Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Một số điểm khác biệt về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 và Bộ luật Thương mại Nhật Bản sửa đổi năm 2002 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia có sự chênh lệch lớn về thời gian hoạt động của các công ty cổ phần. Tuy vậy, ở cả hai nước việc ban hành luật để tạo hành lang pháp lý cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động rất được chú trọng và thường xuyên được sửa đổi cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh doanh. Ở Việt Nam, từ khi ra đời, công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999 và từ ngày 1/7/2006, loại hình doanh nghiệp này sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Còn ở Nhật Bản, công ty cổ phần hoạt động trong hành lang pháp lý của Bộ luật Thương mại được ban hành năm 1899 và từ thời điểm 1/5/2006 sẽ chuyển sang là đối tượng điều chỉnh chính của Luật Công ty mới. Tuy nhiên, vì là luật mới ban hành và được áp dụng chưa lâu nên trong một thời gian ngắn chưa thể kiểm chứng được hết những ưu điểm của Luật Công ty mới này mang lại. Do vậy,trong khuôn khổ một khoá luận tốt nghiệp, người viết sẽ chỉ xem xét Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 trong quan hệ tương quan với Bộ luật thương mại Nhật Bản-được áp dụng trong hơn 100 năm qua-với bản sửa đổi năm 2002. Mặc dù vậy, việc so sánh các văn bản luật để tìm ra những khác biệt là một công việc lớn, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm và thời gian. Trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp, tác giả chỉ xin dừng lại ở việc so sánh một số mặt chủ yếu sau : thủ tục thành lập công ty, cơ cấu tổ chức của công ty, và một số điểm cơ bản khác để có thể tìm ra những điểm phù hợp của pháp luật về công ty cổ phần của Nhật Bản mà chúng ta có thể tham khảo trong quá trình hoàn thiện luật điều chỉnh hoạt động công ty cổ phần ở Việt Nam.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
I: Những khác biệt về thủ tục thành lập công ty cổ phần
1. Khác biệt về những quy định liên quan đến sáng lập viên
1.1. Điều kiện để trở thành sáng lập viên của công ty cổ phần
Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 và Bộ luật Thương mại Nhật Bản đều quy định rằng công ty cổ phần được thành lập theo điều lệ. Điều lệ này do các sáng lập viên soạn thảo. Điều khác biệt giữa hai luật là ở những quy định về sáng lập viên của công ty cổ phần. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Người sáng lập hay còn gọi là sáng lập viên (Incorporator) là người khởi xướng, chịu trách nhiệm đứng ra thành lập công ty cổ phần. Tư cách chủ thể của sáng lập viên được xác lập trong suốt quá trình thành lập công ty và tồn tại theo quy định của Điều lệ công ty. Sáng lập viên có vai trò đặc biệt quan trọng. Trước hết, họ là người nắm vững lĩnh vực kinh doanh, thực hiện các giao dịch pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tạo ra điều kiện cần thiết cho sự thành lập công ty. Trong nhiều khía cạnh, sáng lập viên vẫn là chỗ dựa cho công ty trong quá trình hoạt động. Do vậy, pháp luật ràng buộc sáng lập viên khi họ thực hiện giao dịch pháp lý trong thời hạn nhất định nhằm chống lại việc lợi dụng thành lập công ty để lừa đảo đồng thời sự ràng buộc đó cũng góp phần gắn bó mối quan hệ giữa các cổ đông với hiệu quả hoạt động của công ty.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 quy định về sáng lập viên như sau: Người sáng lập về mặt luật pháp không phải chỉ là người tham gia vào việc thành lập công ty trên thực tế, mà là bất cứ ai có tên trên bản Điều lệ với tư cách là người sáng lập (hoặc ký vào bản Điều lệ như một người sáng lập) (Điều 166). Hơn nữa, một người dù không phải là sáng lập viên nhưng đồng ý để tên họ của mình hoặc sự bày tỏ ủng hộ việc thành lập công ty được ghi vào trong đơn xin mua cổ phiếu, sách quảng cáo, các quảng cáo chào mời việc đặt mua cổ phiếu hoặc bất kỳ tài liệu nào khác được phát hành liên quan đến việc đặt mua cổ phiếu sẽ chịu trách nhiệm tương tự như trách nhiệm của một sáng lập viên (Điều 198). Người sáng lập phải đặt mua cổ phiếu bằng vân bản hoặc hình thức điện tử (Điều 169). Vào năm 1990, quy định trước đó về việc phải có ít nhất 7 người sáng lập để thành lập công ty cổ phần đã được bãi bỏ. Tức là, theo bản sửa đổi mới thì dù chỉ với một người sáng lập thì cũng có thể thành lập công ty cổ phần. Đây là điểm khác với Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 không quy định về tư cách của sáng lập viên. Vì vậy nói chung tất cả thực thể, bất cứ ai cũng có thể trở thành người sáng lập, kể cả người không có năng lực. Một công ty (một pháp nhân) cũng có thể trở thành người sáng lập, người nước ngoài cũng không bị cấm trở thành người sáng lập. Ngoài những việc làm cần thiết cho việc thành lập công ty, người sáng lập về nguyên tắc không được tiến hành các việc kinh doanh (trừ việc nhận tài sản theo luật định được ghi trong bản điều lệ thành lập công ty). Đây là điểm khác biệt tiếp theo so với Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, sáng lập viên là người tham gia thông qua điều lệ đầu tiên của công ty. Sáng lập viên là tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc nước ngoài có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi thực hiện việc thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp này cũng quy định 7 trường hợp mà các tổ chức, cá nhân không được phép thành lập công ty (Điều 13). Như vậy Luật Doanh nghiệp của Việt Nam mới quy định đối tượng bị cấm thành lập công ty mà không quy định điều kiện để trở thành sáng lập viên. Để xác lập tư cách pháp lý của sáng lập viên, Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng quy định hồ sơ đăng ký kinh doanh phải có danh sách cổ đông sáng lập. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì số lượng tối thiểu khi thành lập công ty cổ phần vẫn giữ nguyên là 3 thành viên, (đã sửa đổi tiến bộ hơn so với Luật Công ty 1990, yêu cầu phải có ít nhất là 7 thành viên), điều này đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút những người có ý muốn kinh doanh tham gia vào việc thành lập công ty. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Qua những phân tích trên đây, ta thấy rằng các quy định trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 đã có nhiều tiến bộ, mang tính cụ thể hơn, đặc biệt so với Luật Doanh nghiệp năm 1999, luật lần này đã có sự quy định rõ ràng về việc tổ chức, cá nhân là người nước ngoài có quyền thành lập công ty cổ phần ở Việt Nam, điều này tạo nên cơ chế thông thoáng hơn cho các nhầ dầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, so với quy định trong Bộ luật Thương mại Nhật Bản thì các quy định của Việt Nam vẫn chưa thông thoáng, chưa tạo thuận lợi cho việc thành lập công ty. Hơn nữa, do không có đầy đủ những quy định về sáng lập viên, điều này sẽ dễ gây khó khăn trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty cổ phần. Chính những điều này đặt ra vấn đề cần phải bổ sung và hoàn thiện hơn nữa Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
1.2. Các quy định về trách nhiệm của sáng lập viên
Điều 30 Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định khi định giá tài sản, các thành viên sáng lập là người định giá tài sản theo nguyên tắc nhất trí. Ngoài ra, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (Điểu 84) . Trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cổ phần của mình cho nhau và cho cả người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Quy định này nhằm giám sát trách nhiệm của cổ đông sáng lập. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng dành cho cổ đông sáng lập những quyền lợi nhất định, đó là quyền được nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết trong vòng 3 năm đầu. Điều này đã tạo cơ hội cho cổ đông sáng lập có đủ thời gian vật chất để thực hiện ý tưởng kinh doanh của mình. Tuy nhiên, sau 3 năm số cổ phiếu ưu đãi biểu quyết này phải chuyển sang cổ phiếu phổ thông nhằm tôn trọng quyền sáng tạo và quyền dân chủ của các cổ đông khác (Điều 78 khoản 3).
Về hợp đồng trước đăng ký kinh doanh. Theo Điều 14 khoản 1 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì “Thành viên, cổ đông sáng lập hoặc người đại diện theo uỷ quyền được ký các hợp đồng phục vụ cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp trước khi đăng ký kinh doanh”. Hợp đồng công ty là căn cứ xác nhận sự minh bạch pháp lý đối với các giao dịch của sáng lập viên trong quá trình vận động liên kết, góp vốn, ký hợp đồng thuê trụ sở, hợp đồng mua tài sản, hợp đồng tư vấn…để hình thành các quan hệ giữa các thành viên với thành viên, giữa thành viên với công ty khi công ty ra đời. Hậu quả của các giao dịch đó thường xảy ra hai trường hợp:
- Trường hợp doanh nghiệp được thành lập thì doanh nghiệp là người tiếp nhận quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã được ký kết. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
- Trường hợp doanh nghiệp không được thành lập thì người ký kết-các sáng lập viên phải liên đới chịu trách nhiệm tài sản về việc thực hiện hợp đồng đó.
Các quy định như thế này có thể nói đã làm rõ phần nào trách nhiệm của các sáng lập viên, nhưng dù sao cũng cần phải có những điều khoản cụ thể trong luật quy định rõ ràng trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của các sáng lập viên.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản sửa đổi năm 2002 đã quy định rất nghiêm ngặt về trách nhiệm của những người liên quan đến việc thành lập công ty, đặc biệt là người sáng lập. Trách nhiệm của người sáng lập có thể chia ra hai trường hợp: trách nhiệm về thành lập công ty và trách nhiệm do không thành lập được công ty.
Trách nhiệm khi đã thành lập được công ty: sáng lập viên trước hết phải có trách nhiệm đối với công ty. Đầu tiên đó là trách nhiệm bảo toàn vốn. Trong số các cổ phiếu phát hành vào lúc thành lập công ty, sau khi công ty đã đi vào hoạt động, mà các cổ phiếu này chưa được mua hết hoặc trong trường hợp việc đặt mua cổ phiếu bị huỷ bỏ, thì các sáng lập viên (và cả các Giám đốc hiện diện vào thời điểm công ty đi vào hoạt động) được coi như cùng mua chung các phần đó (Điều 192 khoản 1), và chịu trách nhiệm liên đới trong việc trả khoản tiền còn thiếu đó (Điều 203). Ngoài ra, sau khi công ty được thành lập, nếu trị giá đúng của tài sản, do những người góp vốn bằng tài sản chứ không góp bằng tiền mặt, mà thấp hơn trị giá quy định trong Điều lệ thành lập công ty thì các sáng lập viên sẽ phải chịu trách nhiệm liên đới trong việc trả phần thiếu hụt đó cho công ty (Điều 192 khoản 2). Tuy nhiên, nếu việc định giá tài sản trên là do thanh tra viên tiến hành thì các sáng lập viên không phải là người đầu tư bằng hiện vật hoặc người chuyển nhượng tài sản có liên quan, sẽ không chịu trách nhiệm về tài sản đó.
Trách nhiệm thứ hai mà các sáng lập viên phải chịu đó là trách nhiệm về tổn thất. Nếu các sáng lập viên sao nhãng việc thi hành một nhiệm vụ có liên quan đến việc thành lập công ty thì họ sẽ chịu trách nhiệm trước công ty về những tổn thất gây ra đó (Điều 193 khoản 1, Điều 186). Về trách nhiệm bồi thường những tổn thất gây ra, có thể được miễn, nếu như có sự đồng ý tất cả các cổ đông, nhưng trách nhiệm bảo toàn vốn thì không được miễn cho dù có được sự đồng ý trên. Cổ đông là người có thể thay mặt công ty theo kiện các sáng lập viên về trách nhiệm này.
Sáng lập viên phải chịu trách nhiệm trước người thứ ba. Trong trường hợp các sáng lập viên phạm lỗi như có ý đồ xấu hoặc có sơ suất nghiêm trọng liên quan đến thành lập công ty thì các sáng lập viên đó phải chịu trách nhiệm về những tổn thất gây ra cho người thứ ba (Điều 193 khoản 2). Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Trách nhiệm của các sáng lập viên trong việc không thành lập được công ty : Trong trường hợp mà công ty không được thành lập thì người sáng lập phải chịu trách nhiệm liên đới về tất cả các hành vi đã thực hiện liên quan đến việc thành lập công ty (Điều 194 khoản 1). Các sáng lập viên có trách nhiệm phải trả lại tiền cho những người đã đăng ký mua cổ phiếu, hơn nữa, bất cứ chi phí nào đã bỏ ra liên quan đến việc thành lập công ty thì các sáng lập viên sẽ phải chịu (Điều 194 khoản 2).
Việc Bộ luật Thương mại Nhật Bản quy định một cách rõ ràng về trách nhiệm của các sáng lập viên là khá tốt bởi các sáng lập viên có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thành lập công ty cổ phần, và mỗi sai phạm của sáng lập viên sẽ gây ra hậu quả không hay cho rất nhiều người trong công ty cổ phần. Trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 vấn đề này chưa được quy định một cách cụ thể rõ ràng khiến cho việc quản lý hoạt động của các sáng lập viên chưa được hiệu quả.
2. Khác biệt về những quy định liên quan đến bản Điều lệ của công ty cổ phần
Để thành lập một công ty cổ phần, những người sáng lập phải chuẩn bị Điều lệ thành lập công ty, nó thực chất là tất cả các quy tắc cơ bản về cơ cấu, cơ chế hoạt động của công ty. Điều lệ của công ty không chỉ là cơ sở pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau mà còn có giá trị pháp lý đối với bên thứ ba khi có quan hệ với công ty. Bản Điều lệ được làm thành một văn bản duy nhất và tất cả các sáng lập viên phải ghi tên và đóng dấu (hoặc ký tên) vào bản Điều lệ thành lập.
Như đã nói ở trên, Điều lệ là một phần quan trong của bất kỳ một công ty nào, trong Điều 22 Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 đã quy định 16 nội dung chủ yếu của bản Điều lệ công ty, trong đó có 15 nội dung bắt buộc như sau:
- Tên, địa chỉ trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện.
- Ngành nghề kinh doanh.
- Vốn điều lệ, cách thức tăng và giảm vốn điều lệ.
- Họ, tên, địa chỉ, quốc tịch và các đặc điểm cơ bản khác của cổ đông sáng lập đối với công ty cổ phần.
- Số cổ phần của cổ đông sáng lập, loại cổ phần, mệnh giá cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán từng loại.
- Quyền và nghĩa vụ của cổ đông.
- Cơ cấu tổ chức quản lý.
- Người đại diện theo pháp luật. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
- Thể thức thông qua quyết định của công ty; nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ.
- Căn cứ và phương pháp xác định thù lao và thưởng cho người quản lý và thành viên Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên.
- Những trường hợp cổ đông có thể yêu cầu mua lại cổ phần.
- Nguyên tắc phân chia lợi nhuận sau thuế và xử lý lỗ trong kinh doanh .
- Các trường hợp giải thể, trình tự giải thể và thủ tục thanh lý tài sản.
- Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
- Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật, của các cổ đông sáng lập, người đại diện theo uỷ quyền của cổ đông sáng lập.
Còn các nội dung khác do các cổ đông tự thoả thuận cho vào. Như vậy trong luật sửa đổi lần này nội dung của bản Điều lệ được thêm vào điều khoản “Căn cứ và phương pháp xác định thù lao, tiền lương và thưởng cho người quản lý và thành viên Ban kiểm soát hoặc Kiểm soát viên”. Rõ ràng đây là một sự bổ sung cần thiết nhằm tăng tính minh bạch trong việc kiểm soát lương và thưởng cho những người nắm chức vụ chủ chốt trong công ty.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 quy định trong bản Điều lệ thành lập cũng có rất nhiều điều khoản mà ta có thể chia ra làm ba loại là: điều khoản bắt buộc, điều khoản tự nguyện và các điều khoản tuỳ chọn.
Các điều khoản bắt buộc (Compulsory provisions) bao gồm tất cả các điều khoản mà bắt buộc phải có trong bản Điều lệ và nó làm cho bản Điều lệ có tính hợp pháp, những điều khoản này nếu không có thì bản Điều lệ sẽ không có hiệu lực. Theo Luật Thương mại Nhật Bản (Điều 166) quy định thì các điều khoản đó gồm:
- Mục đích thành lập .
- Tên thương mại.
- Tổng số cổ phiếu mà công ty được phép phát hành.
- Tổng số cổ phiếu phát hành vào thời điểm thành lập công ty.
- Cách thức công ty đưa ra các thông báo công khai của mình.
- Nơi đặt trụ sở chính.
- Họ tên và địa chỉ của các sáng lập viên.
Các điều khoản tự nguyện (Voluntary provisions) bao gồm các điều khoản mà không ảnh hưởng tới tính pháp lý của bản Điều lệ nhưng sẽ ảnh hưởng tới mối quan hệ pháp lý của công ty. Các điều khoản này dù có thiếu thì tự thân bản Điều lệ vẫn có tác dụng, nhưng nếu không ghi trong bản Điều lệ thì sẽ không có hiệu lực về mặt pháp luật. Ví dụ như các điều khoản sau:
- Việc hạn chế chuyển nhượng cổ phiếu của công ty (Điều 204 khoản 1)
- Huỷ bỏ cổ phiếu (Điều 213) (3)Mất giấy chứng nhận sở hữu cổ phiếu (Điều 230 khoản 1)…
Các điều khoản tuỳ chọn (Optional provisions) bao gồm các điều khoản không ảnh hưởng tới tính pháp lý của bản Điều lệ cũng như mối quan hệ pháp lý của công ty, nhưng nó sẽ làm cho công ty hoạt động thuận tiện và hiệu quả hơn. Trong phạm vi không trái với luật pháp và những quy tắc cơ bản của công ty thì có thể quy định trong bản Điều lệ bao nhiêu điều khoản cũng được. Ví dụ ngày tổ chức đại hội cổ đông thường niên, số lượng giám đốc và kiểm toán viên hoặc năm tài chính, các thủ tục cho việc đăng ký chuyển đổi cổ phiếu… Nhưng một khi đã ghi trong bản điều lệ thì bất cứ sự sửa đổi nào trong các điều khoản tự chọn cũng sẽ dẫn tới những thủ tục đặc biệt để sửa đổi bản điều lệ (Điều 342, Điều 343).
Bản Điều lệ khi thành lập công ty phải được sự nhất trí của các thành viên sáng lập, hơn nữa nó chỉ có hiệu lực khi đã được cơ quan công chứng chứng nhận (Điều 167). Bởi vì trong quan hệ với bên thứ ba, mọi hành vi nhân danh công ty không phù hợp với Điều lệ công ty sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ đối với công ty. Do đó việc công chứng Điều lệ công ty đã trở thành một thủ tục bắt buộc cho các công ty khi tham gia vào thương trường để cho các bạn hàng của công ty tránh được những rủi ro do những hành vi nhân danh công ty không phù hợp với Điều lệ đem lại.
Nói tóm lại, các quy định về bản Điều lệ khi thành lập công ty cổ phần trong Bộ luật Thương mại của Nhật Bản năm 2002 là rất chi tiết, tạo điều kiện thuận tiện cho việc tiến hành các thủ tục trong việc thành lập công ty cổ phần. Các loại điều khoản trong bản Điều lệ vừa được quy định chặt chẽ nhưng cũng vừa đủ “thoáng” để các công ty dễ dàng vận dụng. Ngoài ra, việc yêu cầu phải công chứng bản Điều lệ cũng là một biện pháp hay để đảm bảo cho việc quản lý các công ty cổ phần được chặt chẽ.
3. Khác biệt về các bước liên quan đến thủ tục thành lập công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, người thành lập doanh nghiệp phải lập và nộp đủ cho cơ quan đăng ký kinh doanh một hồ sơ đăng ký kinh doanh gồm giấy đề nghị đăng ký kinh doanh, dự thảo điều lệ công ty, danh sách cổ đông sáng lập, xác nhận về vốn của cơ quan có thẩm quyền trong trường hợp kinh doanh những ngành nghề đòi hỏi vốn pháp định và chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định. Trong thời hạn 10 ngày, nếu được cấp Giấy chứng nhận kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ có quyền hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp cũng phải cung cấp nội dung đăng ký kinh doanh cho các cơ quan có liên quan và phải đăng báo địa phương hoặc báo hàng ngày liên tiếp về nội dung đăng ký kinh doanh của mình (Điều 15, 19, 28).
Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002, doanh nghiệp cũng phải đăng ký thành lập và công bố nội dung kinh doanh trên báo hàng ngày hoặc công báo, nhưng về nội dung thì lại hơi khác so với Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
Trước hết, theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, có 2 trường hợp thành lập công ty cổ phần, đó là trường hợp mà các sáng lập viên cùng nhau mua tất cả các cổ phiếu phát hành và trường hợp các sáng lập viên không mua tất cả cổ phiếu phát hành khi thành lập công ty mà vận động mua cổ phiếu từ những người khác. Ở trường hợp đầu, các sáng lập viên phải trả đủ ngay giá phát hành và chỉ định các Giám đốc và Kiểm soát viên (Điều 170). Còn ở trường hợp sau, sau khi lập bản điều lệ, các sáng lập viên sẽ vận động mua cổ phiếu (Điều 174). Các nhà sáng lập sẽ chuẩn bị đơn xin mua cổ phiếu, sau khi tất cả cổ phiếu phát hành vào lúc thành lập công ty đã được đăng ký mua, các sáng lập viên phải yêu cầu việc trả tiền theo toàn bộ trị giá phát hành. Sau khi tất cả việc thanh toán được hoàn tất, các sáng lập viên phải triệu tập hội nghị sáng lập (180). Tại hội nghị sáng lập, Giám đốc và Kiểm soát viên được chỉ định.
Cuối cùng việc đăng ký thành lập công ty phải được tiến hành trong vòng 2 tuần kể từ ngày kết thúc các thủ tục như kết thúc hội nghị sáng lập hoặc từ ngày hoàn thành thủ tục điều tra cần thiết. Các vấn đề cần phải được đăng ký gồm tên thương mại, nơi đặt trụ sở chính, cách thức công bố, tổng số cổ phiếu dự định phát hành, tổng số cổ phiếu lúc phát hành, số vốn, mục đích thành lập công ty, họ tên của từng Giám đốc và Kiểm soát viên, họ tên và địa chỉ thường trú của các Giám đốc đại diện, những quy định về đại diện công ty trong trường hợp có 2 hoặc nhiều Giám đốc đại diện cùng đại diện cho công ty. Để đăng ký thành lập tại cơ quan đăng ký thành lập ở Nhật Bản, công ty cổ phần cần phải có giấy chứng nhận của ngân hàng hoặc công ty về việc đã nhận số vốn góp và mở một tài khoản cho việc đó. Đồng thời, công ty phải gửi kèm với bản đăng ký một bản Điều lệ đã được công chứng. Khi tất cả các thủ tục này hoàn tất, công ty cổ phần sẽ đi vào hoạt động.
II. Khác biệt về cơ cấu tổ chức, bộ máy của công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 (Điều 95) bao gồm Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, đối với cồng ty cổ phần có trên 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban kiểm soát. Hội đồng quản trị là cơ quan uỷ thác của các cổ đông, là cơ quan thường trực của Đại hội cổ đông, thực hiện việc quản lý hoạt động của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị sẽ bầu trong số các quản trị viên một Chủ tịch hội đồng quản trị. Giám đốc (Tổng giám đốc) là người được công ty uỷ quyền, có quyền cao nhất trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh hằng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về các nhiệm vụ được giao. Giám đốc (Tổng giám đốc) thường có bộ máy giúp việc để điều hành các hoạt động của công ty do Giám đốc (Tổng giám đốc) lựa chọn.
Ở Nhật Bản, bộ máy quản lý của công ty cổ phần có điểm khác biệt rất lớn. Công ty cổ phần ở đây không có Hội đồng quản trị. Bộ máy của nó chỉ gồm Đại hội đồng cổ đông, Ban giám đốc và Ban kiểm soát trong đó Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất. Điều hành mọi công việc thường ngày của công ty do Ban giám đốc đảm trách và Ban kiểm soát thì có trách nhiệm kiểm tra giám sát những việc làm của công ty. Trong đó, ngay cả ở điểm giống nhau là Đại hội đồng cổ đông, nhưng các quy định về Đại hội đồng cổ đông của 2 nước cũng có rất nhiều điểm khác biệt.
1. Đại hội đồng cổ đông-cơ quan lãnh đạo của công ty cổ phần
Đại hội đồng cổ đông là cơ quan lãnh đạo và kiểm soát tối cao của công ty cổ phần. Vì vậy, Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 cũng như Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 của Việt Nam đã dành cho nó một sự quan tâm đặc biệt. Bộ luật Thương mại Nhật Bản không định nghĩa Đại hội đồng cổ đông nhưng theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 thì Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết (cổ đông phổ thông, cổ đông ưu đãi biểu quyết) (Điều 96). Mặc dù vậy, luật của hai nước cũng có sự khác biệt cơ bản. Những khác biệt đó là:
1.1. Khác biệt về người có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
Thường là Hội đồng quản trị có quyền triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 (Điều 79 khoản 2 và Điều 97 khoản 3) cũng có quy định về việc cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất 6 hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn theo Điều lệ công ty cũng có thể yêu cầu tiến hành việc triệu tập này. Việc quy định tỷ lệ phần trăm nắm giữ cao hơn này là để tránh việc lạm dụng quyền cổ đông bởi thực tế là việc triệu tập Đại hội cổ đông thường làm cho công ty mất rất nhiều tiền và công sức. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 quy định người có quyền triệu tập về nguyên tắc là Ban giám đốc (nếu trong trường hợp thanh toán nợ thì là Ban thanh toán nợ). Ngoài ra có những trường hợp triệu tập ngoại lệ đó là việc triệu tập của cổ đông thiểu số-cổ đông liên tục trong 6 tháng cuối sở hữu không ít hơn 3% tổng số cổ phiếu đã phát hành-khi có sự cho phép của toà án hoặc toà án nếu thấy cần thiết cũng có thể yêu cầu Giám đốc đại diện triệu tập cuộc họp (Điều 237).
1.2. Khác biệt về thông báo triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
Công ty sẽ gửi một thông báo triệu tập tới các cổ đông ít nhất là 2 tuần trước khi diễn ra cuộc họp (Điều 232 khoản 1).Thông báo triệu tập có thể là bản viết tay nhưng cũng có thể gửi bằng thư điện tử (Điều 232 khoản 2).Thông báo triệu tập này phải bao gồm các mục của chương trình nghị sự sẽ được thảo luận (Điều 232 khoản 2) tuy nhiên điều này không áp dụng cho các cổ đông không có quyền biểu quyết tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông (Điều 232 khoản 3). Bản sao các tài liệu kế toán và báo cáo kiểm toán sẽ được đính kèm với thông báo triệu tập Đại hội cổ đông thường niên (Điều 283 khoản 2).
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định thời hạn gửi thông báo ít nhất là 7 ngày trước khi diễn ra cuộc họp nhưng cũng chỉ quy định chung chung về các tài liệu phải gửi kèm theo trong giấy triệu tập. Ngoài ra việc gửi thông báo mời họp cũng được công bố trên trang tin điện tử (nếu công ty có) nhưng vẫn phải gửi thông báo mời họp đến các cổ đông (Điều 100). Như vậy, rõ ràng là ta cũng đang áp dụng việc điện tử hoá trong giải quyết các công việc của công ty nhưng chưa thực sự được cởi mở như các quy định trong luật của Nhật Bản, âu cũng là do trình độ tin học của các công ty nước ta vẫn còn chưa có sự đồng đều.
1.3. Khác biệt về thời gian và địa điểm triệu tập hội nghị
Thời gian được quy định rõ trong Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 là không được vượt quá 3 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính cho đến khi tiến hành họp Đại hội cổ đông. Đại hội cổ đông trừ trường hợp được quy định khác trong bản Điều lệ thành lập, sẽ được tiến họp hành tại nơi có trụ sở chính của công ty hoặc là một địa điểm ở gần đó (Điều 233, Điều 498 khoản 1.17).
Theo luật Doanh nghịêp Việt Nam 2005, đại hội đồng cổ đông phải họp thường niên trong thời hạn 4 tháng kể từ khi kết thúc năm tài chính, địa điểm họp không quy định rõ ràng mà chỉ bắt buộc là trên lãnh thổ Việt Nam.
1.4. Khác biệt về người điều hành Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, cuộc họp Đại hội cổ đông được điều hành bởi Chủ tịch. Chủ tịch của cuộc họp sẽ được bầu chọn tại cuộc họp trừ khi có quy định khác trong bản Điều lệ thành lập. Hầu hết các công ty của Nhật Bản đều quy định trong bản Điều lệ công ty là Giám đốc đại diện của công ty sẽ là Chủ tịch của cuộc họp (Điều 237-4). Chủ tịch sẽ duy trì trật tự của cuộc họp và sắp xếp các đề nghị. Diễn biến của cuộc họp đại hội cổ đông phải được ghi lại bằng văn bản (Điều 244 khoản 1). Các văn bản phải bao gồm nội dung cơ bản của cuộc họp và kết quả của nó. Các Giám đốc tham dự cũng như là Chủ tịch phải ký tên vào biên bản họp hội nghị (Điều 244 khoản 3). Giám đốc phải giữ các văn bản này trong vòng 10 năm tại trụ sở chính và một bản copy (trong vòng 5 năm) tại mỗi chi nhánh công ty (Điều 244 khoản 5).
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, chủ toạ cuộc họp là Chủ tịch hội đồng quản trị nếu cuộc họp đó do Hội đồng quản trị triệu tập, trường hợp Chủ tịch vắng mặt hoặc tạm thời mất khả năng làm việc thì các thành viên còn lại bầu một người trong số họ làm chủ toạ cuộc họp, trường hợp không có người có thể làm chủ toạ thì thành viên Hội đồng quản trị có chức vụ cao nhất điều khiển để Đại hội đồng cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp trong số những người dự họp và người có số phiếu cao nhất sẽ làm chủ toạ cuộc họp. Nhưng trong trường hợp mà không phải do Hội đồng quản trị triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông thì người ký tên triệu tập họp Đại hội cổ đông điều khiển để Đại hội cổ đông bầu chủ toạ cuộc họp và người có số phiếu cao nhất làm chủ toạ cuộc họp (Điều 103). Có thể nói điều này là một tiến bộ của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 do việc thay vì chủ toạ cuộc họp luôn luôn là Chủ tịch hội đồng quản trị thì bây giờ các thành viên khác ngoài việc có quyền triệu tập cuộc họp khi cần thiết còn có quyền chủ toạ cuộc họp để nói lên tiếng nói của bản thân mình và của nhóm người mình đại diện. Về biên bản họp Đại hội đồng cổ đông, diều 106 quy định rằng nó phải lập bằng tiếng Việt (có thể cả bằng tiếng nước ngoài) với hiệu lực pháp lý ngang nhau, phải có 8 nội dung chủ yếu và phải lưu giữ tại trụ sở chính của công ty nhưng không quy định rõ thời gian lưu trữ là bao nhiêu.
1.5. Khác biệt về các vấn đề được quyết định và phương thức quyết định tại Đại hội cổ đông
Về các vấn đề được đưa ra quyết định tại Đại hội cổ đông, theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản ta có thể chia thành các loại quyết định như sau:
Quyết định thông thường: như chỉ định Giám đốc và các Kiểm toán viên; chỉ định và thải hồi người thanh toán; quyết định số tiền thù lao cho các Giám đốc, Kiểm toán viên hoặc người thanh toán; thông qua tài liệu kế toán… Một quyết định thông thường được thông qua bằng đa số biểu quyết của các cổ đông có mặt(Điều 239 khoản 1). Cổ đông có thể thực hiện quyền biểu quyết của mình thông qua người đại diện miễn là việc đại diện này phải được cổ đông nói trên thông báo cho công ty (Điều 239 khoản 2). Cũng cần nhận thấy là cổ đông có thể biểu quyết bằng văn bản hoặc bằng hình thức điện từ trong một số trường hợp có sự cho phép của Ban giám đốc và phải được cơ quan có thẩm quyền là toà án quyết định(Điều 293-2, 293-3). Đây có thể là một phương cách hơi táo bạo nhưng cũng có cái hay mà chúng ta nên xem xét để áp dụng vào Việt Nam. Số lượng đại biểu cần thiết có thể thay đổi bằng việc quy định trong Điều lệ thành lập công ty. Vì vậy, rất nhiều công ty Nhật Bản quy định trong bản Điều lệ thành lập công ty là số đại biểu quy định cho việc thông qua quyết định là không cần thiết, và một quyết định thông thường có thể được thông qua bằng đa số biểu quyết của các cổ đông có mặt. Tuy nhiên, số đại biểu cần thiết để biểu quyết không thể giảm xuống ít hơn 1/3 tổng số cổ phiếu bằng việc quy định trong bản Điều lệ cho quyết định chỉ định Giám đốc và Kiểm toán viên.
Quyết định đặc biệt: như việc sửa đổi bản Điều lệ; chuyển nhượng toàn bộ hoặc một phần quan trọng của việc kinh doanh của công ty; ký kết sửa đổi cho thuê toàn bộ công việc kinh doanh; các hành vi mà sẽ làm thay đổi hoặc ngừng các hợp đồng về việc uỷ thác công việc kinh doanh của công ty cho một bên khác hoặc đề nghị chia sẻ lợi nhuận và lỗ đối với một bên khác (bao gồm cả các hợp đồng tương tự); hợp đồng làm trong vòng 2 năm kể từ khi công ty được thành lập để đạt được việc tiếp tục sử dụng vào công việc kinh doanh của công ty các tài sản tồn tại trước khi thành lập công ty và có giá trị là 5% hoặc hơn trong tổng số vốn; cách chức có nguyên nhân hoặc không nguyên nhân một Giám đốc hoặc một Kiểm toán viên theo luật trước khi kết thúc nhiệm kỳ của anh ta; phát hành cổ phiếu mới (hoặc trái phiếu có quyền đăng ký mua trước cổ phiếu mới hoặc trái phiếu có thể chuyển đổi) tại giá có lợi cho người khác mà không phải là cổ đông của công ty; giải thể công ty; chấp nhận hợp nhất công ty… Một quyết định đặc biệt được thông qua khi có hơn 2/3 số biểu quyết tán thành của các cổ đông có mặt mà những người này đang nắm giữ hơn 1/2 tổng số cổ phiếu đã phát hành tại thời điểm đó. Số lượng đại biểu cần thiết cho quyết định này không thể được giảm xuống theo như quy định trong bản Điều lệ. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Các quyết định ngoại lệ khác: quyết định đòi hỏi số phiếu biểu quyết của cổ đông nắm giữ ít nhất 2/3 của tổng số cổ phiếu, nó bao gồm việc miễn trách nhiệm của một Giám đốc về những tổn thất gây ra cho công ty do một giao dịch được tiến hành bởi một Giám đốc với công ty nhân danh anh ta hoặc nhân danh người thứ ba; quyết định đòi hỏi số phiếu biểu quyết của hơn 1/2 cổ đông mà các cổ đông này nắm giữ ít nhât 2/3 trong tổng số cổ phiếu đã phát hành và cổ phiếu nổi bật về việc a) Sửa đổi bản Điều lệ thành lập công ty để hạn chế việc chuyển nhượng cổ phiếu và b) Tổ chức lại, chuyển công ty sang hình thức công ty Trách nhiệm hữu hạn; nếu là quyết định để miễn trách nhiệm cho Giám đốc ngoài việc trên thì phải có sự đồng ý của tất cả các cổ đông bao gồm cả cổ đông không có phiếu bầu.
Quyền hạn của Đại hội cổ đông đã được mở rộng hơn trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 nhưng vẫn không được cụ thể như trong Bộ luật Thương mại Nhật Bản. Tuy nhiên Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam có quy định việc triệu tập Đại hội cổ đông nếu lần 1 không tiến hành được thì có thể triệu tập tiếp lần 2, lần 3. Việc thông qua quyết định của Đại hội cổ đông được chia ra thành 3 loại: đối với quyết định bình thường cần ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận của số cổ đông dự họp, đối với quyết định đặc biệt (quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán; sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; tổ chức lại, giải thể công ty …) thì tỷ lệ này là 75% nếu Điều lệ công ty không quy định khác, việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu.
Các quyết định của Đại hội cổ đông có ảnh hưởng quan trọng tới rất nhiều các vấn đề có liên quan cho nên Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002 cũng như Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 có quy định, tuỳ theo mức độ của sự vi phạm, các lý do để yêu cầu Toà án hay Trọng tài xem xét, huỷ bỏ quyết định của Đại hội cổ đông và thời gian tiến hành là 90 ngày. Chỉ có cổ đông, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm soát và thành viên Hội đồng quản trị (đối với công ty cổ phần ở Việt Nam) mới có quyền này.
2. Khác biệt về các quy định liên quan đến Ban giám đốc
2.1. Địa vị, quyền hạn của Ban giám đốc
Thay vì có Hội đồng quản trị như của Việt Nam, tại Nhật Bản, Ban giám đốc (bao gồm tất cả các Giám đốc) là những người sẽ quản lý các công việc của công ty và đồng thời giám sát việc thi hành nhiệm vụ của các Giám đốc. Ban giám đốc sẽ giải quyết những vấn đề về công việc hành chính của công ty, những vấn đề khác với những vấn đề được quyết định tại Đại hội cổ đông, theo Luật Thương mại hoặc theo Điều lệ công ty. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Ban giám đốc có thẩm quyền để giải quyết những vấn đề sau theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002: Quyết định chia nhỏ cổ phiếu (Điều 218 khoản 1); Chuyển đổi giữa cổ phiếu có ghi giá trị với cổ phiếu không ghi giá trị (Điều 213 khoản 1); Chỉ định Giám đốc đại diện (Điều 261 khoản 1); Quyết định triệu tập Đại hội cổ đông (Điều 231); Tán thành giao dịch mang tính cạnh tranh của Giám đốc (Điều 264 khoản 1); Tán thành giao dịch xung đột với lợi ích của công ty (Điều 265 khoản 1); Phát hành cổ phiếu mới (Điều 280); Tán thành các sổ sách kế toán (Điều 281 khoản 1); Tạo quĩ dự trữ từ số vốn hiện có (Điều 293 khoản 3 ); Phát hành trái phiếu, trái phiếu có thể chuyển đổi hoặc trái phiếu với quyền được đặt mua cổ phiếu mới (Điều 296, Điều 341 khoản 2.2 và Điều 341 khoản 8.2). Ban giám đốc không thể cho phép một Giám đốc quyết định các vấn đề sau mà không có quyết định của Ban giám đốc (Điều 260): Bán và tiếp quản tài sản quan trọng; Vay mượn một số tiền lớn; Chỉ định hoặc thải hồi nhân viên quan trọng như nhà quản lý; Thành lập thay đổi và giải thể các cơ quan quan trọng của công ty như một chi nhánh; Các công việc hành chính quan trọng khác.
Ban Giám đốc sẽ giám sát việc các Giám đốc thi hành nhiệm vụ của mình (Điều 260-2). Quyền này của Ban giám đốc không chỉ giám sát tính hợp pháp chính thống mà còn giám sát cả tính đầy đủ thích hợp. Để việc giám sát được tiến hành một cách hiệu quả thì Giám đốc sẽ báo cáo cho Ban giám đốc những việc điều hành quan trọng ít nhất 3 tháng một lần hoặc nhiều hơn. Ban Giám đốc sẽ giải quyết các vấn đề được ghi trong Bộ luật Thương mại, và những vấn đề khác ngoài Bộ luật Thương mại và Điều lệ công ty mà không được quyết định tại Đại hội cổ đông.
2.2. Cuộc họp của Ban giám đốc
Cuộc họp Ban giám đốc sẽ có thể được triệu tập bởi bất kỳ Giám đốc nào, trừ phi Ban giám đốc đã chỉ định một giám đốc đảm nhiệm việc triệu tập này (Điều 259 ). Tuy nhiên, thậm chí ngay cả trong trường hợp đã quy định như trên thì một Giám đốc khác cũng có thể yêu cầu triệu tập Ban giám đốc bằng cách đệ trình tài liệu có ghi những vấn đề thuộc đối tượng của cuộc họp đó (Điều 259). Kiểm soát viên có thể yêu cầu triệu tập Ban giám đốc trong các trường hợp cụ thể được quy định trong Bộ luật Thương mại (Điều 259).Về việc triệu tập cuộc họp Ban giám đốc, thông báo triệu tập phải được gửi đến mỗi Giám đốc và mỗi Kiểm soát viên ít nhất một tuần trước ngày diễn ra cuộc họp. Tuy nhiên thời hạn này có thể được rút ngắn bởi quy định trong Điều lệ thành lập công ty (Điều 259-2). Khi có được sự đồng ý của tất cả các Giám đốc và các Kiểm toán viên, cuộc họp của Ban giám đốc có thể tổ chức không theo các thủ tục thông thường của việc triệu tập (Điều 259-2).
Quyết định của Ban giám đốc được thông qua bằng đa số biểu quyết của những Giám đốc có mặt mà số lượng của họ hợp thành đa số (Điều 260). Tuy nhiên, các điều kiện này có thể được quy định khắt khe hơn trong Điều lệ thành lập công ty (Điều 260). Không giống như quyết định tại Đại hội cổ đông, quyết định của Ban giám đốc không thể bỏ phiếu bằng uỷ quyền. Một Giám đốc có những quyền lợi đặc biệt liên quan đến quyết định của Ban giám đốc sẽ không được tham gia vào việc ra quyết định (Điều 260). Số lượng Giám đốc không được tham gia vào việc ra quyết định sẽ không được tính vào số lượng Giám đốc cần thiết để quyết định vấn đề (Điều 260). Khi Ban giám đốc quyết định các vấn đề như “giao dịch cạnh tranh” hoặc là “giao dịch mâu thuẫn với lợi ích của công ty” thì giám đốc đó được coi là người có những quyền lợi đặc biệt. Diễn biến cuộc họp của Ban Giám đốc phải được ghi lại bằng văn bản (Điều 260-4). Các văn bản phải bao gồm nội dung cơ bản của quá trình tiến hành cuộc họp và kết quả của cuộc họp. Các Giám đốc và Kiểm soát viên tham dự phải ký tên vào biên bản (Điều 260-4). Các Giám đốc sẽ lưu giữ các văn bản trong vòng 10 năm tại trụ sở chính của công ty (Điều 260-4). Không giống Đại hội cổ đông, các sai lầm trong quyết định của Ban giám đốc sẽ làm mất hiệu lực các quyết định đó.
2.3. Giám đốc Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Chỉ định Giám đốc: Các Giám đốc sẽ được chỉ định hoặc bị cách chức theo quyết định của Đại hội cổ đông (Điều 254 khoản 1, Điều 257 khoản 1 và 2). Một công ty cần có ít nhất 3 giám đốc (Điều 255). Tên của các Giám đốc phải được đăng ký (Điều 188 khoản 2.7). Trừ phi được quy định trong Điều lệ, một cổ đông có thể yêu cầu rằng việc bầu cử 2 hoặc nhiều hơn Giám đốc sẽ được tiến hành bởi việc bỏ phiếu tích luỹ (Điều 256-3). Khi có một yêu cầu như vậy, mỗi cổ đông sẽ nhận được các phiếu bầu bằng với số Giám đốc cần bầu. Trong trường hợp này một cổ đông có thể dồn tất cả số phiếu của mình cho một người hoặc có thể bầu cho 2 hoặc nhiều hơn ứng cử viên (Điều 2563). Yêu cầu này phải được làm bằng văn bản ít nhất là 5 ngày trước ngày diễn ra Đại hội cổ đông (Điều 256-3). Nói chung, hầu hết các công ty Nhật Bản đều loại trừ việc bỏ phiếu tích luỹ này bằng một quy định trong bản Điều lệ. Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc do Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác. Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty ( nếu Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của công ty). Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty, chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
Tư cách: Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, Giám đốc công ty không bắt buộc phải là cổ đông, nhưng một Kiểm soát viên không thể đồng thời làm Giám đốc của công ty hoặc là công ty con của nó. Những người dưới đây không thể trở thành Giám đốc của công ty: người không có trình độ hoặc hầu như không có trình độ; người bị tuyên bố phá sản nhưng chưa được khôi phục lại; Người bị kết án vì một tội đã được quy định trong Bộ luật Thương mại, luật về những ngoại lệ đặc biệt của Bộ luật Thương mại về kiểm soát công ty cổ phần, luật công ty Trách nhiệm hữu hạn mà đối với người đó chưa hết hạn 2 năm kể từ ngày thi hành án hoặc chứng minh được là không phải thi hành; Người đã bị kết án hình phạt nặng hơn hình phạt cầm tù về tội khác với tội quy định trong điểm trên mà đối với người đó việc thi hành án chưa kết thúc hoặc chứng minh được là không phải thi hành …Thêm nữa một pháp nhân không thể trở thành Giám đốc. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Khác với Bộ luật Thương mại Nhật Bản, Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 điều 57 quy định để trở thành Giám đốc (Tổng giám đốc) phải có các tiêu chuẩn và điều kiện như sau: có đủ năng lực hành vi dân sự và không phải là 7 đối tượng không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp theo Điều 13 đã nói đến ở trên; là cá nhân sở hữu ít nhất 10% vốn điều lệ của công ty hoặc người không phải là thành viên, có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong các ngành, nghề kinh doanh chủ yếu của công ty hoặc tiêu chuẩn, điều kiện khác quy định tại Điều lệ công ty; đối với công ty con của công ty có phần vốn góp, cổ phần của Nhà nước chiếm trên 50% vốn điều lệ thì ngoài các tiêu chuẩn trên, Giám đốc (Tổng giám đốc) không được là vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của người quản lý và người có thẩm quyền bổ nhiệm người quản lý của công ty mẹ. Và theo Điều 122 quy định thì thành viên Ban kiểm soát không được giữ chức vụ quản lý công ty, tức là không thể làm Giám đốc (Tổng giám đốc) của cồng ty.
Bộ luật Thương mại Nhật Bản còn quy định cả về nhiệm kỳ của các Giám đốc là không quá 2 năm (Điều 256 khoản 1). Tuy vậy, nhiệm kỳ của những Giám đốc đầu tiên của công ty lại không quá một năm (Điều 256 khoản 2). Nhiệm kỳ có thể kéo dài bởi Điều lệ của công ty. Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, nhiệm kỳ là không quá 5 năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế (Điều 116).
Quyền hạn và trách nhiệm : Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, các Giám đốc có trách nhiệm tiến hành các công việc mà anh ta được uỷ thác với trách nhiệm cẩn thận của một người quản lý tốt (Điều 266) và phải thi hành trách nhiệm của mình một cách trung thực thay mặt công ty-trách nhiệm uỷ thác (Điều 254-3). Người Giám đốc còn có trách nhiệm tránh giao dịch cạnh tranh (Điều 264). Quy tắc này nhằm tránh thiệt hại cho công ty do giao dịch cạnh tranh không lành mạnh của một Giám đốc. Người Giám đốc có trách nhiệm tránh giao dịch mâu thuẫn với lợi nhuận của công ty. Nó được quy định như vậy là vì người ta lo ngại rằng viên Giám đốc đó sẽ ưu tiên cho lợi nhuận của chính mình trước khi nghĩ tới lợi nhuận của công ty. Nếu như tiến hành các loại giao dịch này thì phải có sự đồng ý của Ban giám đốc và phải báo cáo tất cả các vấn đề quan trọng cho Ban giám đốc không chậm trễ kể từ khi kết thúc giao dịch nói trên. Nếu tiến hành mà không có sự chấp thuận của Ban giám đốc thì Giám đốc sẽ phải chịu trách nhiệm trước mọi tổn thất gây ra cho công ty.
Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, các Giám đốc đã gây thiệt hại cho công ty sẽ chịu trách nhiệm chung và riêng trước công ty (Điều 266 khoản 1). Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Một Giám đốc-người đã đệ trình tại Đại hội cổ đông một đề xuất về việc chia lợi nhuận bất hợp pháp hoặc lợi nhuận tạm thời bất hợp pháp sẽ phải chịu trách nhiệm trước công ty về bất cứ khoản bất hợp pháp nào đã chia. Các Giám đốc đã gây ra cho công ty việc phải chia lợi nhuận tài sản cho bất cứ cổ đông nào liên quan đến việc thực thi quyền của cổ đông vi phạm Điều 294 khoản 2 của Bộ luật Thương mại sẽ phải chịu đền bù cho công ty số tiền tương đương với khoản lợi nhuận đó. Thêm vào đó, nếu điều này gây hại cho công ty, người Giám đốc còn phải bồi thường cả những thiệt hại đó nữa (Điều 266 khoản 1.5). Các Giám đốc đã cho Giám đốc khác vay tiền của công ty phải chịu trách nhiệm trước công ty nếu như khoản vay đó không được hoàn trả lại. Tất nhiên là giao dịch cho vay này phải được Ban giám đốc đồng ý. Nếu như việc cho vay này mà không được Ban giám đốc đồng ý, dẫn đến tổn thất cho công ty thì Giám đốc phải bồi thường các tổn thất đó. Nếu như các hành động của Giám đốc trong Điều 266 được làm theo quyết định của Ban giám đốc thì những Giám đốc đã phê chuẩn được coi như là cùng tiến hành các hành động đó (Điều 266 khoản 2), thêm nữa, nếu như các Giám đốc đã tham gia vào việc quyết định và những ai không bày tỏ sự bất đồng quan điểm trong các văn bản sẽ được coi như là đồng ý với quyết định đó (Điều 266 khoản 3).
Trong các trường hợp mà người thứ ba phải chịu tổn thất do các hành động chủ tâm hoặc cẩu thả của Giám đốc trong việc thực hiện trách nhiệm của mình thì Giám đốc cũng phải chịu trách nhiệm chung và riêng về những thiệt hại đó. Nếu các Giám đốc đưa ra một tuyên bố sai về những vấn đề quan trọng được ghi trong bản xin mua cổ phiếu, quyền ưu tiên mua trước cổ phiếu mới, đơn xin giấy nợ, bản cáo bạch, các chứng từ kế toán hoặc các chứng từ phụ thêm, hoặc đưa ra bản đăng ký giả hoặc thông báo ra công chúng sai, Giám đốc sẽ phải chịu trách nhiệm chung về các tổn thất trừ phi anh ta chứng minh được rằng anh ta đã không cẩu thả lơ đễnh khi đưa ra một tuyên bố, đăng ký hoặc thông báo công khai (Điều 266 khoản 3.2).
Giám đốc và Kiểm soát viên sẽ điều trần những vấn đề đã được cổ đông đặt ra tại Đại hội cổ đông (Điều 237-3). Tuy nhiên, Giám đốc và kiểm soát viên có thể từ chối giải thích trong các trường hợp sau: nếu vấn đề không có liên quan gì đến mục đích của hội nghị; nếu việc giải thích phương hại đến lợi ích chung của những cổ đông; nếu việc giải thích này cần phải điều tra, hoặc có bất kỳ lý do hợp lý nào khác. Giám đốc và Kiểm soát viên không thể từ chối điều trần viện lý do cần phải điều tra nếu như cổ đông đã thông báo trong thời hạn hợp lý trước đó bằng văn bản về vấn đề cần điều trần tại đại hội (Điều 237-3).
Điều 116 của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 quy định Giám đốc (Tổng giám đốc) có 9 quyền và nhiệm vụ sau: quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần có quyết định của Hội đồng quản trị; tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị; tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; bổ nhiệm, miễm nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị; quyết định lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc (Tổng giám đốc); tuyển dụng lao động; kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh; các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Giám đốc (Tổng giám đốc) phải điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị, nếu trái với quy định mà gây thiệt hại cho công ty thì Giám đốc (Tổng giám đốc) phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
2.4.Giám đốc đại diện
Bộ luật Thương mại Nhật Bản cũng đặc biệt chú trọng đến người đại diện của công ty theo pháp luật và có những điều khoản để điều chỉnh về vấn đề này, điều mà Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 chưa thật sự chú ý. Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản, Giám đốc đại diện là người có quyền đại diện cho công ty, có thể có một hoặc nhiều hơn Giám đốc đại diện và họ tên cũng như địa chỉ của các Giám đốc đại diện phải được đăng ký. Giám đốc đại diện được chỉ định bởi Ban giám đốc và chỉ người này sẽ giải quyết các vấn đề quan trọng hàng ngày, nhưng các vấn đề kinh doanh của công ty theo điều lệ công ty hoặc theo luật mà cần đến quyết định của Ban giám đốc hoặc Đại hội cổ đông thì Giám đốc đại diện không được quyền quyết định. Mặc dù quyền hạn của Giám đốc đại diện có thể bị giới hạn bởi Ban giám đốc hoặc Điều lệ của công ty, nhưng việc giới hạn trách nhiệm này cũng không chống lại bên thứ ba nếu như người này hoàn toàn tin vào quyền hiển nhiên của Giám đốc đại diện một cách thiện ý (Điều 261 khoản 2, Điều 78 khoản 2).
Luật Thương mại Nhật Bản cũng quy định về việc lạm dụng quyền đại diện của Giám đốc đại diện và trách nhiệm của công ty trong trường hợp này.
3. Khác biệt về các quy định liên quan đến Ban kiểm soát
Ban kiểm soát của Nhật Bản chỉ áp dụng trong trường hợp các công ty lớn. Theo điều 18, và 18-2 của Luật kiểm toán đặc biệt của Nhật Bản, một công ty lớn (có tổng số vốn lớn hơn 500 triệu Yên hoặc tổng số toàn bộ trách nhiệm trên 20 tỷ Yên) cần có 3 Kiểm soát viên và những người này hợp thành Ban kiểm soát. Các công ty vừa (có tổng số vốn nằm trong khoảng từ 100 triệu đến 500 triệu Yên) và công ty nhỏ (có tổng số vốn từ 100 triệu Yên trở xuống) thì không cần phải có Ban kiểm soát.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005, thì khi công ty cổ phần có từ 11 thành viên trở lên thì phải có Ban kiểm soát. Ban kiểm soát phải có từ 3-5 thành viên nếu Điều lệ công ty không có quy định khác, Ban kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thừơng trú ở Việt Nam và ít nhất phải có một thành viên là kế toán viên hoặc kiểm toán viên. Ban kiểm soát có trưởng ban do các thành viên của ban bầu ra một người trong số họ.
3.1. Kiểm soát viên của công ty cổ phần Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Trong các công ty của Nhật Bản, các Kiểm soát viên được chỉ định tại Đại hội cổ đông. Để chỉ định Kiểm soát viên, số lượng cổ phiếu mà các cổ đông có mặt tại cuộc họp sở hữu dù được điều chỉnh bởi Điều lệ công ty cũng phải không ít hơn 1/3 tổng số cổ phiếu đã phát hành (Điều 256 khoản 2). Không giống như việc chỉ định các Giám đốc, bỏ phiếu tích luỹ không được phép tiến hành khi chỉ định các Kiểm soát viên. Các Kiểm soát viên có thể không phải là các cổ đông. Các tiêu chuẩn khác của Kiểm soát viên cũng giống như đối với các Giám đốc. Thêm vào đó, một Kiểm soát viên không thể đồng thời làm Giám đốc, nhà quản lý, hoặc bất cứ nhân viên nào của công ty hoặc công ty con của nó trong vòng 5 năm trước khi làm nhiệm vụ (Điều 276).
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 , Kiểm soát viên cũng do Đại hội đồng cổ đông bầu ra (Điều96). Tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Ban kiểm soát như sau: từ 21 tuổi trở lên, có đủ năng lực hành vi dân sự và không thuộc đối tượng bị cấm thành lập và quản lý doanh nghiệp theo Điều 13 của luật này mà đã được nói đến ở trên; không phải là vợ hoặc chồng, cha, mẹ, cha nuôi, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc (Tổng giám đốc) và người quản lý khác, thành viên Ban kiểm soát không được giữ các chức vụ quản lý công ty và không nhất thiết phải là cổ đông hoặc người lao động của công ty.
3.2. Nhiệm vụ của các Kiểm soát viên
Nhiệm vụ của các Kiểm soát viên theo pháp luật của Nhật Bản quy định còn bao gồm cả việc bảo vệ các cổ đông và đầu năm 1974 Bộ luật Thương mại được sửa đổi để tăng cường trách nhiệm của họ. Nhiệm vụ của các kiểm soát viên cũng tương đối giống như trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 nhưng được mở rộng hơn như một kiểm toán viên có thể đưa ra ý kiến liên quan đến việc chỉ định hoặc thải hồi một kiểm toán tại Đại hội cổ đông (Điều 275 khoản 3). Kiểm soát viên có thể yêu cầu toà án, thay mặt công ty, đưa ra một phán quyết để bắt người giám đốc chấm dứt hành vi vi phạm luật, các đạo luật, hoặc bản Điều lệ của công ty và điều này gây ra một tổn thất thật sự cho công ty (Điều 275 khoản 2). Kiểm soát viên còn có thể đề xuất các hành động để hủy bỏ các quyết định tại Đại hội cổ đông (Điều 247 khoản 1) và huỷ bỏ việc hợp nhất (Điều 415). Cũng vậy, Kiểm soát viên có thể kiến nghị việc bắt đầu tổ chức lại công ty (Điều 381 khoản 1) và về việc ra lệnh điều tra (Điều 452 khoản 1). Trong các trường hợp mà công ty tiến hành một hành động chống lại một Giám đốc hoặc khi một Giám đốc tiến hành một hành động chống lại công ty thì Kiểm toán viên sẽ đại diện cho công ty (Điều275 khoản 4). Kiểm soát viên có trách nhiệm với công ty và trách nhiệm đối với người thứ ba. Một kiểm soát viên phải thực thi trách nhiệm của mình với một sự quản lý tốt cẩn thận. Nếu Kiểm soát viên sao lãng trách nhiệm, Kiểm soát viên này phải chịu trách nhiệm chung và riêng đối với những tổn thất đã gây ra cho công ty (Điều 277) và bên thứ ba. Trách nhiệm của Kiểm soát viên không thể được giải phóng nếu không có sự đồng ý của tất cả các cổ đông .
Kiểm soát viên theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 gồm 9 quyền và nhiệm vụ cơ bản được quy định chi tiết tại Điều 123.
III. Một số khác biệt khác Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
1. Khác biệt về luật điều chỉnh
Luật điều chỉnh công ty cổ phần của Nhật Bản trong suốt thời gian hơn 100 năm nay là Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 1899, chỉ bắt đầu từ thời điểm 1/5/2006 thì chuyển đổi thành Luật công ty mới (do tách một phần điều chỉnh hoạt động của các loại hình công ty ra) còn công ty cổ phần tại Việt Nam trước kia được điều chỉnh bởi Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999 và từ thời điểm 1/7/2006 được điều chỉnh bởi Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005.
2. Khác biệt về quy chế phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần
Theo Bộ luật Thương mại Nhật Bản năm 2002, để bảo toàn vốn cho công ty cổ phần, công ty phải phát hành ít nhất là 1/4 số cổ phiếu trong số cổ phiếu được phép phát hành ghi trong bản Điều lệ công ty. Số vốn không được thấp hơn 10 triệu Yên (Điều 168 khoản 4). Việc yêu cầu một số vốn tối thiểu này được đưa ra nhằm bảo vệ các chủ nợ của công ty, bởi vì trách nhiệm của cổ đông trong một công ty cổ phần chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn mà họ góp vào công ty (Điều 200). Công ty có thể phát hành cổ phiếu có ghi giá trị hoặc không ghi giá trị, hoặc phát hành cả hai loại. Nhưng nói chung vốn của công ty phải cân bằng với tổng số giá trị phát hành của tất cả các cổ phiếu đã phát hành dù có ghi giá trị hay không (Điều 284 khoản 2). Số tiền không vượt quá 1/2 của trị giá phát hành sẽ không được tính vào số vốn đã khai. Quy định là đối với những cổ phiếu có giá trị thì giá trị sẽ được tính vào số vốn, và đối với những cổ phiếu không ghi giá trị được phát hành vào thời điểm thành lập công ty có ít nhất là 50 000 Yên cho mỗi giá phát hành cũng sẽ được tính vào số vốn. Khi số vốn ít hơn số tiền được tính toán bằng cách nhân số tiền của một cổ phiếu có ghi giá trị với tổng số cổ phiếu đã phát hành thì những cổ phiếu không ghi giá trị không thể chuyển đổi thành những cổ phiếu có ghi giá trị. Và giá trị danh nghĩa một cổ phiếu nhân với toàn bộ số cổ phiếu có ghi giá trị có được sau khi chia nhỏ cổ phiếu không được vượt quá tổng số vốn (Điều 218 khoản 2).
Cổ phiếu có ghi giá trị phải được ghi rõ trong bản Điều lệ thành lập công ty. Giá phát hành của một cổ phiếu có ghi giá trị không được thấp hơn 50 000 Yên và giá trị được quy định là chung cho tất cả các cổ phiếu có ghi giá trị. Giá phát hành của một cổ phiếu không ghi giá trị không được thấp hơn 50 000 Yên một cổ phiếu. Tuy nhiên, không giống như cổ phiếu có ghi giá trị, cổ phiếu không ghi giá trị có thể được phát hành tại một giá công bằng sau khi thành lập. Tuy vậy, việc phát hành cổ phiếu không ghi giá trị là rất hiếm ở Nhật Bản. Công ty có thể, bằng quyết định của Ban giám đốc, chuyển đổi cổ phiếu có ghi giá trị đã phát hành sang cổ phiếu không ghi giá trị hoặc ngược lại. Việc chuyển đổi này được phép dù cho công ty chỉ phát hành một loại cổ phiếu có ghi giá trị hoặc không ghi giá trị. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Về việc chuyển nhượng cổ phiếu cũng được Bộ luật Thương mại Nhật Bản đề cập đến. Nói chung một cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phiếu một cách tự do (Điều 204). Một cổ phiếu của công ty có thể được chuyển nhượng thông thường bằng cách chuyển nhượng giấy chứng nhận cổ phiếu (Điều 205 khoản 1). Một người có giấy chứng nhận cổ phiếu được coi là người giữ cổ phiếu một cách hợp pháp (Điều 205 khoản 2). Công ty không có trách nhiệm chuyển tên cổ đông trong sổ đăng ký cổ đông theo một yêu cầu của người cầm cổ phiếu đệ trình giấy chứng nhận cổ phiếu một cách bất hợp pháp nế công ty làm điều đó bằng sự thiện ý và không hề có một sự cẩu thả lơ đễnh nào.
Việc chuyển nhượng cổ phiếu, trước khi thành lập công ty hoặc trước khi việc phát hành cổ phiếu mới có hiệu lực, không có hiệu lực đối với công ty (Điều 190) mặc dù nó có hiệu lực giữa người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng. Công ty sẽ phát hành giấy chứng nhận cổ phiếu không chậm trễ ngay sau khi nó đi vào hoạt động hoặc sau ngày thanh toán những cổ phiếu mới (Điều 226 khoản 1,2). Việc chuyển nhượng cổ phiếu trước khi giấy chứng nhận cổ phiếu được phát hành nói chung là không có hiệu lực với công ty (Điều 204 khoản 2). Tuy nhiên, việc chuyển nhượng như thế này sẽ có hiệu lực nếu như công ty chậm trễ phát hành giấy chứng nhận cổ phiếu mà không có lý do chính đáng. Một công ty có thể quy định trong bản Điều lệ thành lập rằng một cổ phiếu, khi muốn chuyển nhượng, phải có sự chấp thuận của Ban giám đốc (Điều 204 khoản 1). Tuy nhiên, ở Nhật Bản các công ty niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán không thể hạn chế việc chuyển nhượng cổ phiếu bởi vì một tiêu chuẩn để được niêm yết tại sở giao dịch đã cấm việc hạn chế chuyển nhượng này. Việc chuyển nhượng cổ phiếu mà không có sự chấp thuận của Ban giám đốc khi trong Điều lệ công ty đã quy định một điều như thế sẽ không có hiệu lực đối với công ty, nhưng vẫn có hiệu lực giữa hai bên thực hiện việc chuyển nhượng. Trong trường hợp cần có sự đồng ý của Ban giám đốc để chuyển nhượng cổ phiếu, thì người đang giữ cổ phiếu có thể yêu cầu bằng một văn bản công ty chỉ định một người để mua số cổ phiếu đó trong trường hợp công ty không tán thành việc chuyển nhượng này (Điều 204).
Luật Thương mại Nhật Bản cũng cho phép công ty có thể phát hành nhiều loại cổ phiếu khác nhau về nội dung như việc chia lời, lợi ích, hoặc tài sản dư thừa hoặc rút cổ phiếu bằng tiền lời. Để phát hành các loại cổ phiếu như thế công ty cần quy định nội dung và số lượng của mỗi loại cổ phiếu trong Điều lệ thành lập công ty. Ngoài cổ phiếu thường ra còn có các loại cổ phiếu khác như sau: cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi dự phần, cổ phiếu chuyển đổi…Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu được ưu tiên hơn các loại cổ phiếu khác trong việc trả cổ tức, hoặc trong việc phân chia tài sản trong trường hợp giải thể. Cổ phiếu ưu đãi có vẻ hấp dẫn với các nhà đầu tư bởi việc ưu tiên chia lãi cổ tức và nó hấp dẫn cả đối với công ty bởi vì nó cho phép công ty tăng vốn mà vẫn giữ được quyền lực quản lý của mình. Trong cổ phiếu ưu đãi lại có các loại: cổ phiếu ưu đãi tích luỹ, cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ và cổ phiếu ưu đãi dự phần.
- Cổ phiếu ưu đãi tích luỹ là cổ phiếu mà trong đó quy định cổ tức năm trước không trả được có thể trả vào năm sau.
- Cổ phiếu ưu đãi không tích luỹ là loại cổ phiếu mà công ty có lãi đến đâu thì trả đến đó, phần nợ cổ tức không được tích luỹ vào năm sau. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
- Cổ phiếu ưu đãi dự phần là loại cổ phiếu mà công ty cam kết ngoài số cổ tức được trả hàng năm nếu công ty có lãi chưa chia sẽ cho phép cổ đông của loại cổ phiếu ưu đãi tham dự chia số tiền lãi chưa chia này.
Cổ phiếu chuyển đổi là loại cổ phiếu mà có thể được chuyển sang loại khác theo như quy định trong Điều lệ công ty nếu công ty phát hành các loại cổ phiếu khác nhau. Cổ phiếu chuyển đổi không được thịnh hành lắm tại Nhật Bản mặc dù trái phiếu chuyển đổi lại rất thịnh hành.
Một cổ đông làm mất giấy chứng nhận cổ phiếu có thể yêu cầu công ty cấp lại giấy chứng nhận cổ phiếu chỉ sau khi anh ta đã có được tuyên bố của toà án về việc vô hiệu giấy chứng nhận cổ phiếu bị mất hoặc bị mất cắp đó (Điều 230 khoản 1,2). Bộ luật Thương mại Nhật Bản cũng cho phép việc không phát hành giấy chứng nhận cổ phiếu để đề phòng trường hợp mất giấy chứng nhận cổ phiếu.
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 đưa ra định nghĩa về cổ phiếu như sau: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên và phải có 9 nội dung cơ bản. Nếu có sai sót trong nội dung và hình thức cổ phiếu do công ty phát hành thì quyền lợi và lợi ích của người sở hữu nó không bị ảnh hưởng. Trường hợp cổ phiếu bị mất, bị rách, bị cháy hoặc bị tiêu huỷ dưới hình thức khác thì cổ đông vẫn có quyền được công ty cấp lại cổ phiếu theo đề nghị của cổ đông đó (Điều 85).
3. Khác biệt về quyền của cổ đông
Theo Bộ luật Thương mại của Nhật Bản quyền kiểm soát tối hậu là của các cổ đông, họ thực thi quyền lực qua các phiên họp Đại hội đồng. Về một số phương diện, luật Nhật Bản đem lại cho các cổ đông của một công ty nhiều quyền lực về mặt thực chất, nhất là các cổ đông thiểu số. Cổ đông thiểu số là các cổ đông cá nhân, họ nắm giữ trong tay một số lượng rất ít cổ phiếu, sự ảnh hưởng của họ đối với công ty cổ phần là rất nhỏ. Tuy vậy, luật pháp Nhật Bản cũng đã rất chú ý bảo vệ quyền lợi cho họ.
Cổ đông kiểm soát ít ra là 3% vốn của công ty có thể yêu cầu toà án buộc một Giám đốc phạm sai lầm phải từ chức (Điều 257). Cần phải có đa số hơn 2/3 số cổ đông được đại diện ở một phiên họp Đại hội đồng để thông qua những quyết định quan trọng ảnh hưởng đến công ty, như là sửa đổi Điều lệ thành lập hội (Điều 343), thay đổi hoặc chuyển nhượng công việc kinh doanh của công ty hoặc một phần quan trọng của kinh doanh, hoặc thu nhận công việc kinh doanh của một công ty khác (Điều 408). Những điều khoản này có nghĩa là những cổ đông kiểm soát 1/3 cổ phần của một công ty (trong thực tế còn ít hơn thế), có những quyền lực quan trọng để phủ quyết hành động của Ban giám đốc.
Hơn nữa, quyền lợi của các cổ đông trong công cuộc kinh doanh không những được các Giám đốc bảo vệ mà còn được một tầng lớp quan chức bảo vệ; đó là các Kiểm soát viên do luật pháp quy định. Mỗi công ty phải có ít nhất một Kiểm soát viên do luật pháp quy định, do Đại hội đồng bầu ra. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Mặc dù có những điều khoản pháp lý đó, cá nhân cổ đông bình thường Nhật Bản nếu mua vài ngàn, thậm chí vài chục ngàn cổ phần của một công ty, nhưng không có quan hệ gì khác với nó, có rất ít ảnh hưởng đối với công việc của công ty. Một mặt, các Giám đốc mà những cổ đông được xem như là đã bầu ra ít khi quan tâm đến quyền lợi khá hạn chế của các cổ đông bình thường trong công ty. Mặt khác, những cổ đông nhỏ vốn chẳng ai biết đến và luôn luôn thay đổi thường bị lu mờ trước các cổ đông lớn-đó là các ngân hàng và bạn hàng kinh doanh của công ty, mà lợi ích của họ trong công ty chủ yếu không phải là lợi ích của cổ đông mà là lợi ích của những người cùng cộng tác kinh doanh. Cho nên, mặc dầu có các khoản của luật pháp, trong thực tiễn, các Giám đốc và ban quản trị bên trên của các công ty Nhật Bản có quyền tự do hành động rất lớn miễn là họ giữ được sự tán thành của các công ty và ngân hàng lớn đồng minh nắm giữ cổ phần của công ty. Các cổ đông nhỏ có rất ít hoặc không có ảnh hưởng gì đối với việc quản trị công ty cổ phần. Vậy thì về một phương diện nào đó, hoàn toàn đúng là các cổ đông nhỏ ít có quyền ăn nói trong công việc của một công ty hơn các nhân viên.
Ở Việt Nam, Luật Doanh nghiệp năm 2005 vẫn tiếp tục duy trì cơ chế bảo vệ cổ đông thiểu số. Cổ đông thiểu số được chú ý bảo vệ thông qua các công cụ như : quyền kiến nghị triệu tập hoặc triệu tập họp đại hội đồng cổ đông (Điều 97 và khoản 2 Điều 79); Đại hội đồng cổ đông được triệu tập lần thứ 3 đương nhiên có hiệu lực pháp lý, bất kể số cổ đông đến dự họp (Điều 102); quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành (Điều79); quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần (Điều 90); quyền thỏa thuận và thống nhất về điều kiện họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, cũng như về cơ chế và cách thức ra quyết định của các cơ quan nói trên. Thêm nữa, luật cũng quy định các biện pháp nhằm khắc phục tình trạng các cổ đông đa số có thể lạm dụng vị thế và quyền hạn của mình để thu vén cho cá nhân, gia đình, làm phương hại đến lợi ích của cổ đông thiểu số. Luật Doanh nghiệp năm 2005 bắt buộc phải công khai hoá các mối quan hệ của những người quản lý công ty với những người khác có quan hệ với công ty (có vợ hoặc chồng, cha, mẹ, cha nuôi, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em ruột là thành viên hoặc là cổ đông đa số ở các công ty khác). Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng buộc phải công khai hoá các giao dịch tư lợi (giao dịch khả nghi) vì đây là những giao dịch mà những người quyết định thực hiện chúng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho công ty nói chung và các cổ đông thiểu số nói riêng. Để bảo vệ cổ đông thiểu số, Luật Doanh nghiệp năm 2005 bắt buộc các giao dịch này phải được đem ra xem xét trước khi thực hiện (Điều 120). Tuy đã tạo được cơ chế bình đẳng hơn giữa các cổ đông nhằm bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông thiểu số nhưng những quy định trên của Luật Doanh nghiệp còn mang tính khái quát.
IV: Nhận xét về một số tồn tại của Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 trong các quy định về công ty cổ phần
Sau khi đã tiến hành so sánh, phân tích những điểm khác biệt giữa Bộ luật Thương mại Nhật Bản sửa đổi năm 2002 với Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam, chúng tôi thấy rằng Luật Doanh nghiệp năm 2005 tuy rằng đã được sửa đổi và có tiến bộ hơn so với Luật Doanh nghiệp năm 1999, nhưng vẫn còn bộc lộ một số hạn chế có thể nêu ra như sau:
1, Chưa có quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của các sáng lập viên Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
Sáng lập viên là người quan trọng trong quá trình thành lập công ty cổ phần, việc không có các quy định để ràng buộc trách nhiệm của họ sẽ gây tổn hại đến cho những người khác nếu như có sai phạm xảy ra do lỗi của các sáng lập viên. Ngoài ra, nó cũng có thể gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc giám sát, kiểm tra hoạt động của các sáng lập viên.
2. Thiếu các quy định về nội dung cụ thể của Điều lệ thành lập công ty cổ phần
Điều lệ công ty cổ phần được coi như hiến pháp, là bộ quy tắc ứng xử của công ty, là văn bản ghi nhận sự phân chia quyền và nghĩa vụ giữa các thành viên, là cơ sở để thực hiện các quyền và giải quyết tranh chấp khi xảy ra. Việc mở rộng quyền hạn trong việc soạn thảo các quy định trong Điều lệ công ty (công ty có thể tự soạn thảo và tự thoả thuận với những gì không trái với pháp luật trong khi pháp luật lại không quy định cụ thể rõ ràng về những gì công ty có thể tự thoả thuận), điều này có thể sẽ gây khó khăn cho việc quản lý các hoạt động của công ty cổ phần.
3. Thiếu các quy định hướng dẫn về các thủ tục thành lập công ty cổ phần
Hiện nay, dù đã đơn giản hoá rất nhiều trong thủ tục khai sinh công ty cổ phần, nhưng trong quá trình đăng ký thành lập công ty cổ phần, những nhà đầu tư vẫn còn gặp không ít những khó khăn vướng mắc như khi người có ý muốn tiến hành công việc kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, hay các ngành nghề mới, hoặc gặp khó khăn trong việc kinh doanh các ngành nghề có vốn pháp định…Lý do là thiếu các quy định cụ thể, thiếu các văn bản hướng dẫn công việc tiến hành, thiếu các quy định về thẩm quyền, thủ tục và điều kiện cấp giấy phép kinh doanh…Những việc như thế này sẽ gây ảnh hưởng không tốt, làm chậm trễ quá trình đăng ký kinh doanh của các nhà đầu tư, thậm chí có thể làm hạn chế việc phát huy sức sáng tạo của người dân, không đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho họ trong việc muốn thành lập công ty cổ phần hoạt động trong các lĩnh vực nói trên. Bên cạnh đó, nó cũng gây khó khăn cho cả các cơ quan trong khi tiến hành việc cấp phép cho các doanh nghiệp hoạt động.
4. Chưa có quy định hướng dẫn cụ thể để bảo vệ cho các cổ đông thiểu số
Trong thực tiễn, công ty cổ phần có rất nhiều cổ đông, có công ty cổ phần có tới hàng nghìn cổ đông. Về mặt luật pháp, tất cả các cổ đông đều có quyền và nghĩa vụ như nhau nhưng sự can thiệp vào công việc kinh doanh của công ty phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông nắm giữ, tức ai có nhiều tiền, kẻ đó là kẻ mạnh. Nếu một cổ đông có số cổ phiếu bằng số cổ phiếu của 1000 cổ đông khác thì một phiếu biểu quyết của họ có giá trị bằng tất cả số biểu quyết của 1000 cổ đông kia. Ngoài ra, trong thực tế, còn có hiện tượng một số cổ đông có cổ phiếu lớn liên kết với nhau tạo thành tổ chức lũng đoạn thao túng mọi hành động của công ty cổ phần vì lợi ích tối thượng của nhóm người này, hoặc những người trong ban lãnh đạo công ty vì một lý do nào đó loại bỏ quyền lợi của các cổ đông thiểu số. Và do đó, các cổ đông thiểu số là những cổ đông nhỏ, nắm giữ một số rất ít cổ phiếu bị mất hết thực quyền, tính dân chủ của công ty cổ phần cũng không còn. Ở Việt Nam, hiện nay, hiện tượng lũng đoạn này chưa biểu hiện rõ vì số lượng công ty cổ phần còn ít nhưng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa như nước ta, việc bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông thiểu số là điều cần thiết, vì vậy cần phải bổ sung những điều khoản để bảo vệ quyền lợi cho họ. Về điều này, ta cần học tập Bộ luật Thương mại Nhật Bản, họ đã xây dựng một cơ chế bảo vệ cho các cổ đông thiểu số rất chặt chẽ và hiệu quả. Các cổ đông thiểu số được trao cho những quyền lợi rất lớn. Luật Doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam tuy đã chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi cho cổ đông thiểu số, nhưng các quy định vẫn còn mang tính khái quát, chưa phát huy được hiệu quả về mặt thực tế.
5. Thiếu các quy định về trách nhiệm và quyền hạn của người đại diện theo luật cho công ty
Người đại diện của công ty là người có vai trò rất lớn trong việc thay mặt công ty thực hiện và chịu trách nhiệm về các hành vi pháp lý. Mỗi một quyết định, hành động của người này đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Do vậy việc quy định rõ ràng về trách nhiệm và quyền hạn của người đại diện công ty là điều cần thiết để những tránh sự phương hại đáng tiếc đến lợi ích công ty. Tuy vậy, trong luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005 mới chỉ quy định Giám đốc hoặc Chủ tịch hội đồng quản trị sẽ là người đại diện theo luật cho công ty chứ chưa có những quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn của từng người như thế nào trong việc đại diện cho công ty. Đây là một hạn chế mà Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 cần có sự bổ sung và sửa đổi. Khóa luận: Thực trạng về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp về công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp