triển, hoạt động môi giới của các CTCK chỉ đơn giản dừng lại ở việc thực hiện các công việc như: nhận và chuyển lệnh giao dịch (mua/bán) chứng khoán của khách hàng; xác nhận kết quả giao dịch và thanh toán giao dịch đối với khách hàng; giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng. Tuy nhiên, TTCK ngày càng phát triển, lượng thông tin trên thị trường cũng ngày càng nhiều, lượng hàng hóa ngày càng đa dạng, các nhà đầu tư không thể nắm bắt cũng như xử lý lượng thông tin khổng lồ của thị trường. Do vậy, một nhu cầu mới của các khách hàng phát sinh, đó là nhu cầu được cung cấp thông tin và được tư vấn. Do đó, hoạt động môi giới lúc này không chỉ đơn thuần là thực hiện việc mua bán hộ chứng khoán cho khách hàng mà còn chứa đựng hàm lượng tư vấn khá cao.

1.1.3.2.2. Hoạt động bảo lãnh phát hành (BLPH)

Khi tổ chức phát hành (TCPH) phát hành chứng khoán để tăng vốn, họ có nhiều cách để tiến hành. Để đợt phát hành thành công họ thường nhờ tới một tổ chức tài chính trung gian trên thị trường giúp họ thực hiện các công việc liên quan tới đợt phát hành. Tổ chức tài chính trung gian này thường là các CTCK, ở một số nước (Mỹ, Anh, …) tổ chức tài chính trung gian này là các ngân hàng đầu tư. Với ưu thế về đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, trình độ trong lĩnh vực chứng khoán, các CTCK sẽ cung cấp dịch vụ trọn gói cho TCPH từ việc tư vấn cho TCPH về loại chứng khoán sẽ phát hành, giá cả chứng khoán phát hành, phương thức phát hành cho tới việc chuẩn bị hồ sơ cho đợt phát hành, nộp hồ sơ lên cơ quan có thẩm quyền và cuối cùng là phân phối chứng khoán và bình ổn giá chứng khoán sau phát hành.

Như vậy, có thể hiểu, hoạt động BLPH là hoạt động trong đó CTCK giúp các nhà phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.

Tổ chức tài chính trung gian thực hiện BLPH cho TCPH được gọi là nhà bảo lãnh phát hành. Thông thường, một nhà BLPH sẽ tiến hành BLPH cho một đợt phát hành của TCPH. Tuy nhiên, hoạt động này chứa đựng nhiều rủi ro nên các nhà bảo lãnh thường lập ra một tổ hợp BLPH để chia sẻ rủi ro nhằm tiến hành phân phối thành công một đợt phát hành.

1.1.3.2.3. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán (TVĐTCK) Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Khi TTCK càng phát triển thì số lượng nhà đầu tư cá nhân tham gia thị trường ngày càng nhiều nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng có trình độ, kinh nghiệm để có quyết định đúng đắn trong đầu tư chứng khoán. Do vậy, các CTCK với đội ngũ nhân viên có trình độ, kinh nghiệm sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn nhằm giúp các nhà đầu tư đầu tư có hiệu quả hơn.

Như vậy, TVĐTCK được hiểu là việc CTCK xác định các đặc tính và điều kiện chứng khoán, đánh giá thị giá chứng khoán, phân tích tình hình tài chính của công ty phát hành để giúp các nhà đầu tư mua bán chứng khoán được thành công.

Đây là hoạt động rất phổ biến trên TTCK thứ cấp. Với kinh nghiệm cũng như chuyên môn, các nhân viên tư vấn sẽ tư vấn cho khách hàng nên mua/bán loại chứng khoán nào và vào thời điểm nào. Tuy nhiên, quyền quyết định vẫn thuộc về khách hàng và khách hàng là người gánh chịu kết quả của việc đầu tư. Những báo cáo phân tích của nhà tư vấn có tác động rất lớn tới tâm lý của người được tư vấn và có thể làm cho họ (những người được tư vấn) có lợi nhuận hoặc bị thiệt hại còn người tư vấn thu về cho mình khoản phí dịch vụ tư vấn và không chịu trách nhiệm về kết quả của việc đầu tư.

Do đó, đối với hoạt động này, yêu cầu về vốn tối thiểu không lớn nhưng những yêu cầu về nhân sự lại hết sức chặt chẽ. Những nhân viên tư vấn phải là những người có kiến thức chuyên môn sâu, phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn những nhân viên môi giới thông thường như: tối thiếu phải tốt nghiệp đại học chuyên ngành có liên quan và phải vượt qua một số kỳ thi sát hạch do ngành chứng khoán tổ chức.

Do đặc điểm riêng của TTCK là giá cả chứng khoán luôn có sự biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn và đôi khi các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán. Do vậy, nhà tư vấn phải thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị các loại chứng khoán.

1.1.3.2.4. Hoạt động quản lý danh mục đầu tư – (ủy thác đầu tư)

Khi thực hiện hoạt động này khách hàng sẽ đưa tiền và chứng khoán của họ tới CTCK và ký hợp đồng uỷ thác đầu tư với CTCK. Khi đã ký hợp đồng CTCK vừa bảo quản hộ chứng khoán vừa đầu tư hộ chứng khoán cho khách hàng. Tùy theo mức độ ủy quyền trong hợp đồng được ký giữa khách hàng và CTCK mà CTCK có toàn quyền quyết định hoặc có quyền hạn chế trong các giao dịch mua bán số chứng khoán trong hợp đồng.

Như vậy, hoạt động QLDMĐT là hoạt động mà khách hàng uỷ thác cho CTCK thay mặt mình tiến hành kinh doanh chứng khoán. Hoạt động này vừa mang tính tư vấn tổng hợp vừa mang tính đầu tư. CTCK thực hiện việc đầu tư hộ cho khách hàng theo một chiến lược hay theo những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận trong hợp đồng QLDMĐT. Do vậy, hoạt động QLDMĐT chứng khoán của CTCK thực chất là quá trình quản lý vốn của khách hàng.

Khi tiến hành QLDMĐT, CTCK phải tuân thủ các điều kiện trong hợp đồng ký kết. Hợp đồng này được thảo ra dựa trên các nguyên tắc của luật dân sự và tuân thủ các qui định của ngành chứng khoán. Trong đó, CTCK phải xác định rõ với khách hàng là họ không đảm bảo về lợi nhuận đầu tư và mọi rủi ro của hoạt động đầu tư sẽ do khách hàng gánh chịu. Hợp đồng cũng phải xác định rõ mức độ uỷ quyền của khách hàng đối với CTCK.

1.1.3.2.5. Hoạt động tư vấn cho tổ chức phát hành (tư vấn tài chính) Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Hoạt động tư vấn cho TCPH tuy không phải là những hoạt động đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu về vốn nhưng cũng là mảng hoạt động quan trọng của CTCK. Việc phát triển hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho CTCK thực hiện tốt các hoạt động khác như hoạt động BLPH, hoạt động dịch vụ khác, đồng thời góp phần hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp và tạo ra hàng hoá có chất lượng cho thị trường.

Hoạt động tư vấn cho nhà phát hành tương đối đa dạng, CTCK có thể sử dụng các kỹ năng của mình để tư vấn cho công ty về việc sáp nhập, thâu tóm, tái cơ cấu vốn để công ty đạt mức độ hoạt động tối ưu hay tư vấn về loại chứng khoán phát hành. Khi thực hiện hoạt động này CTCK sẽ có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp thực thi các nghiệp vụ chứng khoán cũng như các thủ tục hành chính để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp bởi vì các doanh nghiệp không am hiểu về thủ tục cũng như luật lệ, nghiệp vụ chứng khoán.

Tùy theo mục đích, yêu cầu của TCPH mà CTCK sẽ tiến hành tư vấn các vấn đề liên quan tới tài chính hay liên quan tới đợt phát hành…, do đó, nội dung tư vấn của tư vấn tài chính có thể gồm một số mảng chính như: Phân tích tài chính doanh nghiệp; Tư vấn xác định giá trị của doanh nghiệp; Tư vấn phát hành; Tư vấn tái cơ cấu vốn; Tư vấn thâu tóm, hợp nhất doanh nghiệp; Tư vấn niêm yết.

1.1.3.2.6. Hoạt động lưu ký chứng khoán

Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện quyền đối với những chứng khoán lưu ký. Đây là qui định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải ký gửi chứng khoán tại thành viên lưu ký. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán: phí gửi, rút và chuyển nhượng chứng khoán.

1.1.3.2.7. Hoạt động thực hiện hộ quyền sở hữu của khách hàng

Khi sở hữu chứng khoán nhà đầu tư có một số quyền nhất định như: quyền bỏ phiếu bầu hội đồng quản trị, bỏ phiếu các vấn đề có ảnh hưởng đến toàn bộ công ty; quyền nhận thu nhập, quyền kiểm tra sổ sách của công ty, quyền chuyển đổi cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu… và được gọi chung là quyền sở hữu chứng khoán. Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán cho khách hàng CTCK có thể thay mặt khách hàng thực hiện các quyền sở hữu trên đối với những chứng khoán lưu ký.

1.1.3.2.8. Hoạt động cho vay

Là hình thức CTCK cho khách hàng của mình vay tiền để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật đảm bảo cho các khoản vay đó. Khách hàng sẽ chỉ cần ký quĩ một phần, phần còn lại sẽ được CTCK cho vay. Vì vậy hình thức này còn gọi là cho vay ký quĩ. Đến kỳ hạn thanh toán, khách hàng phải hoàn trả đầy đủ số tiền vay cùng với lãi cho CTCK. Nếu khách hàng không trả được nợ, CTCK sẽ bán những chứng khoán mà khách hàng đã mua để thu hồi vốn. Và nếu giá chứng khoán giảm tới mức thấp hơn giá trị khoản vay ký quĩ thì CTCK sẽ gặp rủi ro.

Bên cạnh việc CTCK cho vay ký quĩ, CTCK cũng còn cho khách hàng vay chứng khoán để thực hiện việc bán khống.

1.1.3.2.9. Hoạt động cung cấp thông tin

CTCK là một kênh cung cấp các thông tin về thị trường, về nhà phát hành, về các phiên giao dịch và các vấn đề về pháp luật cho nhà đầu tư. Đồng thời CTCK cũng cung cấp thông tin về thị trường cho các cơ quản quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu quản lý.

1.2. TỔNG QUAN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CHỨNG Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt KHOÁN

1.2.1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh

Thuật ngữ cạnh tranh, năng lực cạnh tranh được đề cập nhiều trong các nghiên cứu, nhất là từ khi Việt Nam bắt đầu hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Do vậy, có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ cạnh tranh và các cấp độ áp dụng, có thể ở cấp độ quốc gia, cấp độ ngành/doanh nghiệp hoặc sản phẩm.

Các lý luận về cạnh tranh có những nội hàm chủ yếu, tương đồng hoặc giống nhau, đó là:

  • Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh cùng một loại sản phẩm hàng hoá và cùng tiêu thụ trên một thị trường.
  • Mục đích cuối cùng là tìm kiếm được lợi nhuận mong muốn để tồn tại và phát triển doanh nghiệp hoặc ngành sản phẩm. Để đạt được mục đích cơ bản cuối cùng đó, cuộc ganh đua trong kinh doanh phải tạo cho được những điều kiện, cơ hội tốt nhất nhằm giành được thị trường và mở rộng thị trường để tăng thị phần, trên cơ sở hạ thấp chi phí sản xuất-tiêu thụ và các hoạt động có liên quan, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc cung cấp các sản phẩm có sự khác biệt. Đó là các tiêu chí quan trọng nhất phản ánh năng lực cạnh tranh.
  • Cạnh tranh là một phạm trù kinh tế phản ánh hiện thực khách quan về cuộc ganh đua giữa các nhà kinh doanh trên thị trường và chịu tác động của quan hệ cung cầu sản phẩm.

1.2.1.1. Định nghĩa về năng lực cạnh tranh Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Năng lực cạnh tranh là một khái niệm nhận được nhiều sự quan tâm từ các đối tượng đa dạng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như các nhà kinh tế, nhà tư bản công nghiệp, các chính trị gia, các nhà báo và các học giả trên khắp thế giới. Châu Âu, Hoa Kỳ và nhiều nước khác trên thế giới đã thành lập những Hội đồng về Năng lực cạnh tranh và cho xuất bản những sách trắng về vấn đề này. Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) và Viện quốc tế về Phát triển Quản lý (IMD) hàng năm đều ban hành những báo cáo về đo lường và xếp hạng năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Bên cạnh đó các bộ ban ngành trong một quốc gia cùng các doanh nghiệp cũng quan tâm đến việc đánh giá và xếp hạng về năng lực cạnh tranh của mình trong việc so sánh với các đối thủ cạnh tranh.

Tuy nhiên, khi đi sâu tìm hiểu về vấn đề năng lực cạnh tranh nhằm có được những lý giải, giải thích chi tiết, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một khối lượng lớn những khái niệm định nghĩa và phương pháp đánh giá xoay quanh vấn đề này.

Michael Porter [27] từng đánh giá rằng: “Mặc dù mọi người đều nhận thức được tầm quan trọng của năng lực cạnh tranh, nhưng đây vẫn là một khái niệm chưa được hiểu một cách rõ ràng”. Krugman [23] cũng cùng chung một quan điểm khi cho rằng “Hầu hết mọi người sử dụng cụm từ “năng lực cạnh tranh” mà không có sự suy xét cụ thể”.

Hiện nay, những kiến thức về năng lực cạnh tranh tập trung chủ yếu về các phạm trù khái niệm, nội dung và các yếu tố cấu thành của năng lực cạnh tranh. Trong suốt gần 2 thập kỷ qua, giới nghiên cứu kinh tế đã trải qua ít nhất 4 cuộc tranh luận mà đôi khi có sự tương quan qua lại lẫn nhau về các vấn đề thuộc về năng lực cạnh tranh, bao gồm: định nghĩa năng lực cạnh tranh, cấp độ của năng lực cạnh tranh, yếu tố cấu thành và cách đánh giá năng lực cạnh tranh, và tính hiệu quả của các chiến lược cạnh tranh. đây, chúng ta sẽ đề cập đến các định nghĩa về năng lực cạnh tranh nói chung và các cấp độ của năng lực cạnh tranh.

Định nghĩa năng lực cạnh tranh:

Năng lực cạnh tranh là một khái niệm đa chiều với nhiều tranh cãi tồn tại giữa các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế, các học giả ở nhiều nước khác nhau. Tuỳ vào hoàn cảnh và mức độ, mỗi cách thức tiếp cận khác nhau đem lại những định nghĩa khác nhau về năng lực cạnh tranh.

Porter [27] cho rằng “năng lực cạnh tranh chỉ có nghĩa khi xem xét ở cấp độ quốc gia là năng suất”.

Theo Krugman [23] thì “năng lực cạnh tranh chỉ ít nhiều phù hợp ở cấp độ doanh nghiệp vì ranh giới cận dưới ở đây rất rõ ràng, nếu công ty không bù đắp nổi chi phí thì hiện tại hoặc sau này sẽ phải từ bỏ kinh doanh hoặc phá sản”.

Nguyễn Vĩnh Thanh [10] cho rằng “năng lực cạnh tranh là khả năng của một công ty tồn tại trong kinh doanh và đạt được một số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường hiện tại và làm nảy sinh các thị trường mới”.

Theo 2 tiến sỹ Momaya và Ambastha [24], năng lực cạnh tranh định nghĩa một cách đơn giản chính là khả năng cạnh tranh. Ngày nay, đây là một khái niệm phổ biến nhằm để chỉ sức mạnh về mặt kinh tế của một quốc gia, một ngành kinh tế hoặc một doanh nghiệp khi so sánh với các đối thủ của nó trong nền kinh tế thị trường toàn cầu mà ở đó, hàng hoá, dịch vụ, con người, kỹ năng và ý tưởng có thể dịch chuyển tự do không giới hạn bởi các biên giới địa lý.

Theo định nghĩa của Từ điển Bách khoa toàn thư của Việt Nam, năng lực cạnh tranh là khả năng của một mặt hàng, một đơn vị kinh doanh, hoặc một nước giành thắng lợi (kể cả giành lại một phần hay toàn bộ thị phần) trong cuộc cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ.

Định nghĩa về năng lực cạnh tranh thường được thể hiện ở từng cấp độ cụ thể của năng lực cạnh tranh, tuỳ theo mỗi cấp độ, năng lực cạnh tranh lại được xác định và định nghĩa chính xác với đặc thù của từng cấp độ đó.

Năng lực cạnh tranh về cơ bản là một khái niệm ở mức công ty. Một công ty có năng lực cạnh tranh nếu có thể sản xuất các sản phẩm dịch vụ chất lượng cao và chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh ở trong nước và quốc tế. Năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với kết quả lợi nhuận dài hạn và khả năng của nó để bồi hoàn cho người lao động, tạo thu nhập cao cho các chủ sở hữu.

Năng lực cạnh tranh là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác trong việc thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng để thu được lợi nhuận ngày càng cao.

Như vậy năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phải được tạo ra từ thực lực của doanh nghiệp. Đây là yếu tố nội hàm của doanh nghiệp, không chỉ được tính bằng các yếu tố như công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh nghiệp… một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một sản phẩm, lĩnh vực và thị trường.

Nếu những điểm mạnh, điểm yếu bên trong của doanh nghiệp không được đánh giá thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối thủ cạnh tranh thì sẽ không có giá trị. Trên cơ sở các so sánh và đánh giá đó, để tạo năng lực cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh so với đối thủ. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có thể thoả mãn đầy đủ những yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp có lợi thế về mặt này và hạn chế về mặt khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy những điểm mạnh để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

1.2.1.2. Cấp độ của năng lực cạnh tranh Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Cấp độ của năng lực cạnh tranh là phạm trù đạt được sự thống nhất cao giữa các học giả trên thế giới. Hầu hết các học thuyết, nghiên cứu về năng lực cạnh tranh đều chia khái niệm này trên 3 mức cấp độ khác nhau là năng lực cạnh tranh cấp quốc gia, cấp ngành và cấp doanh nghiệp.

1.2.1.2.1. Cạnh tranh ở cấp độ quốc gia

Đây là nội dung thường được phân tích theo quan điểm tổng thể, chú trọng vào môi trường kinh tế vĩ mô và thể hiện vai trò của chính phủ.

Theo Giáo sư Michael Porter [26] định nghĩa năng lực cạnh tranh cấp quốc gia là năng suất mà một quốc gia sử dụng các nguồn nhân lực, tài lực và vật lực của mình. Đối với Michael Porter, mấu chốt của năng lực cạnh tranh quốc gia chính là năng suất.

Theo Uỷ ban Cạnh tranh Công nghiệp của Mỹ thì “cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và nâng cao được thu nhập thực tế của người dân nước đó”.

Hầu hết các học giả kinh tế trên thế giới đều có cùng quan điểm rằng năng lực cạnh tranh ở cấp độ quốc gia chính là năng suất lao động toàn quốc, và kết quả đi liền theo là chất lượng cuộc sống của người dân tại quốc gia đó.

1.2.1.2.2. Cạnh tranh ở cấp độ ngành

Cấp độ ngành, năng lực cạnh tranh là khả năng của các công ty trong cùng một ngành đạt được những thành công ổn định trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài mà không có sự bảo hộ hay hỗ trợ từ phía chính phủ.

Để đo lường năng lực cạnh tranh cấp ngành, người ta thường sử dụng các tiêu chí như là tổng lợi nhuận của các công ty trong cùng một ngành, cán cân thương mại của ngành công nghiệp đó, cán cân đầu vào và đầu ra của nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và các biện pháp đo lường trực tiếp mức chi phí và chất lượng ở cấp độ ngành.

Năng lực cạnh tranh ở cấp độ ngành công nghiệp là một chỉ báo về thực trạng kinh tế quốc gia tốt hơn so với năng lực cạnh tranh ở cấp công ty. Nguyên nhân của điều này có thể là vì sự thành công của một công ty duy nhất có thể là do các yếu tố riêng có của công ty đó mà khó có thể mô phỏng hay nhân rộng ra các công ty khác. Trong khi đó, sự thành công của một số công ty trong cùng một ngành công nghiệp lại thường là bằng chứng của các yếu tố mang tính chất quốc gia và có thể được nhân rộng và cải tiến trên nhiều công ty khác trong cùng một ngành đó.

Theo quan niệm cạnh tranh dựa trên yếu tố năng suất toàn bộ, một ngành công nghiệp được coi là cạnh tranh khi mức độ yếu tố năng suất toàn bộ bằng hoặc cao hơn mức nào đó của đối thủ cạnh tranh. Yếu tố này quan tâm đến hiệu quả sản xuất trong việc sử dụng yếu tố đầu vào của vốn và lao động để tạo ra năng suất lao động cao hơn, góp phần tăng cạnh tranh của ngành.

Cũng như cạnh tranh ở cấp độ quốc gia, các quan niệm và cách tính toán về cạnh tranh có thể khác nhau nhưng kết quả cuối cùng là ngành đứng vững trên thị trường dựa trên các yếu tố như hiệu quả trong sản xuất-kinh doanh, sử dụng công nghệ tiên tiến.

1.2.1.2.3. Cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm/doanh nghiệp Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm/doanh nghiệp, tuy nhiên đều có điểm chung là nghiên cứu cạnh tranh ở cấp độ vi mô.

Cấp độ doanh nghiệp, khái niệm về năng lực cạnh tranh được đưa ra bởi nhiều tổ chức, nhiều nhà kinh tế với những nội dung không tương đồng, thống nhất.

Theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu bản phát hành năm 1990 (IDM&WEF 1990) [20], năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp đó hoạch định, sản xuất và tiếp thị hàng hoá, dịch vụ, giá cả và các yếu tố phi giá của mình để tạo nên những sản phẩm tổng thể hấp dẫn hơn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. góc độ tiếp cận mang tính chất quản lý và chiến lược, Michael Porter [25] đã định nghĩa năng lực cạnh tranh doanh nghiệp là một nhiệm vụ trong quá trình phát triển năng động, của sự sáng tạo và là khả năng có thể thay đổi và cải tiến.

Giáo sư Attila Chikán [19] của Đại học Budapest cũng có cùng một quan điểm nhưng làm rõ nghĩa và cụ thể hơn khi định nghĩa năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng cơ bản của doanh nghiệp đó trong việc nhận thức những thay đổi của môi trường bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp đó, và khả năng thích nghi với những thay đổi này để tạo ra các dòng lợi nhuận đảm bảo cho hoạt động lâu dài bền vững của doanh nghiệp. cấp độ sản phẩm, Theo Keinosuke Ono và Tatsuyuki [3] sản phẩm cạnh tranh tốt là “sản phẩm hội tụ đủ các yếu tố chất lượng, giá cả, thời gian giao hàng, dịch vụ trong và sau khi bán hàng. Trong đó yếu tố quan trọng nhất là chất lượng sản phẩm”.

Tôn Thất Nguyễn Thiêm [12] cho rằng “sản phẩm cạnh tranh là sản phẩm đem lại giá trị tăng cao hơn hoặc mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn sản phẩm của mình chứ không phải lựa chọn sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh không phải mang tính chất nhất thời mà là một quá trình liên tục”.

Tóm lại, NLCT ở cấp độ doanh nghiệp/công ty xét theo nghĩa rộng là bất cứ khả năng nào giúp cho doanh nghiệp/công ty tăng trưởng và phát triển hay ít nhất là giữ nguyên được vị trí của mình trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường.

Xét theo nghĩa hẹp đó là khả năng giúp doanh nghiệp/công ty có thể tồn tại, duy trì hay tăng thị phần, lôi kéo khách hàng trên thị trường dùng sản phẩm dịch vụ để gia tăng giá trị tài sản, thị phần, doanh số và lợi nhuận cho doanh nghiệp/công ty.

1.2.2. Các mô hình phân tích năng lực cạnh tranh

Một trong những đặc điểm nổi bật của khái niệm NLCT được nhiều học giả thừa nhận đó là tính đa khái niệm, dẫn đến một hệ quả là tính đa phương pháp trong việc phân tích đánh giá NLCT. Tất cả các nhà kinh tế học đều thống nhất về việc không có phương pháp chung duy nhất cho việc đo lường mức độ NLCT. Thay vào đó, các phương pháp đo lường xuất hiện và hình thành một cách đa dạng tương thích với từng khái niệm hoặc hướng tiếp cận khác nhau về NLCT. Khi nghiên cứu chi tiết về các mô hình phân tích NLCT, một trong những vấn đề quan trọng cần lưu ý là mối quan hệ nhân quả giữa phương pháp đo lường và các định nghĩa giải thích về NLCT.

1.2.2.1. Mô hình kim cương của M. Porter Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Đây là mô hình phân tích về năng lực cạnh tranh được áp dụng và tranh luận nhiều nhất trong giới học thuật. M. Porter [26] đã tiến hành điều tra nghiên cứu xem tại sao một số công ty ở một nước cụ thể lại có thể tạo lập và xây dựng được những lợi thế cạnh tranh vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thế giới trong những lĩnh vực nhất định. Ông đã rút ra kết luận về một loạt những yếu tố có tầm ảnh hưởng quyết định tới sự thành công này, đồng thời nhóm chúng lại thành 4 nhóm chính với cách sắp xếp theo hình dạng kim cương – chính là mô hình kim cương nổi tiếng và phổ biến hiện nay. Bốn nhóm chỉ tiêu chính trong mô hình kim cương bao gồm: các điều kiện yếu tố sản xuất kinh doanh (các yếu tố về nhân lực, vật lực và trí lực), các điều kiện về nhu cầu với các nội dung về kích cỡ, cấu trúc và mức độ phức tạp của nhu cầu tại thị trường nội địa đối với hàng hoá dịch vụ của một ngành công nghiệp nhất định, các ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ, và yếu tố quan trọng nhất là chiến lược, cấu trúc và mức độ cạnh tranh trong nước của doanh nghiệp.

Hình 1-1: Mô hình kim cương của M. Porter

Mô hình kim cương kép của Rugman và D’Cruz [29] được phát triển dựa trên mô hình kim cương của Porter. Mô hình kim cương của Porter thường được tranh luận về việc liệu nó có thể áp dụng cho các doanh nghiệp đa quốc gia hay không. Và dựa trên những tranh luận này, Rugman và một số học giả khác đã phát triển mô hình kim cương kép với lõi bên trong là 4 nhóm yếu tố của Mô hình kim cương của Porter và phần vỏ bên ngoài là chính những nhóm yếu tố này nhưng được phân tích trên môi trường toàn cầu.

1.2.2.2. Mô hình hình ảnh cạnh tranh

Mô hình hình ảnh cạnh tranh được sử dụng để đánh giá NLCT của công ty. Mô hình này cho phép so sánh trực tiếp giữa công ty được nghiên cứu với các đối thủ cạnh tranh. Nội dung các bước triển khai như sau:

Bước 1: Xác định danh mục các yếu tố cấu thành NLCT của công ty. Danh mục này thay đổi theo ngành. Ví dụ, trong ngành tài chính, yếu tố nguồn nhân lực, vốn, công nghệ chiếm tỷ trọng lớn, nên đó là yếu tố rất quan trọng, nhưng đối với ngành nông nghiệp yếu tố này không có tính quyết định.

Bước 2: Xác định trọng số của các yếu tố (Ti). Trọng số này thể hiện tầm quan trọng của từng yếu tố đối với ngành nghiên cứu. Trọng số có thể nhận các giá trị từ 0,0 đến 1,0. Tổng điểm trọng số phải bằng 1.

Bước 3: Cho điểm từng yếu tố năng lực đối với từng công ty. Thường cho điểm từ 1 (yếu nhất) đến 5 (mạnh nhất).

Bước 4: Tính điểm của từng yếu tố đối với từng công ty.

Bước 5: Tính tổng điểm của từng công ty.

Bước 6: So sánh điểm số của các công ty để định vị công ty về NLCT

Bảng 1.1: Mô tả ma trận hình ảnh cạnh tranh của công ty

Để vận dụng mô hình hình ảnh cạnh tranh trong đánh giá năng lực cạnh tranh, cần phải có các dữ liệu về các công ty đối thủ. Công việc này không đơn giản, đặc biệt trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi các đối thủ cạnh tranh của các CTCK không chỉ là các CTCK mà cả các ĐCTC khác hoạt động ở Việt Nam và ở các quốc gia khác, làm cho người nghiên cứu rất khó thu thập thông tin.

1.2.2.3. Mô hình đánh giá các yếu tố nội bộ Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Mô hình hình ảnh cạnh tranh không thể thực hiện được khi thiếu thông tin về các đối thủ cạnh tranh. Để giải quyết trường hợp này, Thompson và Strickland đã đề xuất phương pháp đánh giá NLCT của công ty thông qua Ma trận đánh giá các yếu tố nội bộ.

Các bước cụ thể để xây dựng ma trận này như sau:

Bước 1: Lập danh mục các yếu tố quyết định NLCT của công ty trong một ngành kinh doanh. Đây là các yếu tố bên trong của công ty, không bao hàm các yếu tố môi trường bên ngoài. Các yếu tố quan trọng nhất có thể liệt kê như sau:

  • Năng lực tài chính;
  • Năng lực quản trị, điều hành;
  • Năng lực nguồn nhân lực;
  • Năng lực huy động vốn;
  • Năng lực phát triển sản phẩm;
  • Năng lực Marketing;
  • Năng lực chất lượng dịch vụ;
  • Năng lực cho vay;
  • Năng lực cạnh tranh lãi suất;
  • Năng lực uy tín, thương hiệu;
  • Năng lực phục vụ;
  • Năng lực công nghệ;
  • Năng lực đáp ứng;
  • Năng lực phát triển mạng lưới.

Bước 2: Xác định tầm quan trọng của các yếu tố đối với ngành bằng cách phân loại từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0 (quan trọng nhất). Trọng số này cho thấy tầm quan trọng tương đối của yếu tố đó với thành công của các công ty trong ngành.

Bước 3: Phân loại từ 1 đến 5 cho mỗi yếu tố đại diện, từ yếu nhất (1 điểm) đến mạnh nhất (5 điểm). Đây là điểm số phản ánh năng lực cạnh tranh từng yếu tố của công ty so với các đối thủ trong ngành kinh doanh.

Bước 4: Tính điểm cho từng yếu tố bằng cách nhân mức độ quan trọng của yếu tố đó với điểm số phân loại tương ứng.

Bước 5: Tính tổng điểm cho toàn bộ các yếu tố được đưa vào ma trận bằng cách cộng điểm số các yếu tố thành phần năng lực cạnh tranh của công ty. Tổng số điểm này phản ánh năng lực cạnh tranh tuyệt đối của công ty.

Nếu tổng số điểm của toàn bộ các yếu tố được đưa vào ma trận từ 3,0 trở lên, thì công ty có năng lực cạnh tranh tuyệt đối trên mức trung bình. Ngược lại, tổng số điểm trong ma trận T < (T* = 3,0) thì năng lực cạnh tranh tuyệt đối của công ty thấp hơn mức trung bình.

Bảng 1.2: Đánh giá các yếu tố bên trong công ty

Mô hình đánh giá các yếu tố nội bộ công ty giúp các công ty đánh giá được NLCT của mình trong mối tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường mục tiêu, từ đó tìm ra được những lợi thế cơ bản nhằm nâng cao NLCT của công ty trên thị trường. Phương pháp này cho phép xác định yếu tố NLCT nào cần được duy trì, cần được củng cố thêm và yếu tố cần phải xây dựng, từ đó đề ra các giải pháp thích hợp để nâng cao NLCT của công ty. Tác giả vận dụng mô hình này để nghiên cứu, đánh giá NLCT của BVSC.

1.2.3. Khái niệm về năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán

Ngày nay, cạnh tranh là một điều tất yếu khách quan trong một nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, TTCK là một môi trường cạnh tranh rất sôi động và chịu nhiều tác động của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Từ những TTCK sơ khai nhất đến những TTCK phát triển thì vấn đề cạnh tranh giữa các CTCK luôn diễn ra mạnh mẽ, quyết liệt và gay gắt ngay trong chính bản thân các CTCK ở trong nước với nhau.

Hơn thế nữa, trong điều kiện nền kinh tế hội nhập quốc tế hiện nay, khi chúng ta phải thực hiện rất nhiều cam kết với các tổ chức quốc tế, cộng với xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, quá trình hội nhập của các quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ thì các quy định mang tính chất giới hạn hành chính trong lĩnh vực tài chính tiền tệ sẽ được xoá bỏ hoặc nới lỏng để phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá về tài chính – tiền tệ. Việc hội nhập trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là một trong những thách thức lớn của nhiều tổ chức tài chính – ngân hàng nói chung ở nước ta. Vì vậy, việc nâng cao NLCT là yếu tố sống còn đối với các CTCK.

Năng lực cạnh tranh của CTCK là thể hiện thực lực và lợi thế của công ty so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.

Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một CTCK cần phải xác định các yếu tố phản ánh năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng.

Vận dụng phương pháp Thompson – Strickland đánh giá so sánh tổng thể NLCT cho công ty, tác giả vận dụng bộ 06 yếu tố bên trong đánh giá NLCT của CTCK. Do đặc tính của ngành kinh doanh chứng khoán, hoạt động của CTCK luôn chịu ảnh hưởng từ các điều kiện kinh tế tài chính bên ngoài. Đồng thời do phải phản ứng với những biến đổi của môi trường nên bản thân CTCK cũng luôn cần điều chỉnh. Vì vậy, vận dụng mô hình đánh giá các yếu tố nội bộ của Thompson và Strickland, tác giả tập trung phân tích các yếu tố bên trong quyết định đến năng lực cạnh tranh của CTCK, chi tiết như sau:

1.2.4. Các yếu tố bên trong quyết định đến đến năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

1.2.4.1. Tiềm lực tài chính của công ty chứng khoán

Hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp chịu sự quản lý chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước, bên cạnh yếu tố quan trọng là con người thì CTCK cần có năng lực tài chính vững mạnh để tăng cường sức cạnh tranh của mình. Năng lực về tài chính là cơ sở để CTCK phát huy thế mạnh về con người, phát triển sản phẩm, mở rộng quy mô để chiếm lĩnh thị phần và nâng cao tính an toàn, hiệu quả trong hoạt động.

Các tiêu chí để đánh giá tiềm lực tài chính của CTCK gồm có:

1.2.4.1.1. Quy mô nguồn vốn của công ty chứng khoán: Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Qui mô vốn sẽ quyết định CTCK được thực hiện các nghiệp vụ nào mà cơ quan nhà nước cho phép, cũng như triển khai các nghiệp vụ đòi hỏi quy môn vốn lớn. Một CTCK có qui mô vốn lớn sẽ có điều kiện hơn các CTCK khác trong việc triển khai và phát triển các hoạt động của mình cũng như nâng cao uy tín và lòng tin đối với khách hàng. Qui mô vốn lớn giúp các CTCK có điều kiện đổi mới, nâng cấp và áp dụng các công nghệ, trang thiết bị hiện đại nhất phục vụ cho công việc, từ đó giúp cho các hoạt động của CTCK phát triển.

Quy mô vốn lớn giúp CTCK có điều kiện mở rộng mạng lưới chi nhánh, văn phòng đại diện, phòng giao dịch không những ở trong nước mà còn ở các nước khác trên thế giới. Qua đó, CTCK có điều kiện tăng số lượng khách hàng sử dụng các dịch vụ mà CTCK cung cấp, thúc đẩy các CTCK phát triển hơn nữa các hoạt động của mình.

Quy mô vốn lớn giúp CTCK thực hiện được đầy đủ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, cũng như khả năng đa dạng hóa các hình thức kinh doanh để giảm thiểu rủi ro.

1.2.4.1.2. Khả năng sinh lời của công ty chứng khoán:

Khả năng sinh lời của CTCK thể hiện qua các yếu tố doanh thu, lợi nhuận đạt được, tốc độ tăng trưởng qua các năm và kết quả kinh doanh theo cơ cấu của các nghiệp vụ kinh doanh mà CTCK được thực hiện.

Các yếu tố doanh thu, lợi nhuận đạt được qua hàng năm, thể hiện kết quả kinh doanh trung thực nhất về hoạt động kinh doanh của CTCK. Đây là các yếu tố bề nổi, dễ nhìn thấy và đánh giá nhanh nhất về hiệu quả hoạt động kinh doanh của CTCK. Bên cạnh kết quả cụ thể hàng năm, thì việc phân tích, đánh giá tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận qua các năm (đặc biệt là việc không phát sinh lỗ trong kinh doanh) sẽ cho phép đánh giá sâu hơn về kết quả hoạt động của CTCK.

Bên cạnh yếu tố doanh thu, lợi nhuận, thì điểm cần lưu ý đặc biệt của vấn đề này chính là cơ cấu doanh thu, cơ cấu lợi nhuận có được từ các mảng nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, đặc biệt là mức độ tăng trưởng của các mảng nghiệp vụ này qua hàng năm.

Một CTCK được đánh giá có khả năng sinh lời tốt khi có kết quả doanh thu, lợi nhuận tăng trưởng ổn định tốt hơn so với tốc độ tăng trưởng của thị trường, cũng như cơ cấu lợi nhuận các mảng kinh doanh phát triển ổn định, đảm bảo tăng trưởng theo chiều sâu đối với hoạt động của CTCK.

1.2.4.1.3. Chỉ tiêu an toàn tài chính trong hoạt động của công ty chứng khoán: Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Việc CTCK tuân thủ các quy định về an toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh của mình có tính quyết định đến uy tín của CTCK cũng như khả năng thu hút khách hàng. Vì hoạt động của CTCK bên cạnh công tác quản lý nguồn tiền kinh doanh của khách hàng còn có công tác tự doanh cho chính CTCK, do vậy nên chỉ tiêu an toàn tài chính đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn CTCK của khách hàng.

Để đánh giá chỉ tiêu an toàn tài chính trong hoạt động của CTCK, Chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Tài chính đã ban hành thông tư quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính nhằm mục đích đảm bảo hoạt động hiệu quả cho các CTCK trong môi trường cạnh tranh lành mạnh. Các chỉ tiêu cụ thể liên quan đến quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của CTCK trong văn bản này như sau:

Vốn khả dụng: là vốn chủ sở hữu có thể chuyển đổi thành tiền trong vòng chín mươi (90) ngày

Vốn khả dụng bao gồm:

  • Vốn đầu tư của chủ sở hữu – vốn cổ phần ưu đãi hoàn lại (nếu có)
  • Thặng dư vốn cổ phần
  • Quỹ dự trữ bổ sung Vốn điều lệ
  • Quỹ đầu tư phát triển
  • Quỹ dự phòng tài chính
  • Quỹ khác thuộc vốn chủ sở hữu được trích lập phù hợp với quy định của pháp luật
  • Lợi nhuận luỹ kế và lợi nhuận sau thuế chưa phân phối trước khi trích lập các khoản dự phòng theo quy định của pháp luật
  • Năm mươi phần trăm (50%) phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được định giá lại theo quy định của pháp luật (trong trường hợp định giá tăng) hoặc trừ đi toàn bộ phần giá trị giảm đi (trong trường hợp định giá giảm)
  • Chênh lệch tỷ giá hối đoái
  • Lợi ích của cổ đông thiểu số
  • Các khoản giảm trừ
  • Các khoản tăng thêm

Tổng giá trị rủi ro: là tổng các giá trị rủi ro thị trường, giá trị rủi ro thanh toán và giá trị rủi ro hoạt động.

Tỷ lệ vốn khả dụng: là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị vốn khả dụng và tổng giá trị rủi ro:

Tỷ lệ vốn khả dụng = Vốn khả dụng x 100% / Tổng giá trị rủi ro

Giá trị rủi ro hoạt động: là giá trị tương ứng với mức độ tổn thất có thể xảy ra do lỗi kỹ thuật, lỗi hệ thống và quy trình nghiệp vụ, lỗi con người trong quá trình tác nghiệp hoặc do thiếu vốn kinh doanh phát sinh từ các khoản chi phí, lỗ từ hoạt động đầu tư, hoặc do các nguyên nhân khách quan khác.

Rủi ro hoạt động của CTCK được xác định bằng 25% chi phí duy trì hoạt động của CTCK trong vòng 12 tháng liền kề tính tới tháng gần nhất hoặc 20% Vốn pháp định theo quy định của pháp luật, tuỳ thuộc vào giá trị nào lớn hơn.

Chi phí duy trì hoạt động của CTCK được xác định bằng tổng chi phí phát sinh trong kỳ, trừ đi:

  • Chi phí khấu hao;
  • Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn;
  • Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn;
  • Dự phòng phải thu khó đòi.

Trường hợp CTCK hoạt động dưới 01 năm, rủi ro hoạt động được xác định bằng 03 lần chi phí duy trì hoạt động bình quân hàng tháng tính từ thời điểm CTCK đi vào hoạt động hoặc 20% Vốn pháp định, tuỳ thuộc vào giá trị nào lớn hơn.

Giá trị rủi ro thị trường: là giá trị tương ứng với mức độ tổn thất có thể xảy ra khi giá thị trường của tài sản đang sở hữu biến động theo chiều hướng bất lợi.

Giá trị rủi ro thị trường = Vị thế ròng x Giá tài sản x Hệ số rủi ro thị trường

Đối với số chứng khoán chưa phân phối hết từ các Hợp đồng bảo lãnh phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn, Giá trị rủi ro thị trường được xác định theo công thức:

Giá trị rủi ro thị trường = {Số chứng khoán còn lại chưa phân phối, hoặc đã phân phối nhưng chưa nhận thanh toán x Giá bảo lãnh phát hành – Giá trị tài sản bảo đảm (nếu có)} x Hệ số rủi ro phát hành x {Hệ số rủi ro thị trường + (Giá bảo lãnh phát hành – Giá giao dịch) (nếu dương)/Giá bảo lãnh phát hành}

Giá trị rủi ro thanh toán: là giá trị tương ứng với mức độ tổn thất có thể xảy ra khi đối tác không thể thanh toán đúng hạn hoặc chuyển giao tài sản đúng hạn theo cam kết.

Giá trị rủi ro thanh toán = Hệ số rủi ro thanh toán theo đối tác x Giá trị tài sản tiềm ẩn rủi ro thanh toán

Đối với các khoản phải thu quá hạn, chứng khoán chưa nhận chuyển giao đúng hạn theo quy định, kể cả chứng khoán, tiền chưa nhận được từ các giao dịch, hợp đồng đáo hạn, thì Giá trị rủi ro thanh toán được xác định theo nguyên tắc sau:

Giá trị rủi ro thanh toán = Hệ số rủi ro thanh toán theo thời gian x Giá trị tài sản tiềm ẩn rủi ro thanh toán

Định kỳ theo quy định của nhà nước, các CTCK phải công bố thông tin đầy đủ nội dung liên quan đến các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của họ để đảm bảo tính an toàn tài chính trong hoạt động kinh doanh của CTCK.

1.2.4.1.4. Năng lực huy động vốn:

Bên cạnh nguồn vốn tự có để hoạt động kinh doanh, nhu cầu huy động vốn để hoạt động và phát triển trong lĩnh vực TTCK là vô cùng quan trọng, các CTCK cần phải xây dựng chiến lược cũng như tại mọi thời điểm có phương án huy động vốn bằng nhiều cách khác nhau đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Vốn tự có sẽ chỉ đáp ứng cho các hoạt động quản lý và đầu tư hiện tại nhưng sự phát triển của thị trường đòi hỏi nguồn vốn cần có ngày càng cao, để thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh mang lại lợi nhuận lớn cho CTCK, cũng như là cơ sở để đánh giá vị thế năng lực tài chính của 1 CTCK. Khả năng huy động vốn đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh của CTCK bởi không phải CTCK nào cũng có khả năng huy động vốn dễ dàng trên thị trường được.

Hình thức sở hữu của CTCK có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh hay công ty cổ phần. Các loại hình sở hữu này sẽ tác động tới hoạt động của CTCK khi CTCK muốn phát triển, mở rộng hoạt động của mình thông qua việc huy động vốn. Trong quá trình kinh doanh các CTCK đều muốn mở rộng qui mô, phát triển các hoạt động nhằm thích ứng với sự phát triển của thị trường. Tuy nhiên, sự phát triển này lại phụ thuộc một phần vào qui mô vốn của công ty. CTCK có thể tăng thêm vốn để đáp ứng yêu cầu đó nhưng việc tăng thêm vốn này lại bị ảnh hưởng bởi hình thức sở hữu của công ty vì với các hình thức sở hữu khác nhau thì khả năng huy động vốn khác nhau. Do đó, điều này sẽ tác động tới việc phát triển thêm các hoạt động khi CTCK tồn tại với hình thức sở hữu mà bị hạn chế trong việc tăng thêm vốn.

1.2.4.2. Tiềm lực vốn trí tuệ: Năng lực quản trị-chất lượng nguồn nhân lực Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Một yếu tố quan trọng quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ công ty nào là vai trò của những người lãnh đạo công ty, những quyết định của họ có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ hoạt động của công ty. Năng lực quản trị, kiểm soát và điều hành của nhà lãnh đạo trong hoạt động của CTCK có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính hiệu quả, an toàn trong hoạt động CTCK. Tầm nhìn của nhà lãnh đạo là yếu tố then chốt để công ty có một chiến lược kinh doanh đúng đắn trong dài hạn.

Một CTCK có đội ngũ lãnh đạo giỏi về chuyên môn, có năng lực, trình độ quản lý chắc chắn sẽ đem lại thành công cho công ty và ngược lại. Với đội ngũ lãnh đạo giỏi sẽ biết cách bố trí tổ chức một cách khoa học, sử dụng đúng người đúng việc, biết khơi dậy tính sáng tạo, tự chủ trong công việc của từng thành viên, biết đoàn kết họ thành một khối thống nhất. Có như vậy các hoạt động trong công ty mới diễn ra suôn sẻ và có điều kiện phát triển.

Thông thường đánh giá năng lực quản trị, kiểm soát, điều hành của một CTCK, người ta xem xét đánh giá các chuẩn mực và các chiến lược mà công ty xây dựng cho hoạt động của mình. Hiệu quả hoạt động cao, có sự tăng trưởng theo thời gian và khả năng vượt qua những bất trắc là bằng chứng cho năng lực quản trị cao của công ty.

Một số tiêu chí thể hiện năng lực vốn trí tuệ của CTCK là:

1.2.4.2.1. Bộ máy của công ty chứng khoán được tổ chức hợp lý:

Hệ thống cơ cấu tổ chức của CTCK thường được chia theo chức năng nhiệm vụ của các bộ phận trong công ty. Thông thường, cơ cấu tổ chức điển hình của một CTCK bao gồm hai bộ phận lớn là khối kinh doanh và khối hỗ trợ, trong khối kinh doanh thường được chia theo các mảng dịch vụ chính là môi giới chứng khoán, ngân hàng đầu tư hay tư vấn tài chính doanh nghiệp. Đối với những CTCK lớn, nơi các bộ phận thường được chuyên môn hoá cao và nâng cấp về mặt quy mô, thì các CTCK thường phát triển thêm một số bộ phận chính khác như quản lý quỹ, trung tâm phân tích… Dựa trên xu thế hiện nay, để nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân, các CTCK nên xây dựng hệ thống tổ chức cơ cấu gọn nhẹ, ít cấp bậc nhưng các đơn vị thường được phân chia rõ ràng, ít chồng chéo, trùng lặp nhiệm vụ chức năng. Đồng thời các CTCK cần phải đảm bảo rằng cơ cấu tổ chức của mình có tính linh hoạt cao, dễ thay đổi khi thị trường thay đổi hoặc biến động.

Đối với các CTCK, phương pháp quản trị doanh nghiệp luôn là một vấn đề thiết yếu và đòi hỏi phải đạt được những chuẩn mực ở mức cao do đặc tính phức tạp cả về hàng hoá lẫn cách thức kinh doanh. Phương pháp quản trị nội bộ của các CTCK cũng giống như các doanh nghiệp khác thường tập trung vào biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế. Các biện pháp hành chính là các biện pháp quản trị dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý và kỷ luật của doanh nghiệp, bao gồm các quy định, quy chế cụ thể về các hoạt động trong công ty. Các biện pháp về hành chính chỉ có hiệu quả cao khi nó được dựa trên các căn cứ khoa học thực tế, được luận chứng đầy đủ về mọi mặt. Tập hợp đủ thông tin, tính toán đầy đủ đến các lợi ích và các khía cạnh có liên quan là bảo đảm cho các biện pháp hành chính có căn cứ khoa học, từ đó nâng cao hiệu quả của các biện pháp này, giúp CTCK đảm bảo và phát triển được năng lực cạnh tranh của bản thân.

1.2.4.2.2. Đội ngũ nhân viên của công ty chứng khoán có trình độ Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Trong một công ty kinh doanh dịch vụ tài chính như CTCK thì yếu tố con người có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thể hiện chất lượng của dịch vụ. Đội ngũ nhân viên của công ty chính là người trực tiếp đem lại cho khách hàng những cảm nhận về công ty và sản phẩm dịch vụ của công ty, đồng thời tạo niềm tin của khách hàng đối với CTCK. Đó chính là những đòi hỏi quan trọng đối với đội ngũ nhân viên của CTCK, từ đó giúp công ty chiếm giữ thị phần cũng như tăng hiệu quả kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

Năng lực cạnh tranh về nguồn nhân lực của các CTCK phải được xem xét trên cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng lao động.

Về số lượng lao động:

Để có thể mở rộng mạng lưới nhằm tăng thị phần và phục vụ tốt khách hàng, các CTCK nhất định phải có lực lượng lao động đủ về số lượng. Tuy nhiên, cũng cần so sánh yếu tố này trong mối tương quan với hệ thống mạng lưới và hiệu quả kinh doanh để nhìn nhận năng suất lao động của người lao động trong CTCK.

Về chất lượng lao động:

Có thể nhận thấy đây là một trong những nội dung quan trọng đánh giá năng lực nguồn nhân lực của CTCK. Tại CTCK có 02 mảng hoạt động quan trọng là khối kinh doanh làm việc trực tiếp với khách hàng để mang lại doanh thu cho chính các mảng nghiệp vụ kinh doanh của CTCK, và mảng hỗ trợ để thực hiện hoàn tất các yêu cầu từ hoạt động kinh doanh của CTCK. Chất lượng nguồn nhân lực trong hoạt động kinh doanh của CTCK thể hiện qua các tiêu chí:

Trình độ văn hóa của đội ngũ lao động: bao gồm trình độ học vấn và các kỹ năng hỗ trợ như ngoại ngữ, tin học, khả năng giao tiếp, thuyết trình, ra quyết định, giải quyết vấn đề, … Tiêu chí này khá quan trọng, là điều kiện cần trong hiệu quả kinh doanh của CTCK vì nó là nền tảng thể hiện khả năng của người lao động trong công ty có thể học hỏi, nắm bắt công việc để thực hiện tốt kỹ năng nghiệp vụ.

Kỹ năng quản trị đối với nhà điều hành; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kinh nghiệm công tác và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ đối với nhân viên: đây là tiêu chí quan trọng quyết định đến chất lượng dịch vụ mà CTCK cung cấp cho khách hàng. CTCK cần một đội ngũ những nhà điều hành giỏi để giúp bộ máy vận hành hiệu quả và một đội ngũ nhân viên với kỹ năng nghiệp vụ cao, có khả năng tư vấn cho khách hàng sử dụng mọi sản phẩm dịch vụ của CTCK cũng như để tạo được lòng tin với khách hàng và ấn tượng tốt về công ty. Đây là những yếu tố then chốt giúp CTCK cạnh tranh giành khách hàng.

1.2.4.2.3. Chính sách thu hút nhân tài được công ty chứng khoán quan tâm:

Các chính sách đãi ngộ, môi trường làm việc để thu hút và giữ chân người lao động có năng lực: thị trường tài chính càng phát triển thì cơ hội cho những chuyên viên tài chính càng nhiều. Vì tầm quan trọng của nguồn nhân lực trong CTCK, các CTCK không chỉ cạnh tranh nhau về sản phẩm mà còn phải cạnh tranh nhau cả về “chất xám”, những người tạo ra sản phẩm và đưa sản phẩm của CTCK đến với khách hàng. Các chính sách này thể hiện qua: cơ chế đào tạo, chế độ lương thưởng, các phúc lợi mà người lao động được hưởng, các cơ chế khuyến khích sự thăng tiến, các chính sách hỗ trợ nghiệp vụ cho người lao động, …

Trong bất kỳ hoạt động nào của CTCK cũng đều cần tới một đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cũng như kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng và trong lĩnh vực ngân hàng tài chính nói chung. Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan trọng và quyết định đối với năng lực cạnh tranh của một CTCK. Chất lượng nguồn nhân lực là kết quả của sự cạnh tranh trong quá khứ đồng thời lại chính là năng năng lực cạnh tranh của CTCK trong tương lai. Có một đội ngũ cán bộ thừa hành và nhân viên giỏi, có khả năng sáng tạo và thực thi chiến lược sẽ giúp CTCK hoạt động ổn định và bền vững. Có thể khẳng định nguồn nhân lực đủ về số lượng và đầy về chất lượng là một biểu hiện năng lực cạnh tranh cao của các CTCK.

1.2.4.2.4. Công ty chứng khoán thường đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm, thị trường:

Sự đổi mới không ngừng của các sản phẩm trên TTCK đòi hỏi hàm lượng chất xám của đội ngũ nhân viên của CTCK không ngừng được nâng cao, đặc biệt là hàm lượng chất xám trong hoạt động tư vấn chứng khoán. Hàm lượng tri thức của nhân viên trong các CTCK chính là yếu tố quan trọng giúp các CTCK có thể đáp ứng tốt các nhu cầu của khách hàng từ đó phát triển các hoạt động của mình. Với đặc thù trong kinh doanh chứng khoán là cung cấp các dịch vụ vô hình, dịch vụ này chỉ có thể nói đạt chất lượng khi khách hàng cảm nhận được rõ ràng về kết quả mà CTCK mang lại cho họ. Các hoạt động của một CTCK đều đòi hỏi khả năng phân tích rất cao của các nhân viên hành nghề để ra được các quyết định đầu tư đúng đắn.

1.2.4.3. Chất lượng sản phẩm của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Sản phẩm của CTCK là yếu tố trực tiếp tác động đến quyết định lựa chọn CTCK của khách hàng. Sản phẩm dịch vụ của CTCK phải được xây dựng hướng tới khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong hiện tại và dự báo được nhu cầu của khách hàng trong tương lai. Năng lực về sản phẩm của CTCK được thể hiện qua việc:

1.2.4.3.1. Công ty chứng khoán có sản phẩm đa dạng

Dựa trên đặc tính phi vật chất của hàng hoá và tính linh hoạt cao của các hoạt động giao dịch, các sản phẩm dịch vụ mà một CTCK cung cấp cho khách hàng có thể được thiết kế đa dạng, kết hợp phong phú nhiều chức năng tiện ích để đáp ứng tối đa và phù hợp nhất với yêu cầu của từng nhóm đối tượng khách hàng khác nhau. Do đó, mức độ đa dạng trong việc thiết kế và triển khai các sản phẩm dịch vụ của một CTCK luôn là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ và nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty.

Để tăng cường mức độ đa dạng trong việc thiết kế và triển khai các sản phẩm dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân, các CTCK cần đầu tư cho lĩnh vực nghiên cứu và phát triển sản phẩm dựa trên việc khảo sát và phân tích các nhu cầu của từng nhóm đối tượng khác nhau. Đồng thời các CTCK cũng cần quan tâm chú trọng đến việc khai phá các sản phẩm dịch vụ mới trên thị trường dựa theo xu hướng phát triển của thị trường hoặc của các ứng dụng công nghệ liên quan. Bên cạnh đó, việc quản trị chuyên nghiệp quá trình triển khai các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng là một đòi hỏi quan trọng đối với các CTCK.

1.2.4.3.2. Công ty chứng khoán thường đưa ra các sản phẩm mới

Môi trường kinh doanh chứng khoán là một môi trường có tốc độ phát triển rất mau lẹ. Mặc dù có lịch sử phát triển khá lâu đời nhưng thị trường chứng khoán rất năng động và luôn đòi hỏi các công ty hoạt động trong đó phải có khả năng tự đổi mới mình, thường xuyên cải tiến cập nhật nâng cấp các hoạt động kinh doanh của mình để theo kịp sự phát triển của các lực lượng thị trường. Đây cũng chính là yêu cầu quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của các CTCK.

Muốn vậy, các CTCK cần phải đầu tư nguồn vốn và nhân lực để theo dõi tổng hợp các diễn biến xu hướng của thị trường. Từ đó nghiên cứu đề xuất các đường hướng phát triển sản phẩm dịch vụ mới hoặc cập nhật bổ sung nâng cấp các sản phẩm dịch vụ hiện tại của công ty. Khả năng đổi mới cải tiến không chỉ bó hẹp trong phạm về sản phẩm dịch vụ của công ty, mà nó còn thể hiện ở cả các hoạt động tác nghiệp hàng ngày, các phương thức quản lý, các chiến lược phát triển mở rộng về lĩnh vực kinh doanh, mạng lưới, quy mô… Do đó, các CTCK cần phải duy trì và cung cấp đầy đủ thông tin về sản phẩm và thị trường công nghệ cũng như tính năng của sản phẩm dịch vụ và sản phẩm công nghệ của mình để nâng cao toàn diện khả năng và năng lực cạnh tranh của mình.

1.2.4.3.3. Các sản phẩm công ty chứng khoán thường có nhiều tiện ích Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Sản phẩm của CTCK có nhiều tiện ích thể hiện ở khả năng đáp ứng kịp thời, thuận tiện giúp khách hàng có thể sử dụng bất cứ lúc nào.

Thuận tiện, nhanh chóng, ổn định và an toàn là các đặc tính ít có tại các thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán đều phải làm quen với việc lên xuống bất ổn của diễn biến thị trường, với những thay đổi, những bước ngoặt nghiêm trọng diễn ra đột ngột, hiếm khi có sự báo trước. Bên cạnh đó, quy mô giá trị của thị trường cũng thay đổi theo từng ngày, có thể mở rộng hoặc co hẹp theo những khoảng thời gian không nhất định. Hoạt động trong một môi trường như vậy, những CTCK có năng lực cạnh tranh cao là những công ty có khả năng điều chỉnh các sản phẩm dịch vụ của mình một cách linh hoạt, thuận tiện, nhanh chóng và an toàn nhằm đưa ra những chiến lược kinh doanh mềm dẻo để tương thích, phù hợp với từng thời kỳ khác nhau của thị trường.

Để tạo dựng duy trì và phát triển khả năng thay đổi thích ứng, các CTCK cần có những biện pháp phòng vệ tích cực đối phó với những biến động của thị trường thông qua việc thu thập các dữ liệu lịch sử, thiết lập các báo cáo dự đoán xu thế của thị trường, từ đó đưa ra những chiến lược thích ứng với từng tình hình diễn biến cụ thể để tránh thế bị động trước những biến đổi đột ngột của thị trường. Song hành với việc nghiên cứu và dự báo, các CTCK cũng cần xây dựng những quy trình, quy chế hoạt động thích hợp với từng giai đoạn của thị trường.

1.2.4.3.4. Mức giá cả (phí, lãi suất) của sản phẩm công ty chứng khoán mang tính cạnh tranh

Giá bán trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán bản chất là lãi suất phải trả cho việc sử dụng vốn. Đối với CTCK thì việc cạnh tranh về giá chính là khả năng cung ứng sản phẩm dịch vụ tới khách hàng có giá rẻ. Để có được giá bán rẻ cung cấp cho khách hàng, thì đầu vào tạo ra giá bán cho khách hàng chính là khả năng huy động từ các chủ thể trong nền kinh tế với giá rẻ. Nếu công ty nào có giá huy động thấp thì dễ dàng cạnh tranh trong việc gia tăng nguồn vốn huy động.

Để xây dựng được giá bán thấp hơn các đối thủ thì nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như quy mô cung ứng sản phẩm, dịch vụ, sự am hiểu về thị trường, công nghệ, sự liên kết với các đơn vị cung ứng tài chính.

1.2.4.4. Trình độ công nghệ của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

1.2.4.4.1. Công ty chứng khoán thường xuyên cập nhật, ứng dụng công nghệ mới

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông trong hoạt động của mình đã trở thành giải pháp cơ bản để các CTCK có thể tồn tại và phát triển. Thực tế khoa học công nghệ của thế giới đã sáng chế ra các công nghệ máy tính và viễn thông góp phần vô cùng quan trọng trong việc làm giảm chi phí, giảm rủi ro và mở rộng phạm hoạt động của CTCK, giúp đáp ứng mục đích cụ thể của từng đối tượng khách hàng của CTCK.

Các CTCK hoạt động trong lĩnh vực mà ở đó chịu tác động rất lớn về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin. Đây là ngành luôn đòi hỏi sự nhanh chóng, kịp thời, đầy đủ và chuẩn xác về thông tin. Hoạt động của các CTCK nói riêng và của toàn bộ TTCK nói chung đều phải dựa vào hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, các thiết bị máy móc để truyền và nhận lệnh mua bán của khách hàng; để thực hiện việc bù trừ thanh toán cho các giao dịch…; các phương tiện truyền tin, công bố thông tin, xử lý thông tin…

1.2.4.4.2. Các giao dịch online của công ty chứng khoán diễn ra suôn sẻ, an toàn Việc sử dụng công nghệ thông tin viễn thông đã xoá bỏ được hạn chế về địa

lý và tính kịp thời trong công bố thông tin. Các nhà đầu tư có thể cập nhật, xử lý thông tin và ra các quyết định đầu tư kịp thời, ngay sau khi thông tin được công bố, thông qua máy tính cá nhân, internet hay điện thoại di động khi họ ở bất cứ đâu. Điều này cũng làm tăng tính minh bạch và sự công bằng trong xử lý thông tin đến người sử dụng dịch vụ của CTCK. Đặc biệt đối với các CTCK tham gia trên thị trường OTC thì hệ thống thông tin điện tử lại càng quan trọng. Chúng giúp các CTCK có thể mua bán chứng khoán được với nhau và cho khách hàng.

1.2.4.4.3. Các sản phẩm dịch vụ của công ty chứng khoán đáp ứng được nhu cầu của khách hàng 24/24

Hiện nay sản phẩm chứng khoán dựa trên nền tảng công nghệ là vấn đề phổ biến và đương nhiên. Đặc biệt là việc công nghệ hoá, trực tuyến hoá các sản phẩm dịch vụ của CTCK là lợi thế cơ bản và đặc biệt trong việc cạnh tranh trên TTK. Các CTCK luôn luôn phải cung cấp các sản phẩm dịch vụ trực tuyến hoá, đáp ứng yêu cầu giao dịch 24/24 của khách hàng. Đó chính là sự tương tác tuyệt đối trong mọi thời gian và không gian giữa khách hàng và CTCK.

Yếu tố thời gian và địa lý đã bị phá bỏ và nhường chỗ cho cổng giao tiếp trực tuyến giữa khách hàng và CTCK, mọi nhu cầu giao dịch của khách hàng đều được CTCK áp dụng tốt thông qua hệ thống giao dịch 24/24 của mình. Với cơ chế giao dịch này, khách hàng của CTCK mở rộng được phạm vi giao dịch không chỉ ở trong nước mà ở cả nước ngoài với các múi giờ sinh học khác nhau vẫn giao tiếp hiệu quả với TTCK Việt nam qua cơ chế giao dịch 24/24 của các CTCK. Khoảng cách địa lý đã không còn là yếu tố cản bước gắn chặt khách hàng và CTCK, thậm chí nhờ có kết nối 24/24 mà khách hàng gắn bó với CTCK nhiều hơn. Ở mọi thời điểm, mọi thời gian, bất cứ khi nào có nhu cầu, khách hàng đều kết nối trực tiếp với CTCK để sử dụng sản phẩm dịch vụ.

1.2.4.4.4. Các sản phẩm online của công ty chứng khoán được cung cấp bởi phần mềm lõi

Sản phẩm dịch vụ của CTCK được thiết kế dựa trên nền tảng công nghệ để tương tác với khách hàng trong mọi thời gian, thời điểm. Với việc trực tuyến hoá các sản phẩm dịch vụ, nhu cầu sử dụng, đặc biệt là cùng một thời điểm cần phát sinh rất nhiều yêu cầu cho khách hàng đòi hỏi CTCK phải có hệ thống công nghệ cực kỳ hiện đại xử lý các giao dịch cho khách hàng.

Đóng góp cho sự ổn định, an toàn, thông suốt và kịp thời của các nhu cầu 24/24 này chính bởi hệ thống phần mềm lõi được cấu trúc và hoàn thiện hoàn hảo tại các CTCK. Hệ thống này tạo ra và xử lý được lượng giao dịch khổng lồ trong một khoảng thời gian rất ngắn. Việc xây dựng, quản trị và điều hành phần mềm lõi là vấn đề vô cùng quan trọng và là yếu tố then chốt tạo dựng nền tảng công nghệ an toàn, hiệu quả và cạnh tranh cao nhất cho các CTCK.

1.2.4.5. Chất lượng dịch vụ của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính thì chất lượng dịch vụ của CTCK có thể định nghĩa như là sự khác biệt giữa mong đợi của khách hàng và dịch vụ nhận biết được. Nếu mong đợi của khách hàng lớn hơn sự thực hiện thì chất lượng nhận biết được kém thỏa mãn, khách hàng không hài lòng.

Các nhà nghiên cứu khác như Cronin, Taylor, Spreng, Mackoy và Oliver khuyến cáo rằng chất lượng dịch vụ là tiền tố của sự hài lòng của khách hàng (Thongmasak, 2001). Cronin và Taylor (1992) đưa ra kết quả nghiên cứu khuyến cáo là chất lượng dịch vụ là tiền tố của sự hài lòng của khách hàng và sự hài lòng của khách hàng ảnh hưởng có ý nghĩa đến khuynh hướng mua hàng.

Chất lượng dịch vụ của CTCK được thể hiện bởi các yếu tố trọng yếu bao gồm:

1.2.4.5.1. Thủ tục giao dịch đối với khách hàng đơn giản

Điều này thể hiện được sự đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ của CTCK đối với khách hàng. Công đoạn giảm tải thủ tục hành chính càng được cắt giảm thể hiện ở sự tương tác trực tiếp tại quầy với CTCK khi khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ thể hiện rõ tính chất đơn giản hoá thủ tục giao dịch đối với khách hàng. Có thể nói lĩnh vực chứng khoán với vô cùng nhiều sản phẩm dịch vụ tiện ích cung cấp cho Khách hàng thì khâu tối giản hoá các thủ tục giao dịch, trực tuyến hoá cách thức đăng ký sử dụng sản phẩm dịch vụ là yếu tố vô cùng cần thiết đối với các CTCK nhằm tăng khả năng cạnh tranh.

1.2.4.5.2. Thái độ phục vụ của nhân viên công ty chứng khoán thân thiện, ân cần, vui vẻ

Lĩnh vực chứng khoán là ngành công nghiệp dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tư vấn có trả phí, bởi vậy thái độ của nhân viên CTCK khi làm việc với khách hàng cần phải đặt khách hàng lên hàng đầu để tư vấn sử dụng các sản phẩm dịch vụ phù hợp nhất. Muốn vậy, nhân viên CTCK cần có thái độ cầu thị, thân thiện, ân cần, vui vẻ khi tiếp xúc với khách hàng, tạo cho khách hàng cảm giác như người thân, người nhà nhằm hướng tới việc quản lý và triển khai các sản phẩm dịch vụ tài chính cho khách hàng.

1.2.4.5.3. Nhân viên công ty chứng khoán thể hiện tính chuyên nghiệp trong các giao dịch với khách hàng

Sản phẩm dịch vụ của CTCK rất đặc thù và có tính chất phức tạp cao. Sự tương tác với khách hàng bản chất là hỗ trợ khách hàng mở rộng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận trong tương lai, tuy nhiên đây là cơ hội và có rất nhiều yếu tố trong tương lai tác động đến hiện thực hoá cơ hội ấy. Do vậy, để giúp khách hàng hiểu rõ và sử dụng các sản phẩm dịch vụ của mình, nhân viên của CTCK khi tiếp xúc với khách hàng phải thể hiện được tính chuyên nghiệp, các phản ứng nhanh nhậy và hợp lý đối với khách hàng. Có thể thấy kỹ năng mềm trong lĩnh vực chứng khoán đóng vai trò vô cùng quan trọng tác động tới tâm lý của khách hàng.

1.2.4.5.4. Thời gian thực hiện các giao dịch là nhanh Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Hầu hết khách hàng của CTCK đều là người có tài sản, có vị thế trong cuộc sống. Bởi vậy thời gian của họ vô cùng quý giá, đòi hỏi CTCK cần phải xây dựng các cơ chế tương tác với khách hàng trong khoảng thời gian tối thiểu nhất. Chính việc áp dụng công nghệ thông tin với cơ chế giao dịch 24/24 là lợi thế cực lớn cho các CTCK khi giao tiếp với khách hàng, bởi nhờ có vậy mọi nhu cầu giao dịch của khách hàng đều được đáp ứng tức thì.

1.2.4.5.5. Công ty chứng khoán có chính sách chăm sóc khách hàng rất tốt

Khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của CTCK, khách hàng chính là đối tượng tạo ra doanh thu cho hoạt động của chính CTCK, vì vậy bên cạnh việc “thu” thì CTCK luôn cần có cơ chế “chi” một cách hợp lý để chăm sóc khách hàng. Việc chăm sóc khách hàng tốt thể hiện ở nhiều yếu tố như việc phân đoạn và xây dựng chính sách chăm sóc khách hàng hợp lý, cơ chế giảm phí, hoa hồng cho khách hàng, cơ chế tư vấn các vấn đề không chỉ liên quan đến chứng khoán mà còn các vấn đề khác mà khách hàng có quan tâm… Tất cả tạo nên một chính sách chăm sóc khách hàng hiệu quả, góp phần giữ chân khách hàng sử dụng các sản phẩm dịch vụ của CTCK.

1.2.4.6. Thương hiệu, uy tín và hoạt động xúc tiến của công ty chứng khoán

Thương hiệu, uy tín và hoạt động xúc tiến của CTCK là kết quả của một quá trình hoạt động kinh doanh và nó được tổng hợp bởi nhiều yếu tố tạo thành giá trị thương hiệu. Công ty có uy tín và giá thị trương hiệu cao sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh. Giá trị năng lực về uy tín của CTCK thể hiện sản phẩm của CTCK là dịch vụ về tài chính, tiền tệ nên uy tín của CTCK rất quan trọng trong việc thu hút, giữ chân khách hàng và phát triển sản phẩm. CTCK không chỉ có các đối tác là khách hàng trong nước mà còn giao dịch với khách hàng nước ngoài nên một CTCK có uy tín, được các tổ chức tài chính quốc tế xếp hạng tín nhiệm cao chính là một phương thức quảng bá hữu hiệu cho công ty.

1.2.4.6.1. Thương hiệu của công ty chứng khoán dễ nhớ, dễ nhận biết

Giá trị thương hiệu của CTCK thể hiện thương hiệu đang có dấu ấn ngày càng quan trọng trong tâm trí khách hàng, những người trực tiếp sử dụng sản phẩm dịch vụ của công ty. Với một thương hiệu mạnh, CTCK có thể duy trì cũng như phát triển thị phần của mình một cách thuận lợi và vững chắc.

Thước đo đánh giá thương hiệu của CTCK luôn nằm trong tâm trí của khách hàng được thể hiện đầu tiên bởi cảm giác dễ nhớ, dễ nhận biết. Để bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu có liên quan đến bộ nhận diện thương hiệu của CTCK là khách hàng đều ghi nhớ và nắm bắt đó là công tác truyền thông quảng bá hình ảnh của CTCK. Nhờ có sự nhận biết này, sự lan toả thông qua truyền thông bằng miệng sẽ góp phần duy trì và tìm kiếm các khách hàng tiềm năng trong mối khăng khít với các khách hàng đang sử dụng sản phẩm dịch vụ của CTCK.

1.2.4.6.2. Biểu tượng (logo) của công ty chứng khoán dễ nhận biết Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Thể hiện rõ nét nhất thương hiệu của CTCK chính từ biểu tượng logo. Sự phát triển của marketing hiện đại đã làm rõ, ấn tượng về logo của CTCK chính là hình ảnh đi kèm của chính CTCK đó. Vì vậy các CTCK cần tập trung nghiên cứu và xây dựng biểu tượng logo thực sự đơn giản, dễ nhận biết để luôn duy trì hình ảnh tới khách hàng.

1.2.4.6.3. Câu khẩu hiệu (slogan) của công ty chứng khoán dễ nhớ

Bộ nhận diện thương hiệu của CTCK không bao giờ thiếu được câu khẩu hiệu (slogan) bởi sự truyền tải đủ ý của câu khẩu hiệu tới các sản phẩm dịch vụ CTCK cung cấp, cam kết khi giao dịch với khách hàng. Các CTCK hàng đầu luôn biết cách xây dựng bộ chuẩn nhận diện thương hiệu, trong đó đặc biệt họ bỏ ra một khoản chi phí rất lớn để tìm kiếm câu khẩu hiệu với trên dưới 10 từ thuần ngôn ngữ bản xứ.

1.2.4.6.4. Các sản phẩm chứng khoán được công ty chứng khoán quảng cáo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng

Rõ ràng sản phẩm dịch vụ chứng khoán là cực kỳ phức tạp, mà khách hàng tiềm năng với kiến thức giản đơn chưa chắc đã hiểu được. Vì vậy nhờ phương tiện truyền thông đại chúng, các CTCK cần phổ biến sâu rộng sản phẩm dịch vụ họ cung cấp tới khách hàng. Các CTCK cần sử dụng nhiều kênh truyền thông để tìm kiếm tới khách hàng tiềm năng, cũng như chính các khách hàng hiện tại trong việc sử dụng rất nhiều loại sản phẩm dịch vụ tiện ích của CTCK. Hiệu quả truyền thông tác động tới kết quả hoạt động kinh doanh của CTCK là vấn đề vô cùng quan trọng và đã được chứng minh qua kết quả kinh doanh của hàng loạt CTCK hàng đầu trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay.

1.2.4.6.5. Sản phẩm chứng khoán của công ty chứng khoán được khách hàng trong nước đánh giá cao

Đánh giá hiệu quả chất lượng sản phẩm dịch vụ của CTCK chính là sự đánh giá của khách hàng đối với các sản phẩm dịch vụ đó. Với môi trường sản phẩm như nhau, sự cạnh tranh của các CTCK chính là các tiện ích, lợi ích cung cấp cho khách hàng được khách hàng đón chờ và sử dụng. Đây là tiêu chí cơ bản trong việc đánh giá năng lực cạnh tranh cho CTCK trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các CTCK hiện nay.

1.2.4.6.6. Khách hàng có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin về các dịch vụ chứng khoán của công ty chứng khoán Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Một trong những yếu tố tiếp tục đề cập đến liên quan đến chất lượng dịch vụ của CTCK chính là việc bố trí được mạng lưới mà ở đó khách hàng có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin để sử dụng sản phẩm dịch vụ của CTCK. Có thể thấy việc áp dụng công nghệ thông tin, sự chấp thuận tăng cường chi phí cho việc quảng bá sản phẩm trên các phương tiện quảng cáo đại chúng tiên tiến hàng đầu của thế giới chính là lợi thế để các CTCK có thể giúp khách hàng tìm kiếm thông tin về đơn vị mình một cách nhanh chóng và đầy đủ nhất. Chính từ sự tiện lợi đem lại cho khách hàng như vậy sẽ giúp CTCK đón chờ rất nhiều khách hàng tiềm năng tương tác và sử dụng sản phẩm dịch vụ.

1.2.4.6.7. Công ty chứng khoán có các hình thức quảng cáo gây ấn tượng

Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như TTCK với số lượng nhà đầu tư có chiều sâu về trình độ, có tài sản lớn hơn nhiều so với các lĩnh vực khác thì việc tiếp cận tìm kiếm nhóm khách hàng tiềm năng này thực sự luôn là bài toán khó đối với các CTCK. Bởi vậy, để có thể tận dụng và tìm kiếm được khách hàng tiềm năng, các CTCK trong các chiến dịch quảng cáo của mình cần có hình thức quảng cáo ấn tượng, sâu sắc để cuốn hút nhà đầu tư tham gia giao dịch tại đơn vị.

1.2.4.6.8. Các chương trình khuyến mãi của công ty chứng khoán phù hợp, có giá trị

Hiện nay các CTCK nói chung thường phải có chính sách “đãi ngộ” khách hàng hợp lý. Một trong các hình thức để chăm sóc và giữ chân khách hàng chính là từ các chương trình khuyến mãi có giá trị, có chiều sâu để một mặt kích thích khách hàng cũ, mặt khác tìm kiếm khách hàng tiềm năng thông qua các chương trình khuyến mãi này. Bất cứ sản phẩm dịch vụ nào tại CTCK hầu như đều gắn liền với phí, với hoa hồng khách hàng cần bỏ ra để sử dụng sản phẩm dịch vụ, bởi vậy các chương trình khuyến mãi phù hợp và có giá trị như một chiếc “cần câu” để thu hút và giữ chân khách hàng tại các CTCK.

1.2.4.6.9. Công ty chứng khoán có hoạt động tài trợ vì cộng đồng Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

Ngày nay, sự khéo léo trong công tác truyền thông chính từ sự truyền tải đồng hành với cộng đồng của các doanh nghiệp mà cụ thể ở đây chính là các CTCK. Thực tế các nghiên cứu đã cho thấy hiệu quả truyền thông thông qua các hoạt động tài trợ vì cộng đồng mang lại cho doanh nghiệp thực hiện rất nhiều hiệu quả không chỉ bao gồm hiệu quả về kinh tế. Vì vậy các CTCK hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhậy cảm luôn tìm cách xây dựng chiến lược marketing phù hợp, trong đó hướng tới các hoạt động tài trợ xã hội để quảng bá hình ảnh, con người, văn hoá doanh nghiệp tới nhà đầu tư tiềm năng.

1.2.4.6.10. Các tài liệu giới thiệu các dịch vụ chứng khoán của công ty chứng khoán rất đẹp, ấn tượng

Đối tượng khách hàng của CTCK luôn là các khách hàng có kiến thức hiểu biết sâu rộng, có tài sản lớn, bởi vậy yêu cầu của họ cũng khắt khe trong mọi khía cạnh khi giao dịch với CTCK. Một trong các yêu cầu đó chính là sự tiếp nhận sử dụng các tài liệu giới thiệu về CTCK.

Các tài liệu này cần được thiết kế đẹp mắt bên cạnh nội dung phong phú, cô đọng, chi tiết lột tả đầy đủ năng lực cũng như sản phẩm dịch vụ của CTCK. Thị hiếu khách hàng, cũng chính là sự chuyên nghiệp ấn tượng của CTCK cần được thể hiện và truyền tải có chiều sâu trong các tài liệu giới thiệu về các dịch vụ của CTCK. Với lượng thông tin khổng lồ được cung cấp liên tục hiện nay, việc thiết kế tài liệu đảm bảo đủ nội dung là chưa đủ mà luôn cần phải ấn tượng, sang trọng, sử dụng các vật liệu công nghệ cao để đánh bóng tên tuổi, hình ảnh của CTCK thông qua bộ nhận diện thương hiệu này.

Tóm lại, năng lực cạnh tranh của CTCK được cấu thành bởi 06 yếu tố cơ bản nêu trên, nhưng thực tế các yếu tố này có tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên một thể thống nhất hệ thống các tiêu chí xuất phát từ bên trong của CTCK, phù hợp với đặc điểm của từng CTCK.

1.2.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh

Từ các khái niệm trên, có thể hiểu nâng cao năng lực cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp, giải pháp để có thể tăng cường các thế mạnh của các nguồn lực, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh, vượt qua các đối thủ khác, giành lấy thị phần và khách hàng về phía mình.

Nâng cao năng lực cạnh tranh là hoạt động vô cùng cần thiết và mang tính cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Đặc biệt, đối với các CTCK Việt Nam, trước thực tiễn hội nhập kinh tế và sự yếu kém vốn có, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh gay gắt đến từ các doanh nghiệp khác trên thế giới.

1.2.6. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty chứng khoán

1.2.6.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh tài chính Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

  • Nâng cao khả năng huy động vốn.
  • Quy mô vốn

Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: Vốn chủ sở hữu (VCSH) và nợ phải trả. Doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn thì tạo được lòng tin đối với đối tác do khả năng chi trả, thanh toán được đảm bảo. VCSH càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng đối phó tốt với những nguy cơ luôn tiềm tàng trong điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn như hiện nay.

Cơ cấu nguồn vốn

Cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn của doanh nghiệp được huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả thì tình hình tài chính của doanh nghiệp có căn cứ để đánh giá là tốt.

Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:

Tỷ số nợ hoặc tỷ số vốn chủ sở hữu (tỷ suất tự tài trợ):

Tỷ số nợ được đo bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả và tổng nguồn vốn hay tổng tài sản của doanh nghiệp.

Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Ngược lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tang khả năng sinh lợi cho cổ đông.

Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu

Nếu tỷ số này lớn hơn 1, có nghĩa là tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu.

Khả năng sinh lời

Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:

Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu.

Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA):

Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.

Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE):

Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả VCSH, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa VCSH với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.

1.2.6.2. Nâng cao năng lực quản trị và chất lượng nguồn nhân lực

  • Chất lượng nguồn nhân lực theo trình độ văn hóa, tư cách đạo đức và phẩm chất chính trị của người lao động
  • Tiêu chí về chất lượng nguồn nhân lực theo năng lực, trình độ chuyên môn và khả năng hoàn thành nhiệm vụ
  • Tiêu chí về chất lượng nguồn nhân lực theo thời gian làm việc và sức khỏe của người lao động

1.2.6.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, công nghệ

Cần liên tục đầu tư đa dạng hóa sản phẩm, ứng dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, và duy trì chính sách giá cạnh tranh.

1.2.6.4. Nâng cao năng lực cạnh tranh về chất lượng dịch vụ

Thị phần tăng có thể cho phép công ty đạt được quy mô hoạt động lớn hơn và cải thiện khả năng sinh lời. Công ty có thể cố gắng mở rộng thị phần của mình bằng cách giảm giá, sử dụng quảng cáo hoặc giới thiệu sản phẩm mới hay khác biệt. Ngoài ra, nó cũng có thể tăng kích thước thị phần bằng cách hấp dẫn những đối tượng hoặc nhân khẩu học khác.

Việc nâng cao năng lực cạnh tranh về thị phần đều được các doanh nghiệp quan tâm và ưu tiên hàng đầu. Muốn tăng thị phần, ngoài việc hoàn thiện chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp cũng cần phải chú trọng các dịch vụ quảng cáo, khuếch trương, dịch vụ sau bán hàng, nâng cao uy tín, thương hiệu. Luận văn: Năng lực cạnh tranh của Công ty CPCK Bảo Việt

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Tổng quan chung về Công ty CPCK Bảo Việt

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x