Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao
Để đánh giá thực trạng pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao trên địa bàn thành phố Hải Phòng, trước hết cần xuất phát từ nhận thức chung về các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao trên cơ sở chỉ ra và đánh giá những quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
2.1.2. Hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao:
- Luật Thanh tra số 56/2010/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2010.
- Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra.
- Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành.
- Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Nghị định số 92/2014/NĐ-CP ngày 08 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 1 điều 16 Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định về Thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra.
- Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Thông tư số 01/2014/TT-TTCP ngày 23/4/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định việc xây dựng, phê duyệt định hướng chương trình thanh tra, kế hoạch thanh tra
- Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra.
- Thông tư số 01/2017/TT-BVHTTDL ngày 24/02/2017 của Bộ VHTT&DL quy định chi tiết Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- Các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và thể thao:
- Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20 tháng 6 năm 2012.
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Nghị định số 131/2013/ NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
- Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20 tháng 3 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 131/2013/ NĐ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
- Nghị định số 46/2019/NĐ-CP ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao.
- Các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Pháp luật về chuyên ngành văn hóa và thể thao:
- Luật Quảng cáo ngày 21 tháng 6 năm 2012.
- Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa ngày 18 tháng 6 năm 2009.
- Luật Điện ảnh ngày 29 tháng 6 năm 2006; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh ngày 18 tháng 6 năm 2009. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Luật Thư viện ngày 21 tháng 11 năm 2019.
- Luật Thể dục, thể thao ngày 29 tháng 11 năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao ngày 14 tháng 6 năm 2018;
- Các quy định khác của pháp luật có liên quan.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2. Đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao
Với hệ thống những quy định hiện hành, pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao có những ưu điểm và tồn tại, hạn chế như sau:
- Ưu điểm
Sau khi Luật Thanh tra 2010 ra đời, giai đoạn 2011-2020, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của ngành Thanh tra được xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ, toàn diện và có chất lượng nhằm tạo ra một khuôn khổ thể chế thống nhất cho việc triển khai các nhiệm vụ công tác.
Việc ban hành Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã tạo khung pháp lý quan trọng để nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra nói chung và Thanh tra ngành Văn hóa và Thể thao nói riêng, tăng cường tính chủ động, tính tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành, Thủ trưởng các cơ quan thanh tra chuyên ngành trong việc ra quyết định thanh tra, kết luận thanh tra, quyết định xử lý trong và sau thanh tra.
Đồng thời, Luật Thanh tra năm 2010 đã bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn nhằm nâng cao tính chủ động, tính độc lập tương đối cho các cơ quan thanh tra chuyên ngành; tập trung tăng cường các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra chuyên ngành; phân định, làm rõ các nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động quản lý nhà nước về thanh tra với nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động thanh tra chuyên ngành; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thanh tra chuyên ngành với nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu cơ quan thanh tra chuyên ngành. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Nhìn chung, pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao đã quy định bao quát các vấn đề về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao. Đối với pháp luật tổ chức thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, đã quy định về cơ bản đầy đủ cơ cấu tổ chức, bộ máy, chức năng nhiệm vụ của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao; quy định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đối với công tác thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao. Đối với pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, đã quy định cơ bản đầy đủ các vấn đề xung quanh hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao; hoạt động của đoàn thanh tra, mối quan hệ công tác của đoàn thanh tra; hoạt động của thanh tra viên khi tiến hành thanh tra độc lập cũng như trình tự thủ tục tiến hành thanh tra. Đây là căn cứ pháp lý, là nền tảng quan trọng để cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao phát huy vị trí, vai trò của mình.
Bên cạnh thể chế về tổ chức, hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, hệ thống pháp luật về văn hóa và thể thao, về xử lý vi phạm hành chính ngày càng được hoàn thiện hơn; các quy định, chế tài ngày càng chi tiết, cụ thể, sát với thực tế đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật.
- Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân:
Bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao cũng còn những tồn tại, hạn chế trên một số khía cạnh nhất định:
Đối với pháp luật về tổ chức thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
- Về vị trí, vai trò, chức năng:
Vị trí, vai trò, chức năng của cơ quan thanh tra nhà nước về văn hóa và thể thao trong quản lý nhà nước chưa thật sự đổi mới, vị trí của tổ chức thanh tra chưa được xác định rõ ràng trong mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, hoàn toàn bị lệ thuộc về tổ chức nhân sự, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo thanh tra, thanh tra viên, xây dựng thực hiện kế hoạch thanh tra và kinh phí hoạt động nên dẫn đến tính độc lập trong hoạt động chưa cao. Mặt khác, những chế định trên đã đặt vị trí của Thanh tra trong mối quan hệ ràng buộc chằng chịt, nhiều tầng, nhiều lớp đan xen, dẫn đến làm suy yếu tính độc lập của cơ quan thanh tra nhà nước trong hoạt động thanh tra nói chung và hoạt động thanh tra chuyên ngành nói riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, hiệu lực của công tác thanh tra.
- Quy định về cộng tác viên thanh tra: Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Điều 25 Nghị định số 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 của Chính phủ quy định về Thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn cộng tác viên thanh tra, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cộng tác viên thanh tra phù hợp với đặc điểm hoạt động thanh tra do bộ, ngành quản lý” [2]. Tuy nhiên, đến nay Bộ Văn hóa và Thể thao vẫn chưa có quy định về tiêu chuẩn, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cộng tác viên thanh tra văn hóa và thể thao dẫn đến việc trưng tập cộng tác viên thanh tra, thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cộng tác viên thanh tra của ngành còn nhiều bất cập.
Khoản 2 Điều 20 Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch: “Cộng tác viên thanh tra ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch là người được Thanh tra bộ, Thanh tra sở trưng tập tham gia Đoàn thanh tra.” [4]. Tuy nhiên hiện nay, chủ thể ban hành Quyết định thanh tra là Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước. Vì vậy, quy định về thẩm quyền trưng tập cộng tác viên thanh tra được xác định là Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước mà không bao gồm Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là chưa phù hợp với quy định hiện hành của pháp luật và đòi hỏi của thực tiễn công tác thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
- Đối với pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
Về hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ đã quy định về hoạt động của đoàn thanh tra chuyên ngành, hoạt động của thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập. Hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhưng việc tiến hành các hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thẻ thao cũng cần phải tuân thủ quy trình nghiệp vụ thanh tra. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao khác biệt rất nhiều so với hoạt động thanh tra hành chính, kể cả về mục đích và nguyên tắc. Trong khi đó, theo quy định của Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ về trình tự thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao theo Đoàn không khác nhiều so với hoạt động thanh tra hành chính, chỉ trong trường hợp Thanh tra viên tiến hành độc lập thì trình tự, thủ tục cũng như vấn đề báo cáo, xử lý thông tin có nhiều điểm khác biệt. Do vậy, việc áp dụng trên thực tế các quy định pháp luật về hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao gặp một số khó khăn, cụ thể như sau:
- Hình thức thanh tra: Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Luật Thanh tra năm 2010 quy định hình thức thanh tra bao gồm thanh tra thường xuyên, thanh tra theo kế hoạch và thanh đột xuất. Theo Luật Thanh tra năm 2010, “Thanh tra thường xuyên được tiến hành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành” [20].
Tuy nhiên Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09 tháng 02 năm 2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành chỉ quy định về hình thức thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất và đến nay cũng chưa có quy định cụ thể về hoạt động thanh tra thường xuyên để các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành tổ chức thực hiện.
- Gửi kế hoạch thanh tra:
Theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP, kế hoạch thanh tra phải được gửi cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan. Quy định này thể hiện tính công khai, minh bạch, dân chủ trong hoạt động thanh tra. Tuy nhiên quy định này không phù hợp với đặc điểm hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao trong trường hợp Kế hoạch thanh tra chỉ xác định được đối tượng thanh tra theo diện rộng, theo địa bàn, chỉ xác định nhóm đối tượng thanh tra mà không thể xác định được đích danh đối tượng thanh tra trong Kế hoạch thanh tra. Chẳng hạn, đối với hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao về lĩnh vực kinh doanh dịch vụ karaoke, cơ sở thể dục thể thao… đôi khi đối tượng thanh tra ở đây chỉ xác định được là loại hình đối tượng, hoạt động trên phạm vi nhất định xuất phát từ việc bên cạnh những cơ sở hoạt động kinh doanh đã được cấp phép hoạt động, thực tế vẫn tồn tại nhiều cơ sở hoạt động khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cấp phép dẫn đến việc không xác định được cụ thể địa điểm hoạt động của cơ sở.
- Xây dựng đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo:
Theo quy định của Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra quy định trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm xây dựng đề cương báo cáo và gửi cho đối tượng thanh tra ít nhất trước 05 ngày tính đến ngày công bố quyết định. Quy định này có điểm chưa phù hợp với hoạt động thanh tra chuyên ngành. Hoạt động của đoàn thanh tra chuyên ngành nhiều khi cần có tính bất ngờ, bí mật thông tin để đánh giá đúng thực trạng của đối tượng thanh tra, kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm, tránh để đối tượng thanh tra biết và tìm cách tẩu tán hàng hóa vi phạm hoặc tìm cách chống đối hoạt động của đoàn thanh tra (Chẳng hạn thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan…). Tiếp đó trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, nhiều khi đối tượng thanh tra là các cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ, phạm vi thanh tra với các cơ sở này không lớn. Vì vậy việc xây dựng và gửi đề cương yêu cầu đối tượng thanh tra báo cáo có lúc còn chưa phù hợp. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Bên cạnh những vướng mắc nêu trên, hoạt động thanh tra chuyên ngành cũng còn vướng mắc trong thực hiện các quy định pháp luật về một số trình tự, thủ tục và hoạt động khác trong hoạt động đoàn thanh tra chuyên ngành. Ví dụ như việc sử dụng con dấu trong đoàn thanh tra, công bố kết luận thanh tra,…
Những vấn đề tồn tại, hạn chế của pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao được chỉ ra trên đây xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân cốt yếu là sự thiếu tính ổn định, đồng bộ và khả thi của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao nói riêng. Cụ thể là:
Về tính ổn định, pháp luật về thanh tra nói chung, pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao nói riêng trong một thời gian dài chưa thực sự ổn định. Xuất phát từ nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thanh tra, thanh tra chuyên ngành đối với hoạt động quản lý nhà nước và thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước qua từng giai đoạn phát triển. Từ đó dẫn đến quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra, thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao phải thích ứng để phù hợp hơn, phát huy giá trị về vị trí, vai trò đối với hoạt động quản lý nhà nước.
Về tính đồng bộ, khả thi, một số quy định của pháp luật chuyên ngành còn quy định chưa thống nhất, phù hợp với quy định của pháp luật về thanh tra nói chung, thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao nói riêng, một số quy định hiện hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, nhiều quy định còn gặp vướng mắc, thiếu tính khả thi và chưa cho thấy sự phù hợp với thực tiễn trong quá trình thực hiện… Chẳng hạn hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thể dục, thể thao còn chưa đồng bộ; một số điều, khoản tại Nghị định của Chính phủ chưa được hướng dẫn thi hành chi tiết, gây khó khăn, vướng mắc cho cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và doanh nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện.
2.2. Thực trạng hoạt động văn hóa và thể thao trên địa bàn thành phố Hải Phòng
2.2.1. Kết quả thực hiện các mục tiêu về phát triển văn hoá, gia đình và thể thao của thành phố Hải Phòng Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã được thông qua tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV, Nghị quyết Hội đồng nhân dân thành phố khoá XIV về phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh thành phố 5 năm 2016 – 2020, các kế hoạch hành động của Uỷ ban nhân dân thành phố thực hiện các Nghị quyết của Thành uỷ, Hội đồng nhân dân thành phố; Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan thành phố lấn thứ 5, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hải Phòng đã kịp thời ban hành các chương trình, kế hoạch giai đoạn 2016 – 2020 và hàng năm của ngành để tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được thành phố giao ngành chủ trì và phối hợp thực hiện; đồng thời chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành, đơn vị địa phương liên quan tham mưu thành phố xây dựng, triển khai các quy hoạch, đề án, dự án, chương trình, kế hoạch, nhiều văn bản chỉ đạo thực hiện và phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao và gia đình của thành phố.
Sau đây là kết quả thực hiện các mục tiêu về phát triển văn hoá, gia đình và thể thao từ năm 2016 – 2020 của ngành Văn hóa và Thể thao thành phố Hải Phòng:
Tổ chức tốt các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan, văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, gia đình chào mừng các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị của thành phố và đất nước thông qua nhiều hình thức hoạt động như: Tuyên truyền cổ động trực quan, biểu diễn nghệ thuật, văn nghệ quần chúng, chiếu bóng, trưng bày triển lãm, xây dựng đời sống văn hoá cơ sở… thu hút đông đảo nhân dân tham gia, hưởng ứng. Đặc biệt các chương trình có quy mô lớn như: Liên hoan diễn xướng dân gian Chèo sân đình khu vực Đồng bằng sông Hồng mở rộng năm 2016; hoạt động giao lưu văn hóa Nhật Bản và Triển lãm hoa Anh Đào tại Hải Phòng năm 2017, 2018; Liên hoan âm nhạc ASEAN 2019; Lễ hội Hoa Phượng Đỏ gắn với chào mừng kỷ niệm ngày Giải phóng Hải Phòng được tổ chức hàng năm; các hoạt động chào mừng Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XV; Chương trình Cầu truyền hình chủ đề “Ánh sáng niềm tin” tại Cảng Hoàng Diệu kỷ niệm 90 năm ngày Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam…
Công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa được quan tâm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về lĩnh vực di sản văn hóa.
Việc thực hiện bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích theo quy định của pháp luật; công tác xã hội hóa được thực hiện khá tốt, huy động được nhiều nguồn lực xã hội tham gia; công tác quản lý, phát huy giá trị di tích từng bước đưa vào nề nếp; việc kiểm kê, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng các di tích được chú trọng; hệ thống di tích của Hải Phòng đã góp phần thúc đẩy du lịch phát triển; bảo tồn và phát huy được nhiều giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống của địa phương…
Cụ thể, trên địa bàn thành phố có 1.133 di tích được Ủy ban nhân dân thành phố phê duyệt trong Danh mục bảo tồn, bao gồm nhiều loại hình khác nhau. Có 505 di tích đã được xếp hạng các cấp, đưa vào danh mục quản lý nhà nước (chiếm 56% so với tổng số di tích hiện có trên địa bàn thành phố). Trong đó có 02 di tích quốc gia đặc biệt, 114 di tích xếp hạng cấp quốc gia (chiếm 13% so với tổng số di tích hiện có trên địa bàn thành phố), 389 di tích xếp hạng cấp thành phố (chiếm 43% so với tổng số di tích hiện có trên địa bàn thành phố). Từ năm 2016 – 2020 có 55 di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp thành phố và quốc gia; tiếp tục hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO công nhận Vịnh Hạ Long – Quần đảo Cát Bà là di sản thiên nhiên thế giới.
Công tác bảo tồn, sưu tầm và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể được quan tâm và thu được một số kết quả quan trọng. Đến nay, thành phố đã có 08 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (lễ hội Chọi Trâu Đồ Sơn, lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân, Lễ hội Minh Thề, Lễ hội vật truyền thống làng Vĩnh Khê và lễ hội Xa Mã, Hát Đúm, Lễ hội Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nghệ thuật múa rối nước Nhân Hòa ). Các di sản này từ khi được công nhận đã tiếp tục khẳng định giá trị, ý nghĩa và vai trò trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo được sức lan tỏa, liên kết cộng đồng. Năm 2016 – 2020 có 08 loại hình di sản văn hóa phi vật thể truyền thống được sưu tầm, phát huy; duy trì và phát huy được nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tiếp tục duy trì và phát triển một số câu lạc bộ nghệ thuật trình diễn dân gian tiêu biểu như Câu lạc bộ hội hát Đúm, Câu lạc bộ Ca trù… Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” phát triển sâu rộng, đạt hiệu quả thiết thực.
Phong trào được triển khai thực hiện tiếp tục góp phần xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, bản sắc văn hoá và các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp được bảo tồn, phát triển. Trong 5 năm qua, đã có hàng vạn gia đình được công nhận gia đình văn hoá, hơn 1000 hộ gia đình văn hoá tiêu biểu được thành phố tuyên dương khen thưởng. Đến nay, toàn thành phố có tổng số 499.162/540.787 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá, đạt tỷ lệ 92%. Các gia đình văn hoá là những điển hình trong việc phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo; giữ gìn và phát huy các phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp, xây dựng nếp sống văn hoá lành mạnh; gia đình có nề nếp, vợ chồng bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, người lớn sống mẫu mực, con cháu thảo hiền, lễ phép.
Phong trào xây dựng làng, tổ dân phố, gia đình văn hoá tiếp tục phát huy hiệu quả, tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế, văn hoá xã hội của các địa phương. Đến nay, toàn thành phố có tổng số 1.717/2.446 thôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hoá, đạt 70%. 100% thôn, tổ dân phố xây dựng hương ước, quy ước bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời thể hiện được nét đẹp trong phong tục tập quán của mỗi địa phương.
- Hoạt động sự nghiệp văn hóa, văn học – nghệ thuật.
Hoạt động văn học nghệ thuật của thành phố đã có tác động tích cực đối với thị hiếu, tâm tư tình cảm của nhân dân thành phố và sự phát triển chung về chính trị, kinh tế – xã hội thành phố và đất nước. Văn học nghệ thuật thành phố đã phản ánh trung thực và sinh động cuộc sống phong phú, đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân trên các lĩnh vực, biểu dương ca ngợi những cái tốt, cái đúng đồng thời lên án cái xấu để hướng tới chân – thiện – mỹ. Thông qua các tác phẩm văn học – nghệ thuật góp phần nâng cao dân trí, giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ nhận thức đúng đắn những chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước góp phần cùng cộng đồng vượt qua mọi khó khăn, vượt qua những rào cản để vươn tới cái tốt, đồng thời đấu tranh kiên quyết với cái tiêu cực, bài trừ tệ nạn xã hội. Nâng cao nhận thức và thẩm mỹ của công chúng, văn học nghệ thuật đã trở thành sân chơi bổ ích, vui tươi lành mạnh, phong phú, đa dạng về các loại hình, phong cách thể hiện mới nhưng vẫn phát huy truyền thống, giữ gìn bản sắc dân tộc nhưng cũng tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nghệ thuật của thế giới. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Hàng năm, các đơn vị sự nghiệp bám sát phương hướng, nhiệm vụ chung của Sở để xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm và chủ động triển khai thực hiện, cụ thể: Hệ thống thư viện của thành phố tiếp tục triển khai Đề án phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; giai đoạn 2016 – 2020, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố bổ sung tổng cộng 39.616 cuốn sách, số hóa 30.388 trang tài liệu số, phát triển 26.920 thẻ bạn đọc, phục vụ 1.375.000 lượt người với 2.290.000 lượt sách, báo. Tổ chức 48 cuộc trưng bày, triển lãm sách, báo và các sự kiện nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của thành phố và đất nước; triển khai nhiều hoạt động phong phú, hiệu quả tạo cơ hội cho người đọc học tập suốt đời, các hoạt động phục vụ các nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Trung tâm Văn hoá thành phố duy trì tổ chức hoạt động văn nghệ quần chúng; hàng năm tổ chức thành công 07 – 10 hoạt động văn nghệ quần chúng phục vụ nhiệm vụ chính trị. Các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp đã dựng, nâng cao khoàng 20 chương trình, tiết mục, vở diễn hàng năm; tổ chức biểu diễn tổng số 860 buổi (giai đoạn 2016 – 2020 tổ chức tổng số 4312 buổi), trong đó tập trung phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhân dân và chiến sỹ khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi và hải đảo, doanh thu đạt khoảng 15 tỷ. Năm 2020, mỗi đoàn thực hiện từ 02 – 03 vở lớn thuộc Đề án sân khấu truyền hình đạt hiệu quả tích cực.
Hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao tiếp tục được đầu tư và phát huy hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, thể thao, chính trị xã hội chung của từng địa phương, đáp ứng nhu cầu về hưởng thụ, sáng tạo văn hóa, rèn luyện sức khỏe trong nhân dân. Đến nay, toàn thành phố có 14 Trung tâm Văn hóa Thông tin, Trung tâm Thể dục Thể thao quận, huyện; 186/217 xã, phường, thị trấn có Nhà văn hóa, 1.095/2.446 làng, thôn tổ dân phố văn hóa có nhà văn hóa, khu thể thao; 139 xã xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố cơ bản hoàn thành các tiêu chí về văn hóa.
Công tác xã hội hoá hoạt động văn hoá, thể thao được các cấp, các ngành liên quan chủ động triển khai và đạt được một số kết quả quan trọng, nổi bật trong việc thực hiện xã hội hoá là lĩnh vực: xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao; xây dựng đời sống văn hoá, thể thao cơ sở; việc tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp di tích; phong trào văn nghệ quần chúng; hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan; phát triển các dịch vụ văn hoá , thể thao…
- Phong trào thể dục thể thao quần chúng
Thể dục thể thao quần chúng trên địa bàn thành phố tiếp tục phát triển sâu rộng, thu hút được sự quan tâm, hỗ trợ, phối hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân. Phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được nhân dân hưởng ứng khá tốt; tiếp tục triển khai thực hiện Đề án “Nâng cao thể lực, tầm vóc người Việt Nam đến năm 2030”. Số người tập luyện thể dục thể thao và số gia đình thể thao tăng nhanh hàng năm. Năm 2020, tỷ lệ người tập thể thao thường xuyên đạt 35%; số gia đình thể thao đạt 20%; tỷ lệ trường học dạy thể dục thể thao nội khóa đạt 100%, ngoại khóa đạt 90%.
Kế thừa và phát huy, chủ trương xã hội hoá trong công tác thể dục thể thao quần chúng và tập trung đẩy mạnh thể dục thể thao ở cơ sở là định hướng chủ đạo, phù hợp với thực tế phong trào. Mọi hoạt động thể dục thể thao đều xuất phát từ cơ sở, lấy cơ sở là đối tượng chủ yếu để phục vụ như việc tổ chức Đại hội Thể dục thể thao các cấp tiến tới Đại hội Thể dục thể thao thành phố. Hoạt động thể dục thể thao lấy tổ dân phố, thôn, trường học, phường, xã là nơi chủ yếu diễn ra các hoạt động thể dục thể thao, cán bộ thể dục thể thao được tăng cường về cơ sở, các cuộc thi đấu đều được tuyển chọn từ cơ sở và có các hình thức động viên khen thưởng, khuyến khích hoạt động tại cơ sở. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Trên địa bàn thành phố hiện có 2.660 Câu lạc bộ thể dục thể thao cơ sở của trên 40 môn thể thao, trong đó câu lạc bộ thuộc hình thức công lập chiếm gần 24% (638 câu lạc bộ), ngoài công lập chiếm 76% (2.022 câu lạc bộ). Phong trào phát triển tương đối đồng đều và rộng khắp tới mọi đối tượng, mọi địa bàn kể cả các vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Các môn thể thao dân tộc, các trò chơi dân gian được khôi phục và phát triển mạnh đặc biệt là vào các dịp lễ, hội, những ngày tết cổ truyền và các ngày kỷ niệm trọng đại của đất nước và thành phố.
Số cuộc thi đấu thể dục thể thao quần chúng từ cấp cơ sở đến cấp thành phố ở các đối tượng dân cư tăng lên đáng kể trong những năm qua, tạo nên sức sống mới về kinh tế – xã hội trong nhân dân. Tổ chức hiệu quả các hoạt động và thi đấu thể dục thể thao nhằm kỷ niệm các ngày lễ lớn, phục vụ nhiệm vụ chính trị như kỷ niệm Ngày thành lập Đảng, mừng Xuân; chào mừng Ngày Quốc tế Phụ nữ; Ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (26/3/1931) và Ngày Thể thao Việt Nam (27/3/1946), Ngày giải phóng Hải Phòng, Quốc khánh 02/9, Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam…Tổ chức và phối hợp hỗ trợ chuyên môn các ngành tổ chức các giải thi đấu thể thao quần chúng trên địa bàn thành phố (hàng năm tổ chức từ 40 – 55 giải thể thao quần chúng) và tham gia các giải thể thao quần chúng toàn quốc.
- Thể thao thành tích cao
Thể thao thành tích cao của Hải Phòng thông qua thành tích đạt được tại giải thể thao trong nước và quốc tế cơ bản vẫn duy trì và khẳng định được vị trí là một trong những Trung tâm thể thao mạnh của cả nước. Giai đoạn 2016 – 2020, thể thao thành phố Hải Phòng tham gia 575 giải thể thao, ước đạt 2.186 huy chương các loại, trong đó 149 huy chương quốc tế chính thức, 2.039 huy chương quốc gia. Hiện tại, Trung tâm Huấn luyện và thi đấu TDTT thành phố có 300 vận động viên được đào tạo chính quy, 601 vận động viên đào tạo bán tập trung và từ xa, 250 vận động viên năng khiếu, 146 vận động viên thuộc đội tuyển quốc gia. Năm 2020, có 60 vận động viên được phong cấp kiện tướng, 80 vận động viên cấp I. Triển khai xây dựng Đề án Đoàn vận động viên Hải Phòng tham dự Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ IX năm 2022 và Đề án phát triển thể thao thành tích cao thành phố Hải Phòng giai đoạn 2021 – 2026, định hướng đến năm 2030.
Chú trọng công tác chỉ đạo xây dựng lực lượng vận động viên, duy trì và phát huy các môn thể thao Hải Phòng có thế mạnh; duy trì mở các lớp bồi dưỡng huấn luyện viên, lớp năng khiếu nghiệp dư và lớp bồi dưỡng vận động viên tại các quận, huyện, các lớp tập huấn kỹ thuật hè cho các môn thể thao trọng điểm nhằm tuyển chọn, đào tạo và bổ sung lực lượng vận động viên thể thao kế cận cho thành phố và quốc gia. Tại Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ VIII năm 2018, Đoàn thể thao Hải Phòng tham gia thi đấu 25/36 môn thể thao trong Đại hội đạt: 22 HCV + 22 HCB + 42 HCĐ phá và lập 10 Kỷ lục quốc gia và Đại hội; xếp thứ 9/65 tỉnh, thành, ngành trên cả nước, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tặng cờ đơn vị có thành tích xuất sắc tại Đại hội. Trong 25 bộ môn tham dự Đại hội thể thao toàn quốc lần thứ VIII – 2018, có 21 bộ môn giành được Huy chương. Trong đó có 12 bộ môn giành được Huy chương Vàng, tập trung chủ yếu là những môn Thể thao Olympic.
Hàng năm, cử vận động viên và huấn luyện viên đi tập huấn, thi đấu trong nước và quốc tế đối với các môn thể thao có khả năng giành huy chương tại các kỳ Đại hội Thể thao toàn quốc, mời chuyên gia đến huấn luyện cho các môn Thể thao trọng điểm, có thế mạnh. Đồng thời sử dụng tối đa các tình nguyện viên đến giúp công tác đào tạo và huấn luyện các môn Thể thao. Tích cực phối hợp với Tổng cục Thể dục Thể thao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đăng cai tổ chức các giải thể thao quốc gia quốc tế tại Hải Phòng.
2.2.2. Tồn tại, hạn chế Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Việc thể chế hóa các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Thành ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố trong Ngành còn chậm, đặc biệt một số đơn vị trực thuộc Sở chưa chủ động, chưa quyết tâm triển khai thực hiện các phần việc được giao. Các chủ trương của Đảng, Nhà nước về đẩy mạnh xã hội hóa, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa chậm được triển khai thực hiện. Chất lượng các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa, thể thao còn thấp, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa, thể thao công cộng còn hạn chế so với nhu cầu của người dân, với vị trí của thành phố lớn; thiếu thiết chế văn hóa, thể thao tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới.
Mặc dù đã có sự cố gắng rất nhiều song công tác quản lý nhà nước về văn hóa, trên một số lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao và gia đình đạt kết quả chưa cao, chưa tạo bước đột phát trong xây dựng môi trường văn hóa, thể thao trên địa bàn thành phố; thị trường văn hóa phẩm còn phức tạp, tình trạng gian lận, vi phạm bản quyền diễn ra ngày càng tinh vi và khó kiểm soát, đặc biệt là thể loại băng đĩa hình, đĩa nhạc; tình trạng trá hình trong các hoạt động văn hoá, dịch vụ văn hóa còn diễn ra; một bộ phận nhân dân, cán bộ tổ chức đám cưới, đám tang linh đình, rườm rà, phô trương, hình thức; một số lễ hội lạm dụng trò chơi quay số, điện tử để trục lợi, nội dung hội còn đơn điệu, thiếu tính hấp dẫn, chưa khai thác tốt các trò chơi dân gian vào hoạt động hội… làm hạn chế tính hấp dẫn của lễ hội.
Hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp của thành phố đang đứng trước khó khăn như: thiếu kịch bản hay, kinh phí đầu tư dàn dựng vở, chương trình mới và mua sắm trang thiết bị biểu diễn hạn chế, cơ sở vật chất thiếu thốn, hệ thống thiết bị âm thanh, ánh sáng của các đơn vị nghệ thuật chưa đáp ứng được các hoạt động biểu diễn ngoài trời với quy mô lớn. Do đó chất lượng hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp chưa cao,
Cơ sở vật chất, trang thiết bị hoạt động của Ngành dù đã được quan tâm đầu tư song chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển sự nghiệp văn hóa, thể thao; địa điểm làm việc của một số đơn vị trong Ngành rất hạn chế, rất khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ được giao như Đoàn Kịch nói chưa có trụ sở và nhà hát để tập luyện và biểu diễn. Các đoàn nghệ thuật khác tuy có sân khấu nhưng chỉ bảo đảm tập luyện, còn quy mô để biểu diễn chưa đủ điều kiện và tiêu chí. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác huấn luyện, đào tạo vận động viên thành tích cao của thành phố thiếu, đặc biệt là hạng mục nhà tập luyện chuyên biệt cho các môn thể thao không đủ, một số bộ môn phải tập nhờ tại nhà thi đấu quận, huyện, trường học nên chưa đảm bảo yêu cầu chuyên môn. Do kinh phí còn hạn chế dẫn đến công tác duy tu, bảo dưỡng công trình chưa được thực hiện tốt như các rạp hát, rạp chiếu phim, khu tập luyện thể dục thể thao… Số quận, huyện có 03 công trình thể dục thể thao cơ bản đạt dưới 50%, nhưng đa số không đạt tiêu chuẩn quốc gia. Diện tích đất cho các công trình thể dục thể thao đạt 13%, chỉ có 2 huyện: Tiên Lãng và Vĩnh Bảo đủ diện tích đất. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Kết quả công tác phát triển thể dục thể thao chưa thực sự bền vững, vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém; chưa ngang tầm với đòi hỏi trước sự phát triển của thành phố và đất nước, nhất là chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mở rộng hội nhập quốc tế nhằm phát triển kinh tế – xã hội thành phố và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thể thao thành tích cao đang có biểu hiện chững lại và đi xuống, đặc biệt ở một số môn thể thao trọng điểm Olympic, các môn thể thao thế mạnh của Hải Phòng. Đặc biệt là lực lượng vận động viên kế cận đang bị thiếu và chưa có khả năng thay thế những vận động viên lớn tuổi. Về số lượng các môn thể thao của Hải Phòng tham gia thi đấu toàn quốc đã được phát triển, tuy nhiên còn rất chậm so với các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh kể cả một số tỉnh lân cận như: Hải Dương, Thanh Hóa… Theo thống kê, hàng năm có gần 40 môn thể thao được Tổng cục Thể dục thể thao tổ chức thi đấu với gần 1.000 bộ huy chương các loại. Trong khi đó Hải Phòng chỉ đủ số lượng vận động viên tham gia thi đấu các giải vô địch quốc gia 24/40 môn thể thao: Điền kinh, Bơi, Cử tạ, Bắn súng, Bắn cung, Cầu lông, Đá cầu, Đấu kiếm, Cờ vua, Bóng bàn, Thể hình, Boxing, Karatedo, Taekwondo, Silat, Judo, Wushu, Bóng chuyền, Vật, Đua thuyền, Thể dục, Thể dục Aerobic, Nhảy cầu, Lặn. Số lượng vận động viên thuộc Trung tâm Đào tạo Vận động viên còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thể thao thành tích cao trong giai đoạn hiện nay. Với số lượng huấn luyện viên, vận động viên như hiện này thì việc duy trì thứ hạng thể thao thành tích cao của Hải Phòng đối với cả nước trong thời gian tới là khó khăn. Một số cấp, ngành chưa thực sự coi trọng, còn xem nhẹ trong chỉ đạo, quản lý, điều hành phong trào thể dục thể thao.
Còn thiếu chính sách thu hút tài năng văn hóa, thể thao. Một số chính sách, chế độ đối với nghệ sỹ, diễn viên, vận động viên, huấn luyện viên đã được quan tâm, nhưng chưa phù hợp với thực tiễn. Chưa có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho văn hóa, thể dục, thể thao, thiếu chính sách và các quy định về đào tạo nguồn nhân lực cho văn hóa, thể dục, thể thao, nhất là đối với thể thao thành tích cao và nghệ thuật chuyên nghiệp.
Thể thao người khuyết tật đã được quan tâm, tuy nhiên chưa có địa điểm đặc thù cho người khuyết tật tập luyện và hệ thống thi đấu cấp thành phố để người khuyết tập tập luyện, giao lưu, hòa nhập cộng đồng. Mặt khác, các công trình thể dục thể thao đã xây dựng chưa đáp ứng tiêu chí để người khuyết tật tham gia tập luyện.
Các môn thể dục thể thao phòng chữa bệnh, thể thao giải trí tuy đã phát triển, nhưng chưa bền vững ổn định, do các văn bản hướng dẫn về những môn thể thao giải trí và các cơ chế, chính sách chưa đồng bộ; Các môn thể thao dân tộc đã được người dân tập luyện và duy trì ở lễ hội, cùng với các môn thể thao hiện đại, nhưng chưa thường xuyên, do phụ thuộc vào xã hội hóa.
Công tác quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ, nghệ sỹ, diễn viên, trọng tài, chuyên gia đẳng cấp quốc tế… chưa đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ phát triển ngành. Thiếu chuyên gia giỏi, đội ngũ cán bộ có trình độ và kinh nghiệm tại các cơ sở còn yếu, hiệu quả quản lý nhà nước còn nhiều bất cập. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Một số việc đã triển khai song kết quả đạt được chưa cao, chưa toàn diện, có việc còn lúng túng trong phương pháp, cách thức triển khai. Một số nội dung, nhiệm vụ chưa hoàn thành như Nâng cấp Đoàn Ca múa Hải Phòng thành Nhà hát Ca múa nhạc Hải Phòng; nâng cấp Trường Trung cấp văn hóa nghệ thuật và du lịch thành trường Cao đẳng; “Rà soát, điều chỉnh và bổ sung Quy hoạch quảng cáo ngoài trời và cổ động trực quan thành phố Hải Phòng đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”; việc triển khai thực hiện Quyết định số 88/QĐ-TTg ngày 09/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch và kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hóa (nhà hát, rạp chiếu phim, nhà triển lãm văn học nghệ thuật) giai đoạn 2012 – 2020 còn hạn chế, nhất là Nhà hát quy mô 2.000 chỗ ngồi; Quảng trường và Tượng đài Hồ Chí Minh; Trung tâm Văn hóa cấp vùng duyên hải Bắc Bộ… Huy động xã hội hóa cho hoạt động văn hóa, thể dục thể thao còn hạn chế, chưa có công trình thể dục thể thao cho mọi người quy mô lớn được thực hiện bằng nguồn vốn xã hội hóa.
Thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid – 19, các hoạt động văn hóa, gia đình thể thao phục vụ chính trị của ngành, cũng như các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa, thể thao đều dừng tổ chức, hoạt động không thực hiện được theo kế hoạch đã đề ra như tổ chức các giải thể thao, các chương trình nghệ thuật, mít tinh chào mừng… vì vậy một số nhiệm vụ, chỉ tiêu theo kế hoạch thành phố giao và theo kế hoạch năm 2020 của ngành chưa thực hiện được.
Việc triển khai thực hiện kiện toàn, sắp xếp một số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành văn hóa và thể thao… phần nào đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu, kế hoạch của các đơn vị và của toàn ngành.
2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng
2.3.1. Khái quát chung về bộ máy quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hải Phòng (sau đây gọi là Sở Văn hóa và Thể thao) được thành lập từ tháng 6 năm 2016 trên cơ sở đổi tên từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành Sở Văn hóa và Thể thao có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức theo quy định tại Quyết định số 299/2017/QĐ- UBND ngày 13/02/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng.
- Vị trí, chức năng:
Sở Văn hoá và Thể thao là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố; thực hiện chức năng tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo (trừ quảng cáo trên báo chí, trên môi trường mạng, trên xuất bản phẩm và quảng cáo tích hợp trên các sản phẩm, dịch vụ bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin) ở thành phố theo quy định của pháp luật; các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Sở và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố; chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Uỷ ban nhân dân thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. * Cơ cấu tổ chức:
- Ban Giám đốc Sở gồm: Giám đốc Sở và 02 Phó Giám đốc Sở.
- Các phòng chuyên môn, nghiệp vụ (09 phòng): Văn phòng, Thanh tra, Phòng Tổ chức – Pháp chế, Phòng Kế hoạch – Tài chính, Phòng Quản lý văn hóa, Phòng Quản lý di sản văn hóa, Phòng Xây dựng nếp sống văn hóa và Gia đình, Phòng Quản lý thể dục thể thao, Phòng Thể thao thành tích cao.
- Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc (16 đơn vị): Trung tâm Văn hóa thành phố, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố, Bảo tàng Hải Phòng, Trung tâm
Thông tin và Cổ động, Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật, Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng, Trung tâm Tổ chức biểu diễn nghệ thuật, Trường Trung cấp Văn hóa nghệ thuật và Du lịch, Đoàn Chèo Hải Phòng, Đoài Cải lương Hải Phòng, Đoàn Nghệ thuật múa rối Hải Phòng, Đoàn Ca múa Hải Phòng, Đoàn Kịch nói Hải Phòng, Trung tâm Đào tạo vận động viên thể dục thể thao, Trung tâm Bóng đá Hải Phòng, Trung tâm Quản lý và Khai thác các công trình thể dục thể thao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn:
Công tác xây dựng pháp luật: Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Dự thảo quyết định, chỉ thị; quy hoạch, kế hoạch dài hạn, 05 (năm) năm và hàng năm; đề án, dự án, chương trình phát triển văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao; chương trình, biện pháp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước; phân cấp quản lý và xã hội hoá trong lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao ở thành phố.
- Dự thảo văn bản quy định cụ thể điều kiện, tiêu chuẩn, chức danh đối với Trưởng, Phó các đơn vị thuộc Sở Văn hóa và Thể thao; Trưởng, Phó Phòng Văn hoá và Thông tin thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện sau khi phối hợp và thống nhất với Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Du lịch.
- Dự thảo văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Văn hóa và Thể thao. + Công tác tổ chức:
- Dự thảo quyết định, chỉ thị thuộc thẩm quyền ban hành của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố về văn hóa, gia đình, thể dục, thể thao.
- Dự thảo quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc Sở Văn hóa và Thể thao theo quy định của pháp luật.
- Quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của văn phòng, thanh tra, các phòng chuyên môn nghiệp vụ và các đơn vị sự nghiệp thuộc Sở; quản lý tổ chức bộ máy, biên chế công chức, cơ cấu ngạch công chức, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện chế độ tiền lương và chính sách, chế độ đãi ngộ, khen thưởng kỷ luật đối với cán bộ, công chức, viên chức và lao động thuộc phạm vi quản lý của Sở theo quy định của pháp luật và theo sự phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố.
Công tác kiểm tra, tổ chức thực hiện:
- Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình sau khi được phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục, theo dõi thi hành pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Sở Văn hoá và Thể thao.
- Chủ trì hoặc phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống, ngăn chặn các hoạt động vi phạm pháp luật về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao.
- Giúp Ủy ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân; hướng dẫn và kiểm tra hoạt động đối với các hội và tổ chức phi chính phủ về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao theo quy định của pháp luật.
- Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập về văn hoá, thể thao theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng và xử lý vi phạm pháp luật đối với tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và quảng cáo theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của Ủy ban nhân dân thành phố.
2.3.2. Tổ chức bộ máy thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao thành phố Hải Phòng
Như đã phân tích ở chương 1, chủ thể của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao là cơ quan thanh tra nhà nước về văn hóa và thể thao nên khi nói đến tổ chức bộ máy thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao thành phố Hải Phòng chính là tổ chức bộ máy của Thanh tra Sở Văn hóa và Thể thao.
- Vị trí, chức năng:
Theo Quyết định số 255/QĐ-SVHTT ngày 14/4/2017 của Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao về việc ban hành Quy định vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu biên chế và mối quan hệ công tác các phòng chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Sở Văn hóa và Thể thao Hải Phòng, Thanh tra Sở Văn hóa và
Thể thao thành phố Hải Phòng (sau đây gọi là Thanh tra Sở):
Là cơ quan của Sở Văn hóa và Thể thao, giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước của Sở Văn hoá và Thể thao trên địa bàn thành phố.
Chịu sự chỉ đạo về công tác thanh tra và hướng dẫn về nghiệp vụ thanh tra hành chính của Thanh tra thành phố, về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Bộ.
- Nhiệm vụ và quyền hạn:
Thanh tra Sở thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định tại Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Nghị định số 07/2012/NĐCP ngày 09/02/2012 của Chính phủ quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch và các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau:
Xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch công tác thanh tra đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính đối với cơ quan, tổ chức cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Sở Văn hoá và Thể thao. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra chuyên ngành văn hoá, gia đình, thể dục thể thao, quảng cáo trong phạm vi quản lý nhà nước của Sở Văn hoá và Thể thao.
Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Giúp Giám đốc Sở thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng theo quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Hướng dẫn, kiểm tra các cơ quan, đơn vị thuộc Sở thực hiện quy định của pháp luật về công tác thanh tra; phối hợp với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Sở chỉ đạo, hướng dẫn về tổ chức, hoạt động thanh tra nội bộ trong cơ quan đơn vị đó.
Tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý của Sở.
+ Kiến nghị cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định trái với văn bản pháp luật của nhà nước về văn hoá, gia đình, thể dục thể thao được phát hiện qua công tác thanh tra.
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận của Giám đốc Sở, các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Thanh tra Sở.
Đề nghị các cơ quan, đơn vị có liên quan cử cán bộ, công chức tham gia các Đoàn thanh tra.
Quản lý cán bộ, công chức tại Thanh tra, quản lý tài sản được giao theo quy định. Điều hành hoạt động nội vụ của Thanh tra để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Sở giao.
- Về nhân sự:
Từ năm 2018 – 2020, nhân sự của Thanh tra Sở ổn định, không có biến động, gồm 07 cán bộ cụ thể là: Chánh Thanh tra, 01 Phó Chánh Thanh tra, 03 Thanh tra viên, 01 chuyên viên làm công tác thanh tra và 01 cán bộ được biệt phái thực hiện công tác thanh tra. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Đội ngũ nhân sự Thanh tra Sở có sự hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lênin, nắm chắc các chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng, 100% cán bộ công tác tại cơ quan Thanh tra Sở đều có trình độ từ Đại học trở lên (trong đó chuyên ngành về văn hóa và thể thao là 3/7 người, chuyên ngành luật là 5/7 người), tỷ lệ thanh tra viên khá cao (5/7 người), có kinh nghiệm nhiều năm trong công tác thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao và được bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra.
Trong giai đoạn 2018 – 2020, do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn, chế độ chính sách đãi ngộ đối với cộng tác viên thanh tra văn hóa và thể thao, vì vậy Thanh tra Sở chưa có căn cứ để trưng tập cộng tác viên thanh tra văn hóa và thể thao tham gia Đoàn thanh tra.
2.3.3. Hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng
Những năm qua, được sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của lãnh đạo Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hải Phòng và Thanh tra Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch, Thanh tra thành phố Hải Phòng, với sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị liên quan, Thanh tra Sở đã hoàn thành 100% kế hoạch công tác và nhiệm vụ đột xuất do lãnh đạo Sở giao. Các vụ việc giải quyết theo đúng trình tự và quy định của pháp luật. Công tác thanh tra chuyên ngành, trong lĩnh vực văn hóa, đã làm tốt công tác kiểm tra hoạt động lễ hội đâu xuân phục vụ nhân dân đón tết Nguyên Đán; các hành vi vi phạm trong hoạt động quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật được xử lý nghiêm minh. Những kết quả đã đạt được trong lĩnh vực quyền tác giả quyền liên quan được đánh giá cao. Trong lĩnh vực thể thao công tác tổ chức giải thi đấu thể thao ngày càng đi vào nề nếp, ý thức chấp hành các quy định pháp luật trong kinh doanh dịch vụ thể thao được nâng cao. Công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được duy trì thường xuyên, đã bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân. Bên cạnh đó, Thanh tra Sở còn thường xuyên tham gia xây dựng, góp ý các văn bản quy phạm pháp luật góp phần hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật về văn hóa, thể thao và gia đình.
- Kết quả hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng từ năm 2018 – 2020:
Thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, giai đoạn 2018 – 2020 Thanh tra Sở đã tiến hành thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngành như sau:
- Năm 2018:
- Tổng số cuộc kiểm tra, khảo sát: 118 buổi
- Số lượt đối tượng được kiểm tra: 332
- Tổ chức: 130 + Cá nhân: 202
- Lĩnh vực kiểm tra chủ yếu: + Karaoke, bar: 142
- + Cơ sở dịch vụ thể thao: 54 cơ sở
- + Quảng cáo: 86 đơn vị
- + Cửa hàng băng đĩa hình: 02
- + Biểu diễn nghệ thuật: 10 chương trình.
- + Cơ sở kinh doanh trò chơi điện tử: 12
- + Lễ hội: 23
- + Cơ sở chiếu phim: 03
Kết quả kiểm tra: Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Xử phạt hành chính 107.000.000 đồng đối với 05 cá nhân và 09 tổ chức vi phạm.
- Tịch thu và tiêu hủy: 2258 đĩa hình không có tem nhãn và 26 xuất bản phẩm có tính chất mê tín dị đoan, tháo dỡ và tiêu hủy 15 băng zôn quảng cáo treo trái phép, không đúng quy định.
- Năm 2019:
- Tổng số cuộc kiểm tra, khảo sát: 132 buổi
- Số lượt đối tượng được được kiểm tra: 283
- + Tổ chức: 58
- + Cá nhân: 225
- Lĩnh vực kiểm tra chủ yếu: + Karaoke: 125
- + Cơ sở thể dục thể thao: 76
- + Biểu diễn nghệ thuật: 08 chương trình
- + Lễ hội: 26 (lễ hội, di tích, cơ sở tín ngưỡng).
- + Quảng cáo: 48
Kết quả kiểm tra:
- Xử phạt hành chính 90.000.000 đồng đối với 06 cá nhân và 05 tổ chức vi phạm.
- Tịch thu và tiêu hủy: 215 đĩa hình không có tem nhãn và 26 xuất bản phẩm có tính chất mê tín dị đoan.
- Thanh tra Sở đã phối hợp với UBND quận Lê Chân kiểm tra 01 cơ sở kinh doanh karaoke trên địa bàn quận Lê Chân, UBND quận Lê Chân đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 15.000.000 đồng và đình chỉ hoạt động kinh doanh karaoke của cơ sở.
- Phối hợp với Đội Kiểm tra liên ngành Văn hóa, Du lịch, Thông tin và truyền thông huyện Cát Hải kiểm tra 03 cơ sở kinh doanh quán bar tại Thị trấn Cát Bà. Đoàn Kiểm tra đã lập Biên bản vi phạm hành chính đối với 03 cơ sở và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính 14.000.000 đồng đối với cả 03 cơ sở.
- Năm 2020:
- Tổng số cuộc kiểm tra, khảo sát: 98 buổi
- Số lượt đối tượng được được kiểm tra: 172
- + Tổ chức: 18
- + Cá nhân: 154
- Lĩnh vực kiểm tra chủ yếu: + Karaoke, bar: 88
- + Cơ sở thể dục thể thao: 67
- + Biểu diễn nghệ thuật: 02 chương trình
- + Lễ hội: 12 (lễ hội, di tích, cơ sở tín ngưỡng).
- + Quảng cáo: 03 Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Giám sát các cơ sở Karaoke, vũ trường, sân golf, Gym…. đối với việc chấp hành Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân thành phố về việc tạm dừng tổ chức hoạt động kinh doanh trong thời điểm tăng cường phòng, chống dịch Covid 19: 284 cơ sở.
Kết quả kiểm tra:
- Xử phạt hành chính 42.500.000 đồng đối với 05 cá nhân vi phạm quy định về kinh doanh dịch vụ karaoke và thể dục thể thao.
- Tịch thu và tiêu hủy: 102 đĩa hình không có tem nhãn và 83 xuất bản phẩm có tính chất mê tín dị đoan.
Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra:
- Phương tiện đi lại: Thanh tra Sở không được cấp phương tiện ô tô mà sử dụng chung phương tiện đi lại là ô tô 16 chỗ của Sở, cán bộ thanh tra viên hoạt động bằng xe máy cá nhân.
- Trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra: Được trang bị một số dụng cụ, công cụ, máy vi tính, máy in, các thiết bị văn phòng phẩm đầy đủ, cơ bản đảm bảo hoạt động ở mức tối thiểu.
- Kinh phí hoạt động: Đối với kinh phí hành chính được cấp kinh phí theo định mức khoán thông thường của cơ quan hành chính nhà nước, còn kinh phí phục vụ cho hoạt động thanh tra, kiểm tra được cấp từ nguồn kinh phí sự nghiệp văn hóa và thể thao khoảng 100.000.000 đồng/năm.
2.3.4. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về thanh tra văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng
a. Ưu điểm:
- Về tổ chức bộ máy:
Bộ máy tổ chức Thanh tra Sở đã được thiết lập cơ bản hoàn thiện, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Đội ngũ nhân sự Thanh tra Sở đều có tinh thần trách nhiệm với công việc, kỷ luật tốt, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, dày dạn kinh nghiệm thực tế về công tác, đảm bảo hoàn thành tốt yêu cầu, nhiệm vụ được giao và không ngừng được đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra văn hóa và thể thao được quan tâm chú trọng. Hàng năm, lãnh đạo Sở Văn hóa và Thể thao luôn quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện các cơ quan, đơn vị trong ngành xây dựng kế hoạch đào tạo, cử cán bộ, công chức, viên chức trong ngành nói chung và cán bộ, công chức Thanh tra Sở nói riêng đi đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, lý luận chính trị – hành chính.
Bên cạnh đó, công tác hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật chuyên ngành cũng được quan tâm chú trọng kết hợp với việc tích cực tham gia các lớp tập huấn, trao đổi kinh nghiệm do Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức giúp cho nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của cán bộ, công chức Thanh tra Sở không ngừng được củng cố và nâng cao. Những kết quả đạt được trong tổ chức bộ máy thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao đã tạo nền móng cho hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao, là nền tảng cơ bản để Thanh tra Sở phát huy ngày càng tốt hơn nữa vị trí, vai trò của mình trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa và thể thao trên địa bàn thành phố.
- Về hoạt động:
Trên cơ sở căn cứ các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chiến lược, kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa và thể thao của thành phố và tình hình thực tiễn, Thanh tra Sở đã chủ động tham mưu, đề xuất và tiến hành thanh tra, kiểm tra trên nhiều lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, chất lượng hoạt động thanh tra, kiểm tra ngày càng đi vào chiều sâu. (Trong 03 năm từ 2018 đến 2020, Thanh tra Sở đã tiến hành kiểm tra đối với 332 lượt cơ sở trên các lĩnh vực kinh doanh dịch vụ karaoke, thể dục thể thao, trò chơi điện tử,quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật…; phát hiện và xử lý 30 cơ sở sai phạm, trong đó xử phạt hành chính đối với 16 cá nhân, 14 tổ chức với tổng số tiền phạt là 239.500.000 đồng và tịch thu, tiêu hủy 2575 đĩa hình không có tem nhãn và 135 xuất bản phẩm có tính chất mê tín dị đoan, tháo dỡ và tiêu hủy 15 băng zôn quảng cáo treo trái phép, không đúng quy định).
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra tuân thủ theo đúng quy trình của Luật Thanh tra, không gây phiền hà và làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của đối tượng được kiểm tra. Việc xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao thực hiện đúng quy định tại Luật Thanh tra, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo; Nghị định số 131/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả và quyền liên quan; Nghị định số 28/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 158/2013/NĐ-CP và Nghị định số 131/2013/NĐ-CP; Nghị định số 46/2019/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thể thao và các văn bản pháp luật liên quan, không làm phát sinh khiếu kiện.
Bên cạnh đó, qua thanh tra, kiểm tra, Thanh tra Sở đã kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật chuyên ngành, quy định chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý của ngành đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành; đồng thời tổng kết rút kinh nghiệm trong hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành để đề ra phương hướng công tác thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao trong thời gian tới và kiến nghị khắc phục sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách pháp luật, đề xuất các giải pháp hữu ích cho công tác quản lý nhà nước về văn hóa và thể thao. Từ đó, góp phần giữ gìn kỷ cương pháp luật chuyên ngành, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tạo lập, giữ gìn môi trường pháp lý trong sạch, công bằng, bình đẳng cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Tồn tại, hạn chế:
Về tổ chức bộ máy:
Số lượng biên chế được giao của Thanh tra Sở còn hạn hẹp.
Thực tế, ngoài công tác thanh tra chuyên ngành thì theo Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, chức năng nhiệm vụ của Thanh tra Sở còn bao gồm các lĩnh vực thanh tra hành chính, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và phòng chống tham nhũng… Nếu xét trên bình diện chung của việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ khác của Thanh tra Sở như thanh tra hành chính, tiếp công dân, thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh, phòng chống tham nhũng… sẽ dẫn đến tình trạng quá tải công việc và phân tán, không tập trung, chuyên môn hóa trong thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Đặc biệt, trong những năm gần đây, Thanh tra Sở phải giải quyết nhiều đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Chỉ riêng nhiệm vụ giải quyết đơn thư như hiện nay, đặc biệt nếu nội dung đơn có nhiều tình tiết phức tạp thì thời gian giải quyết đơn sẽ kéo dài, việc tập trung giải quyết đơn đã chiếm phần nhiều thời gian làm việc của Thanh tra Sở. Tình trạng này dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Sở có lúc còn bị hạn chế. Ngược lại, đây cũng là một trong số những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.
Việc chuyển đổi vị trí công tác các chức danh theo định kỳ quy định tại Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27 /10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 150/2013/NĐ-CP ngày 01/11/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2007/NĐ-CP; Thông tư số 10/2014/TT-TTCP ngày 24/11/2014 của Thanh tra Chính phủ về quy định chi tiết danh mục vị trí công tác thanh tra của cán bộ, công chức trong các cơ quan thanh tra nhà nước phải định kỳ chuyển đổi khiến cho đội ngũ nhân sự thanh tra không được ổn định, thường xuyên có sự luân chuyển, điều động nội bộ từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, nên mất nhiều thời gian để làm quen, tiếp cận, tích lũy kinh nghiệm và kiến thức chuyên ngành khiến cho việc xây dựng và đào tạo, quy hoạch đội ngũ gặp nhiều khó khăn.
Trình độ chuyên môn của một số công chức, Thanh tra viên vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được hết yêu cầu của công việc, đặc biệt thanh tra trong lĩnh vực đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu cả về chuyên ngành và kiến thức tổng hợp thuộc tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
- Về hoạt động:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra chuyên ngành của Thanh tra Sở chưa thực hiện được hết các lĩnh vực quản lý nhà nước về văn hóa và thể thao và còn có những hạn chế nhất định về chiều sâu.
Trên một số lĩnh vực quản lý nhà nước như: bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; quyền tác giả và quyền liên quan; sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim; về phòng, chống bạo lực gia đình; về hoạt động mỹ thuật; nhiếp ảnh; triển lãm; về xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh; về thể dục, thể thao quần chúng; về thể thao thành tích cao; thể thao chuyên nghiệp; về thể dục, thể thao của các hội và tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực thể dục, thể thao…. công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành còn bỏ ngỏ.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành thời gian qua mặc dù đã kịp thời ngăn chặn, phát hiện và xử lý nhiều sai phạm trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, tuy nhiên vẫn còn tình trạng nặng về kiểm tra, xử phạt về hồ sơ pháp lý hành chính, đôi lúc chưa chuyên sâu về việc xem xét các vấn đề về chuyên môn – kỹ thuật, đánh giá thực tiễn để qua đó kịp thời điều chỉnh cơ chế quản lý, chính sách pháp luật, chấn chỉnh sai phạm trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành của cơ sở thuộc phạm vi quản lý.
Thực tế, hoạt động thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Sở trong giai đoạn 2018 – 2020 cho thấy chưa có trường hợp giao thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập; mặc dù Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao được thực hiện bởi đoàn thanh tra và do thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập.
Kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra dù đã được quan tâm đầu tư song vẫn còn những khó khăn nhất định, chưa tương xứng với yêu cầu để thực hiện nhiệm vụ, dẫn đến việc thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành của Thanh tra Sở có lúc còn bị hạn chế. Kinh phí hoạt động khoảng 100 triệu đồng/năm là rất hạn chế, rất khó khăn trong thực hiện nhiệm vụ được giao đối với phạm vi quản lý về hoạt động, kinh doanh văn hóa và thể thao của các cá nhân, tổ chức trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Trang thiết bị phục vụ hoạt động thanh tra còn thiếu và lỗi thời nên việc phát hiện các hành vi vi phạm chưa được kịp thời. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, phát hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm còn hạn chế. Hạn chế này xuất phát từ việc thiếu quy chế phối hợp hoạt động giữa Thanh tra Sở với các bên có liên quan do Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng vẫn chưa ban hành quy chế phối hợp hoạt động giữa Thanh tra sở và các cơ quan công an, quản lý thị trường, thanh tra chuyên ngành khác, Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan tổ chức có liên quan trên địa bàn như được giao tại Nghị định số 173/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Việc thiếu quy chế phối hợp hoạt động giữa Thanh tra Sở với các bên có liên quan đã dẫn đến nhiều bất cập trong thực tiễn hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
- Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế:
Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, lãnh đạo Sở có lúc chưa tập trung, chưa thực sự quan tâm tổ chức và chỉ đạo công tác thanh tra, chưa coi thanh tra là một chức năng thiết yếu của công tác quản lý mà chỉ sử dụng như là một công cụ để xử lý các vụ việc cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý. Thanh tra Sở vẫn chưa được coi là một công cụ đắc lực phục vụ hoạt động quản lý của Sở. Vì vậy, Thanh tra Sở chưa được đầu tư phát triển xứng tầm với vai trò, nhiệm vụ được giao.
Hai là, những ảnh hưởng, tác động của tình hình kinh tế – xã hội. Trong những năm qua, thành phố Hải Phòng đã có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế – xã hội, cùng với đó, nhận thức và nhu cầu về hưởng thụ văn hóa, thể thao và chăm sóc sức khỏe của nhân dân trên địa bàn thành phố ngày càng được nâng cao. Trong điều kiện Đảng và Nhà nước ta đang chỉ đạo đẩy mạnh công tác xã hội hóa văn hóa và thể thao, nhiều cơ sở văn hóa và thể thao ngoài công lập tại thành phố được thành lập, trong đó có nhiều cơ sở là chi nhánh thuộc chuỗi các cơ sở văn hóa và thể thao lớn trong cả nước. Từ đó, vừa cung cấp cho người dân nhiều lựa chọn với các cơ sở văn hóa và thể thao có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện kinh tế, vừa tạo động lực bền bỉ, thúc đẩy cạnh tranh giữa các cơ sở văn hóa và thể thao công lập và ngoài công lập để không ngừng nâng tầm chất lượng dịch vụ văn hóa và thể thao. Tuy nhiên, thực trạng ấy cũng đặt ra những thách thức cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ sở văn hóa và thể thao trong và ngoài công lập, đặc biệt là đối với các cơ sở văn hóa và thể thao ngoài công lập. Nhất là trong điều kiện kinh tế – xã hội phát triển, các hình thức vi phạm pháp luật cũng trở nên tinh vi và khó phát hiện hơn.
Ba là, hệ thống các văn bản pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao còn chưa thực sự hoàn chỉnh, còn bộc lộ nhiều điểm bất hợp lý, lỗi thời, không phù hợp với tình hình và yêu cầu của thực tiễn, dẫn đến sự trùng lặp về thẩm quyền và hoạt động ở một số lĩnh vực.
Bốn là, xuất phát từ hạn chế trong thực trạng tổ chức dẫn đến hạn chế trong hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao trên địa bàn thành phố Hải Phòng. Sự phụ thuộc quá lớn của Thanh tra Sở đối với cơ quan quản lý là Sở Văn hóa và Thể thao cả về tổ chức, nhân sự, kinh phí, trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra, trong quá trình tiến hành thanh tra cũng như giai đoạn kết thúc, kết luận và kiến nghị xử lý ảnh hưởng phần nào đến tính chủ động và độc lập trong hoạt động của Thanh tra Sở. Bên cạnh đó, sự biến động về tổ chức đội ngũ nhân sự thanh tra và hạn chế về trình độ chuyên môn ít nhiều ảnh hướng đến chất lượng cuộc thanh tra.
Tiểu kết chương 2 Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
Tại Chương 2, Khóa luận đã phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao và thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng để tạo tiền đề, đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao từ thực tiễn thành phố Hải Phòng tại Chương 3. Cụ thể:
Trên cơ sở chỉ ra các quy định của pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao (quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao), Khóa luận đã phân tích, đánh giá những ưu điểm, đưa ra một số tồn tại, bất cập cụ thể trong các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao.
Tiếp theo, Khóa luận khái quát về thực trạng hoạt động văn hóa và thể thao trên địa bàn thành phố Hải Phòng bao gồm những kết quả đạt được, những bất cập hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa và thể thao.
Cuối cùng, Khóa luận xem xét việc thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao từ thực tiễn tại thành phố Hải Phòng về tổ chức bộ máy và hoạt động thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng; sau đó tập trung đánh giá ưu điểm, tồn tại hạn chế trong việc thực hiện pháp luật về thanh tra chuyên ngành văn hóa và thể thao tại thành phố Hải Phòng. Khóa luận: Thực trạng PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp PL về thanh tra ngành văn hóa và thể thao