Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: tìm hiểu về khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi nưa và thực trạng khai thác hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Tìm hiểu về khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Nưa

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của khu di tích

Theo đường tỉnh lộ từ thành phố Thanh Hóa, đi ngã tư Quán Giắt (Triệu Sơn) đúng 18km, rẽ tay trái theo đường 15B về phía đi Cầu Quan – Nông Cống độ khoảng 10km là đến vùng đất Kẻ Nưa – Cổ Định (nay là xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn). Nằm giữa đồng bằng phía tây nam Thanh Hóa, núi Nưa, cao gần 400m cách biển Sầm Sơn khoảng 30km về phía đông, là ngọn núi cuối cùng trong dãy núi hình rồng uốn bảy khúc, chạy dọc xã Thọ Dân, Thọ Thế, Mốc đến Sim và dừng lại phía đông bắc Nưa. Một mạch núi khác tiếp giáp với Nưa từ phía tây nam chạy qua xã Mậu Lâm, Xuân Du của huyện Như Thanh hội nhập vào mặt tả ngọn núi. Núi Nưa chia làm hai mặt, phía đông tiếp giáp đồng ruộng, phía tây nam là núi đồi. Nưa là một địa danh đặc biệt, không xa biển nhưng lại là tiếp đầu của núi rừng. Quanh năm đỉnh Nưa có mây bao phủ, khí hậu mát lành. Cái tên gọi Ngàn Nưa không biết có tự bao giờ. Lớp người gần trăm tuổi ở vùng này cho biết Ngàn Nưa xưa có không gian rộng lớn. Đầu thế kỉ XX, rừng rậm còn kéo dài đến tận làng Sim. Phiên chợ Sim đầu tháng vẫn còn tấp nập lâm sản, thịt thú rừng, thổ cẩm và dập dìu trai gái người Mường, người Thổ xuống chợ vùng ven. Trong dân gian vùng này vẫn còn in đậm các câu chuyện: Cọp dữ núi Nưa, ông Tu Nưa, Bà Triệu luyện binh ở Ngàn Nưa, Người tiều phu đốn củi ở đỉnh NưaKhóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Núi Nưa là tên Nôm mà dân gian thường gọi, tên chữ mà các sách xưa đề cập đến lại là núi Na. Trong sách “Dư địa chí”, khi viết về xứ Thanh, ở mục XXXI, Nguyễn Trãi viết: “ Na, Tùng và Lương ở về Thanh Hoa. Na, Tùng là tên hai núi. Lương là tên sông”. Còn trong sách Đại Nam Nhất thống chí, ở mục Núi sông của tỉnh Thanh Hóa đã chép: “Núi Nưa: Tức Na Sơn ở huyện Nông Cống; mạch núi từ phủ Thọ Xuân kéo đến, chạy dài vài ba mươi dặm, đến địa phận tổng Cổ Định thì nổi vọt lên nhiều ngọn, ngọn cao nhất là núi Nưa; bên ngoài thì bốn dòng nước giao lưu, đỉnh núi có động, tương truyền đời Hồ có người tiều phu ở ẩn học đạo, Hồ Hán Thương cho triệu người tiều phu ấy không chịu ra, Hán Thương bèn sai đốt núi” [11, 232- 233]

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, ở phần Dư địa chí, mục phủ Tĩnh Gia đã viết: “Phủ Tĩnh Gia ở phía tây Thanh Hóa. Huyện Nông Cống ở miền thượng du, đất liền huyện Đông Sơn, phía tây nam có nhiều ngọn núi chập chồng vòng quanh, một chi nhánh Na Sơn chót vót đứng thẳng, trong dãy núi này có nhiều ngọn núi kì lạ, động đẹp. Về cổ tích thì có đường đi tắt của ông lão kiếm củi. Thời Hồ Hán Thương, ở Na Sơn có ông lão kiếm củi ẩn cư trong động sâu. Sứ nhà Hồ mời ra giúp việc. Ông lão mời sứ vào, nhưng ông toàn nói chuyện chê trách việc làm của thời bấy giờ, chứ không chịu ra. Sứ giả về trả lời với Hán Thương, Hán Thương lại sai người đi lần thứ hai thì thấy rêu mọc lan khắp cửa động, đường vào khi trước đã bị che lấp mất rồi. Hán Thương giận, sai đốt núi thì chỉ thấy một con hạc đen vút lên trên không bay đi.Việc này chép rõ ở Truyền kỳ mạn lục [7, 48-49]. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Sách Thanh Hóa tỉnh chí, tập II, bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân viết: “Na Sơn tức núi Nưa ở Cổ Định Nông Cống. Lại còn gọi là núi Khu Than. Tục truyền núi ấy trước kia có nhiều quỷ. Sau có nhà sư đọc lời chú yểm quỷ thì quỉ yên cho nên gọi thế. Mạch núi từ huyện Thọ Xuân thời cổ mà đến. Sườn núi quanh co suốt mấy chục dặm, đến đây mọc lên ngọn núi đá, chỗ um tùm và cao nhất tức chỗ ngọn núi ấy. Phía ngoài có sông nhánh hợp lưu, giữa có động, thế núi trắc trở và sâu thẳm. Truyện ghi trong Truyền kì mạn lục có lời kiềm chú đất ấy rằng: Na Sơn long hổ các nhất phiến, nhất hô thiên hạ biến (Núi Nưa long hổ mỗi thứ đều có một, gọi một tiếng sẽ đi khắp thiên hạ). Vì núi ấy là chi bên hữu của đất trong tỉnh hạt. Dáng tốt đẹp thì không bằng núi Thuần Phù, nhưng có động cây xanh, có sông biếc bao quanh, thế núi có từ xa, khí núi thì hùng nên núi tự nổi tiếng ở vùng giao giới của hai đất Hoan Ái” [5, 3-4].

Nói chung, khi viết về núi Nưa (Na Sơn) các sách địa chí xưa chỉ tập trung mô tả về ngọn núi cao nhất ở vùng đất Cổ Định. Đó là đỉnh núi Nưa, hay còn gọi là đỉnh Am Tiên (398m). Xét về địa danh lịch sử, trước kia vùng đất này thuộc huyện Nông Cống, từ năm 1964 tới nay, do chia lại huyện thì làng Cổ Định thuộc về đất Triệu Sơn. Ban đầu, có tên là Kẻ Nưa hay còn gọi là Cổ Na ; thời Lê, đổi tên là Cổ Ninh, sau đó lại đổi tên thành Cổ Định [10, 3].

Theo sách “Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỉ XIX” thì làng Cổ Định thuộc tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia. Sách “Khánh địa dư chí” ( 1885 -1888) cho biết: Thôn Cổ Định đến gần cuối thế kỉ XIX đã đổi thành xã Cổ Định và thuộc tổng Cổ Định. Như vậy, làng xã Cổ Định tồn tại từ thời Lê đến hết thời Nguyễn. Từ năm 1954, làng – xã Cổ Định mới đổi thành xã Tân Ninh, huyện Nông Cống và từ năm 1964 tới nay thì Cổ Định – Tân Ninh mới thuộc huyện Triệu Sơn [10, 4].

Xét về mặt vị trí thì toàn bộ vùng đất Cổ Định đều nằm gọn dưới thung lũng chân núi Nưa. Hệ thống núi Nưa, gồm nhiều ngọn đồi tròn thoải, chập trùng như bát úp. Thung lũng này được khép lại ở mạn Đông Bắc bằng những dãy dài đất đỏ thấp và tròn như những quả trứng khổng lồ. Các nhà phong thủy xưa, gọi đây là núi “Cửu noãn sào”(núi chín quả trứng rồng) nói lên mong muốn của người xưa có con cháu đời đời sinh sôi nảy nở, tiếp nối truyền thống. Theo truyền thuyết thì đây là tuyệt phẩm của ông Nưa, vị thần khủng lồ tạo ra. Khi san đồi, chia núi, ông vừa quảy núi để lấy đất trồng cây, vừa đào sông dẫn thủy…từ đó tạo ra cảnh quan độc đáo, thơ mộng của vùng đất Cổ Định. Làng Cổ Định là ngôi làng cổ kính quê hương của nhiều truyền thuyết, và những câu chuyện thần tiên, cũng là nơi sản sinh ra nhiều danh nhân nổi tiếng. Con đường dẫn lên đỉnh núi Nưa, hai bên là hai hàng cây cổ thụ hơn trăm năm tuổi. Dưới chân núi là hai ngôi đền thiêng, đền Đức Thánh Lưỡng – nơi thờ chàng út Đại Vương và ngôi đền Nưa thờ Bà Triệu. Cũng nhờ địa hình, địa thế núi non rừng rậm, Kẻ Nưa còn là địa điểm thích hợp để rèn gươm luyện võ, lập căn cứ khởi nghĩa. Nơi đây còn lưu dấu nhiều địa danh gắn liền với cuộc kháng chiến chống ngoại xâm mà đầu tiên phải kể đến cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (248). Sau khi leo lên tới tỉnh cao nhất, từ trên ấy, nhìn ngắm bốn phía, bao quát cả một vùng đất rộng lớn xứ Thanh. Từ trên đấy nhìn xuống, ôm vòng dưới chân núi Nưa và len lỏi giữa các đồi bát úp, rồi đổ về phía Đông Nam là dòng Lãn giang (sông Lười). Bởi sông này nước chảy lững lờ, chậm chạp nên mới mang tên Lãn Giang. Lòng sông hẹp nhưng sâu thẳm, hai bên bờ dốc thẳng đứng. Vào buổi sáng đẹp trời, nhìn dòng Lãn giang như vừa thức dậy sau cơn ngủ dài, uể oải uốn mình, nhập vào sông Yên rồi vươn ra biển cả. Xa xa là điệp trùng lô xô, dãy núi đá Hoàng – Nghiêu, căn cứ chống Minh của Nguyễn Chích (Đầu thế kỉ XV). Phía tây là điệp điệp trùng trùng núi non Lang Chánh, Thường Xuân xanh ngút ngàn. Nhìn dưới chân núi là đồng bằng trù phú, nơi tụ cư đông đúc, những làng mạc, ruộng đồng tốt tươi. Tất cả tạo nên cảnh quan kì thú, hấp dẫn du khách xa gần hành hương về đây, được thả mình chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của non nước quê hương. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Không chỉ là nơi luyện chí mài gươm, mảnh đất thiêng của khu căn cứ khởi nghĩa Bà Triệu, núi Nưa còn là nơi non nước hữu tình, chốn ẩn cư thanh vắng của bao tao nhân mặc khách. Không chỉ có vậy, ngày từ thời thượng cổ, khi Cổ Định còn mang tên là Chạ Kẻ Nứa (thời Hùng Vương), đã lưu truyền truyền thuyết về một nhà tu hành đắc đạo thành tiên tại nơi cao nhất trên đỉnh núi Nưa. Bởi thế, người đời còn gọi đỉnh núi Nưa là đỉnh Am Tiên. Người đầu tiên lập am tu Tiên là một người có sức mạnh siêu phàm, có phép thuật vô biên, đến nay con dân Cổ Định vẫn trân trọng gọi ông là Tu Nưa [21]. Ông Tu Nưa không chỉ lo tu hành mà còn có lòng thương người dân khó nhọc nên thường xuống giúp dân nghèo khai phá rừng rậm, dọn dẹp đất đá, phá gò lấp ao để có đồng ruộng cho bà con trồng trọt. Khi đồng ruộng được san lấp bằng phẳng thì chỉ còn hai ngọn núi đá đứng giữa đồng. Ông Tu Nưa vào rừng lấy cây mây làm gióng, chặt một cây gỗ lim làm đòn gánh để quảy hai quả núi đi nơi khác. Ông dự tính đưa hai quả núi này đến dãy núi Hoàng Nghiên (nay thuộc huyện Nông Cống). Mới đi được hai phần đường thì trời đã trưa, đói và khát nên ông Tu Nưa để núi xuống nghỉ. Sau khi ăn hết một thúng xôi nếp, uống hết một nồi nước ông định gánh núi đi tiếp. Nhưng lạ thay, dù ông vận dụng hết sức lực vẫn không nâng nổi hai ngọn núi. Hóa ra, trong thời gian ông nghỉ ăn cơm, hai ngọn núi đã mọc rễ vững chắc xuống đất. Ông nghĩ: “Chắc là phẩm lộc trời ban đồng ruộng cho dân Chạ Kẻ Nứa đến đây mà thôi”. Để giúp dân làm ăn thuận lợi, ông bắt con voi một ngà trong Ngàn Nưa, dùng cây gỗ lim to làm cày, cày một đường dài từ Mau Đan Lồ ra tới sông Hoàng Giang để thoát nước khi có mưa lũ.

Cũng thời gian ấy, ở làng Vồm (nay thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa – vùng quê của di chỉ khảo cổ Núi Đọ) có một người đàn ông về tài nghệ, sức khoẻ chẳng thua gì ông Tu Nưa. Dân làng gọi ông là Tu Vồm. Nghe tiếng ông Tu Nưa do dân gian truyền tụng, ông Tu Vồm tìm đến Ngàn Nưa thách đấu. Hai con người khổng lồ, tài nghệ phi phàm đánh nhau hết ngày này qua ngày khác, họ nhổ cây rừng, bốc đất đá làm vũ khí. Trận chiến kinh thiên động địa, khiến thần khóc quỷ sầu, bão tố nổi lên ầm ầm. Cuối cùng, do sút kém tài nghệ ông Tu Vồm thua, chạy dài về lại quê hương. Từ đó ông chỉ chí thú làm ăn, giúp đỡ người nghèo khó. Nhớ công ơn ấy sau khi ông mất dân làng đã lập đền thờ và đến nay đền thờ này vẫn còn tại làng Vồm. Do hai ông Tu Nưa và Tu Vồm bốc đất đá đánh nhau nên bãi chiến trường xưa nay còn mang những cái tên do người đời sau đặt cho như: Cồn Lường, Cồn Đu, Cồn Sim, Cồn Bạc, Cồn Mồ, Cồn Chè… nằm trên các cánh đồng: Bãi Chon, Mùa Nàng, Phúc Định, Nổ Lở, Đồng Troòng…[21]. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Sau khi đánh thắng ông Tu Vồm, ông Tu Nưa lại trở về đỉnh Am Tiên tiếp tục tu luyện và thường xuyên giúp đỡ nhân dân Chạ Kẻ Nứa. Bên cạnh truyền thuyết trên, còn nhiều tích về đạo sĩ thời Trần – Hồ tu đạo ở núi Nưa được lưu truyền trong dân gian. Núi Nưa trước kia rất nhiều ma quỷ, sau có vị sơn tăng tới đọc thần chú, yểm núi, ma quỷ cũng dần dần biến mất. Bởi thế mà núi có tên chữ là núi Na, hay còn gọi là núi đuổi ma. Câu chuyện “Người tiều phu núi Na” (Núi Nưa) còn được ghi chép lại trong nhiều sách sử. Nguyễn Dữ – tác giả tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ra đời vào thế kỉ XVI đã ghi: “Đất Thanh Hóa phần nhiều là đất núi, bát ngát bao la tới mấy ngàn dặm. Trong đó có một ngọn núi cao chót vót, tên gọi núi Na. Núi có động, dài mà hẹp, hiểm trở mà lại quạnh hưu, bụi trần không bén tới. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông già, trẻ con dưới làng lại nói chuyện trồng dâu, trồng gai một cách vui vẻ. Ai hỏi họ tên, nhà cửa, tiều phu chỉ cười mà không trả lời. Mặt trời ngậm núi lại thủng thẳng về động. Người đương thời cho là người thuộc hạng Thần Môn, Tiếp Dư chứ Thái Hòa trở xuống đều không đủ kể…” [5,132]. Các sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn đến các sách Thanh Hóa tỉnh chí của Nhữ Bá Sĩ… cũng có ghi chép lại. Dù độ dài ngắn khác nhau cũng như mô tả chi tiết hay tóm lược, cũng đều có nội dung giống nhau. Đó là chuyện kể về vị tu sĩ thời Trần Hồ, ở ẩn tu tiên ở đỉnh Am Tiên (Ngàn Nưa). Ông là người có danh tiếng lưu truyền trong nhân gian, nên được nhà Hồ mời ra làm quan, tuy nhiên không ưng thuận mà toàn nói chuyện chê trách nên bị Hồ Hán Thương vì tức giận mà sai người đốt núi. Từ đó trở đi, khu vực này trở thành khu vực thiêng. Đến thời Lê Nguyễn, nhiều ngôi chùa, miếu được xây dựng để du khách tới hành hương, thưởng ngoạn, cầu trường sinh. Ngoài ra còn nhiều những tích liên quan, ở khu vực đỉnh cao của núi Nưa hầu như nơi nào cũng có dấu chân của các đạo sĩ tu tiên như: đỉnh Các Sơn, Tượng Sơn, núi Sẻ, Bể Cạn… Chính sự phát triển Đạo giáo mà nơi đỉnh Am Tiên trở thành thắng cảnh thơ mộng, huyền ảo bậc nhất xứ Thanh Hóa với Giếng Tiên, Động Đào, Ao Hóp – quanh năm đầy nước trong vắt, tinh khiết, có bàn cờ Tiên nơi người tiều phu vào núi kiếm củi gặp hai ông già đánh cờ, đứng lại xem xong ván cờ khi trở về nhà thì đã trải qua mấy đời người rồi. Lấy cảm hứng nội dung câu chuyện này về đạo tu tiên ở núi Nưa, Nguyễn Dữ đã sáng tác hai bài thơ: Bài ca thích ngủ và Bài ca thích cờ, nguyên văn chữ Hán được ghi trong Truyền kì mạn lục. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Phan Huy Ôn (Thế kỉ XVIII) đã say mê mà lưu lên vách đá Am Tiên những vần thơ đặc sắc nhân trong một chuyến dạo chơi vãn cảnh nơi đây:

Phiên âm:

Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn,

Sa nga Na lĩnh bức vân gian.

Thiên lưu dật thú nham khê cổ,

Địa quýnh tri trần thảo thụ nhân.

Đông kinh dĩ tùy Tiều ẩn diểu,

Sơn dung bất vị Hán Thương hàn.

Dịch thơ:

Trập trùng núi dựng trời tây

Na Sơn một dải xuyên mây chín tầng.

Thú riêng ai lách bụi trần,

Đồi cây, khe đá, dành phần riêng ai.

Lối Tiều cỏ lấp rêu phai,

Vẫn nguyên dáng núi cợt người Hán Thương…

(Hoàng Văn Đoài dịch) Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Ngoài ra nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thượng Hiền (1868 – 1925) cũng có mối duyên tình sâu sắc với dãy Ngàn Nưa. Ông còn dựng nhà trên núi, nghỉ ngơi xem văn bài. Ngôi nhà đó tên là Na Sơn biệt thử. Cón lẽ do quá yêu nơi này mà người con gái của ông được đặt tên là Nguyễn Thị Nưa. Cảnh sắc thanh vắng, như chốn bồng lai trở thành đề tài của nhiều bài thơ văn hay không chỉ với Nguyễn Thượng Hiền mà còn nhiều chí sĩ khác, mượn núi để bộc bạch tâm sự, nỗi lòng trước cảnh nước mất nhà tan.

Trong thời kì phong trào Cần Vương chống Pháp, các văn sĩ vùng Kẻ Nưa, không còn theo thú tiêu dao, học đạo tu tiên xa lánh sự đời như vị ẩn sĩ thời Trần-Hồ mà hăng say tham gia phong trào yêu nước chống Pháp. Đặc biệt có thể kể đến cuộc khởi nghĩa của Tống Duy Tân đã tập hợp được nhiều nghĩa sĩ đầu quân dưới ngọn cờ của mình. Từ vùng Ngàn Nưa – Cổ Định, nghĩa quân đã mở đợt tấn công đánh úp đồn Nông Cống, giáng một đòn mạnh vào chính quyền thực dân Pháp, gây được tiếng vang lớn trong cả xứ Thanh.

Tiếp nối những truyền thống đó, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đỉnh Am Tiên là nơi căn cứ chiến lược của bộ đội ta. Nhân dân vùng Kẻ Nưa đã nhiệt tình ủng hộ, nuôi giấu bộ đội. Trong suốt những năm kháng chiến, nhân dân vùng núi Nưa đã phát huy hết truyền thống anh hùng của Bà Triệu, lập được nhiều chiến công, góp phần vào công cuộc giải phóng dân tộc. Ngày nay, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vùng Kẻ Nưa – Cổ Định, Tân Ninh đã trở thành xã giàu đẹp, văn hóa bậc nhất trong huyện. Khu vực đỉnh Am Tiên đã, đang được quy hoạch xây dựng thành di tích du lịch tâm linh cấp quốc gia. Đất Cổ Định – Tân Ninh tự xa xưa đã mang trong mình bao huyền thoại, những câu chuyện cổ tích, truyền thống hào hùng, đẹp đẽ và nhân văn, trở thành tụ điểm hành hương du lịch về lịch sử, văn hóa hấp dẫn trong tỉnh. Với giá trị đó, ngày 27/3/2009, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký quyết định công nhận Di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh núi Nưa – địa điểm khởi nghĩa Bà Triệu gồm núi Nưa, đền Nưa và Am Tiên là di tích, thắng cảnh cấp quốc gia. Khu di tích danh thắng này nằm ở phía đông của dãy núi Nưa; phía tây là cụm di tích Phủ Na hay còn gọi là Na Sơn Động Phủ, cũng là một trong những nơi thờ cúng tiêu biểu của đạo Mẫu và tín ngưỡng thờ sơn thần với các đối tượng thờ như thờ cô Chín, thờ Chúa thượng ngàn, đức thánh Tản Viên. Phủ Na ra đời vào năm 1909, được xây dựng theo kiến trúc thời Nguyễn và đã được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử văn hóa và thắng cảnh ngày 28/01/1993. Như vậy, trên dãy Ngàn Nưa, tồn tại hai khu di tích riêng biệt với những giá trị văn hóa, lịch sử độc đáo, hứa hẹn là điểm du lịch hấp dẫn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Du Lịch

2.1.2. Các công trình hạng mục chính trong khu di tích Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

2.1.2.1. Khu di tích phủ Na và tín ngưỡng thờ Mẫu

Thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có lịch sử lâu đời, biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Tín ngưỡng thờ Mẫu hướng đến cuộc sống thực tại của con người với ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi tầng lớp trong xã hội. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng, tục thờ Mẫu có nguồn gốc từ thời Tiền sử khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này kết hợp trong khái niệm Thánh Mẫu hay còn gọi là nữ thần Mẹ. Theo thời gian khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm các nữ anh hùng trong dân gian – những người phụ nữ nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ và cuối cùng được thần thánh hóa để trở thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.

Tín ngưỡng thờ Mẫu là sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần gắn với các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống của con người (như: trời, đất, sông nước, rừng núi) hoặc thờ những thái hậu, hoàng hậu, công chúa là những người khi sống tài giỏi, có công với dân, với nước, khi mất hiển linh phù trợ cho người an, vật thịnh. Các vị nữ thần này được tôn vinh với các chức vị: Thánh Mẫu (như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thượng Ngàn Thánh Mẫu…), Quốc Mẫu (như Quốc Mẫu Âu Cơ…), Vương Mẫu (như người mẹ của Thánh Gióng được tôn vinh là Vương Mẫu…).

Trải qua lịch sử, tín ngưỡng thờ Mẫu ở nước ta đã phát triển hình thành tín ngưỡng Tam phủ (Thiên phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ), Tứ phủ (ba phủ trên có thêm Địa phủ). Đến thế kỷ XVI, trên cơ sở tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ phủ, với sự ra đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một tôn giáo bản địa sơ khai được hình thành đó là Đạo Mẫu. So với tín ngưỡng thờ nữ thần, đạo Mẫu có một thần điện phong phú với các phủ, các hàng (hàng chầu, hàng Quan, hàng Ông hoàng, hàng Cô, hàng Cậu…) tương đối rõ rệt. Điện thần của Đạo Mẫu có hàng chục vị thần linh nhưng đều quy tụ dưới sự điều khiển củ Tam Tòa Thánh Mẫu, trong đó có một vị thần Mẫu cao nhất, mang tư cách như một vị giáo chủ, đó là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, được xem như là một hóa thân của Mẫu Thượng Thiên [18]. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Trong điện thần của tín ngưỡng thờ mẫu, Tam Toà Thánh Mẫu được thờ chung một hàng ngang với thứ bậc vị trí rõ ràng: Mẫu Thượng Thiên choàng khăn màu xanh, bên phải là Mẫu Thoải choàng khăn màu trắng. Khi Thánh mẫu Liễu Hạnh xuất hiện, bà được đề cao, mang tư cách là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên.

Ở Phủ Giầy (Nam Định) tương truyền là quê hương của Mẫu Liễu từ lâu đã trở thành trung tâm thờ Mẫu của người Việt. Những nghi lễ của Đạo mẫu đã bước đầu được chuẩn hóa, trong đó nghi lễ hầu đồng là một điển hình [18].

Nhận xét về hầu đồng nói riêng và tín ngưỡng thờ Mẫu nói chung, tiến sĩ Laurenl Kendall, Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Hoa Kỳ, người trực tiếp tư vấn cho Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam thực hiện trưng bày “Tín ngưỡng thờ Mẫu: Tâm-Đẹp-Vui” cho biết, hầu đồng là một nghệ thuật mang tính trình diễn trên sân khấu với kịch tính và kỹ thuật đẹp [18]. Tâm là giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu. Mẫu dạy con người sống hướng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và biết ơn những người có công với dân, với nước. Còn Đẹp và Vui trong tín ngưỡng thờ Mẫu được thể hiện qua chính lễ hầu đồng. Sự tương tác giữa hầu đồng, cung văn và người dự trong không gian buổi lễ khiến con người thăng hoa, quên đi phiền muộn trong cuộc sống hằng ngày.

Với vị trí là một tín ngưỡng nội sinh của dân tộc, ngay từ rất sớm, đạo Mẫu cũng đã có mặt tại khu di tích Phủ Na thuộc dãy ngàn Nưa. Phủ Na nằm ở địa phận tổng Xuân Du, theo Reberquin tác giả sách “Le Thanh Hoa” thì tổng Xuân Du do một thổ ti họ Quách thành lập vào năm 1858. Cư dân ở đây hầu hết là người Mường từ tỉnh Hòa Bình di cư vào, họ mang theo trong tâm thức một hệ thống tín ngưỡng dân gian Mường. Đây được xem là một hành trang trên đường chinh phục tự nhiên, tìm nơi cư trú, tìm cách làm ăn sinh sống và trở thành tín ngưỡng bản địa. Trước khi người Mường đến đây, vùng này là đất trống, chưa có dấu vết gì về thờ cúng thần linh. Theo kết luận tại Hội thảo khoa học về Di tích danh thắng Phủ Na tháng 9/2003, Phủ Na ra đời vào năm 1909 (dấu tích còn ghi lại tại thượng lương của đền Mẫu Nghi Thiên Hạ). Phủ Na được kiến trúc theo tín ngưỡng dân gian thờ Đạo Mẫu. Trong quần thể di tích phủ Na gồm có 7 công trình chính là: Đền Tĩnh, Đền Đức Ông, Đền Quan Hoàng, Đền Mẫu, Đền Cô Chín và hai khu thờ Chúa thượng Ngàn và đức Thánh Tản Viên. Tuy nhiên, từ khi tín ngưỡng của đạo Mẫu – Liễu Hạnh du nhập về thì tại đây đã có tín ngưỡng thờ Tản Viên, mẹ Âu Cơ và Chúa Cửa Rừng (chúa Thượng Ngàn), tín ngưỡng nguyên thủy của người Mường Hòa Bình. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Với môi trường sinh thái của vùng đất này, cùng bối cảnh lịch sử, xã hội và xu hướng tâm linh của nhân dân thuở ấy, người xưa chọn tín ngưỡng thờ Mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Na là hợp lý. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Phủ Na có những biểu hiện khác biệt rất đáng lưu ý. Nhìn vào cung cách thờ tự, cùng sự phân bố các đền thờ theo ngôi thứ trong khuôn viên Phủ Na, từ eo En trên lưng chừng núi Nưa xuôi hướng đông theo dòng suối, nơi có vị trí cao nhất đặt bệ xây bằng gạch lộ thiên là đền thờ Tản Viên Sơn Thánh (thần núi), ngang sang phải cũng đặt một bệ xây gạch lộ thiên là đền thờ Thượng Ngàn công chúa; bên kia suối về phía phải đặt một bệ rộng hơn xây bằng gạch lộ thiên là đền thờ Cô Chín, đệ tử thân cận của Liễu Hạnh công chúa; xuôi theo suối về phía trái, một ngôi đền xây bốn cung tường gạch mái ngói, từ ngoài cho đến nội thất đều trang trí nhiều hoa văn màu sắc rực rỡ, có bệ thờ lớn, chính giữa nơi cao nhất đặt ngai Mẫu Liễu, bệ bên cạnh đặt ngai thờ bà Âu Cơ, trên đại tự có bốn chữ Hán “Mẫu nghi thiên hạ”; bên kia suối về phía phải thấp hơn một chút, đặt bệ xây bằng gạch lộ thiên là đền thờ 12 Quan Hoàng, ngang sang trái bên kia suối, một ngôi đền cũng tường gạch mái ngói, trang trí đẹp, bệ thờ trang nghiêm là đền thờ Đức Ông, tức Trần Hưng Đạo và Ngọc Hoàng Thượng đế. Cuối cùng đặt một bệ xây gạch lộ thiên là đền thờ cô Ba Đón, tức đền Trình. Tất cả những nơi thờ được gọi là đền ở đây đều được xây dựng vào cuối thế kỷ XX [17]. Cách phân bố vị trí thờ và kiến trúc đều phản ánh quan niệm tín ngưỡng của cư dân bản địa, yếu tố tín ngưỡng dân gian Mường đọng lại trong tín ngưỡng Mẫu Phủ Na rất đậm đặc, nếu đối chiếu với đền phủ gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu như Phủ Giày, đền Sòng, phố Cát, thấy bộc lộ nhiều nét khác biệt. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Một là Tản Viên Sơn Thánh hay thần Núi, vốn được gọi là “Đại vương núi Tản Viên” là một trong 50 người con theo cha xuống biển, Vương từ hải quốc qua cửa biển Thần Phù trở về, tìm nơi đất thanh y, dân tục đôn hậu, chất phác mà ở. Thánh Tản Viên mà ta biết được là qua hai truyền thuyết “Truyện núi Tản Viên”, sách “Lĩnh Nam chính quái” của Vũ Quỳnh, Kiều Phú, “Truyện Sơn Tinh – Thủy tinh” trong sách “Thế pháp thi tập”, nhưng còn một truyền thuyết nữa có tên là “Vua Ba Vì” cũng có nơi gọi là “Truyện Thánh Tản Viên” hoặc “Vua Cả”, lưu hành bằng truyền miệng trong dân tộc Mường thì còn ít người biết đến. Tuy tình tiết và nhân vật ở truyện này có khác, nhưng về nội dung cơ bản không khác hai truyện trên. Thánh Cả Ba Vì đượm nhuần ân nghĩa trong tâm thức tín ngưỡng Mường. Tuy người Mường không xây dựng đền miếu nguy nga, to lớn, nhưng Thánh Cả Ba Vì luôn hiện diện trong phần lớn các nghi lễ của người Mường. Thánh Cả Ba Vì không phải thánh trong hệ thống thánh của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng ở Phủ Na lại được đặt bệ thờ ở vị trí cao nhất. bên trên cả đền vị thánh chính là Mẫu Liễu Hạnh và đặc biệt vẫn được thờ lộ thiên theo kiểu thờ của người Mường [17].

Hai là Mẫu Thượng Ngàn theo sách Thần tích đời Lý – Trần thì: Thượng Ngàn công chúa húy La Bình; con gái Tản Viên Sơn Thánh, cháu ngoại vua Hùng Duệ Vương. La Bình là cô gái tuyệt sắc có nhiều tài nghệ, thường theo cha đi khắp các núi non hang động, đến đâu nàng cũng quyến luyến phong cảnh, làm bạn với hươu, nai, cây cỏ, sơn thần các núi non đều quý trọng, mến phục. Thượng đế phong hiệu là Thượng Ngàn công chúa cai quản các cửa rừng cõi Nam Giao. Trở thành bà chúa ngàn xanh, nữ thần Thượng Ngàn chăm chỉ dạy các loài muông thú, chim chóc cách sinh sống, bay nhảy, leo trèo, hót ca, thưởng giống vật có công, phạt ác thú gây hại cho sinh vật. Thần đã hai lần hiển linh âm phù tướng sĩ nhà Lý đánh thắng bắc Tống, tướng sĩ nhà Trần đánh thắng Nguyên – Mông. Đến khởi nghĩa Lam Sơn, nữ thần đã hóa phép ra một đàn đom đóm tỏa luồng ánh sáng dẫn đường cho Lê Lợi và Nguyễn Trãi chạy trong đêm tối thoát khỏi nanh vuốt giặc Minh. Đêm sau thần báo mộng cho Nguyễn Trãi kế sách phải giữ gìn lấy núi Chí Linh, Nguyễn Trãi căn cứ vào trong mộng tâu với Lê Lợi. Quả nhiên, quân Minh tiến đánh ba bốn lần, nghĩa quân đều rút về núi Chí Linh mà bảo toàn được lực lượng. Sau khi chiến thắng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua Lê Thái tổ, tôn phong thần nữ Thượng Ngàn là “Lê Mại Đại Vương” và hạ chiếu xây đền thờ ở những nơi thần hiển linh, tiêu biểu là đền Thượng Sơn ở xã Cẩm Bình, Cẩm Thủy, Thanh Hóa, đền Trà Tu do hai làng Trà Tu và Yên Thế (thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) và đền Hàn Sơn gần thác Hàn sông Lèn thuộc huyện Hà Trung, Thanh Hóa. Các đền đều có tán văn trong sắc phong hoặc câu đối ca ngợi bà. Mẫu Thượng Ngàn là một vị thánh trong hệ thống thánh của tín ngưỡng thờ Mẫu, nhưng là người có tên họ và nguồn gốc rõ ràng. Ở các đền, phủ lớn như phủ Giầy, đền Sòng đều đặt bệ thờ Mẫu Thượng Ngàn bên phía phải Mẫu Liễu Hạnh, nhưng ở đây lại thờ trên bệ lộ thiên, bên cạnh đền Tản Viên và bên trên đền Mẫu Liễu Hạnh [17].

Ba là, đền 12 vị Quan Hoàng, các vị này đều nằm trong hệ thống thần của tín ngưỡng thờ Mẫu, tất cả các đền đều thờ 12 vị Quan Hoàng này trong đền Mẫu Liễu. Riêng ở Phủ Na thờ trên một bệ xây lộ thiên, cách đền Mẫu Liễu bởi một dòng suối. Hiện tượng thờ 12 vị Quan Hoàng ở Phủ Na khiến người ta liên tưởng đến nghi lễ “Khôống nhá” trong tín ngưỡng dân gian Mường. Các vị thần này phần nhiều được thờ ở ngoài trời, riêng vị thứ 12 thì nhà nào cũng có bàn thờ rất đơn giản, gác trên xà dọc nhà, nhà nào cũng phải hành lễ vào dịp cuối năm, nghi lễ này có vai trò quan trọng nhằm giải tỏa tâm linh cho mọi người trong gia đình. Sự gặp gỡ con số 12 vị Quan Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, với 12 vị thần bảo trợ Mường, cùng nội dung chức phận của họ, cũng như cách thờ tự và kiến trúc đền phủ. Phải chăng đền thờ và nghi lễ 12 vị Quan Hoàng ở Phủ Na là ảnh xạ của nghi lễ “Khôống nhá” trong tín ngưỡng dân gian Mường? [17]. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Bốn là, ngôi đền bốn cung nguy nga lộng lẫy thờ Mẫu Liễu Hạnh, ở đây không thờ Ngọc Hoàng thượng đế, Mẫu Thượng Ngàn và các Quan Hoàng như ở Phủ Giày, đền Sòng, phố Cát mà lại thờ bà Âu Cơ [17].

Năm là, đền Đức Ông, tức là thờ Đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng dân tộc. Nơi nào có phủ thờ Mẫu thì đều có đền thờ Đức ông bên cạnh. Vì thế mới có lệ “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, nhưng đền thờ Đức Ông ở Phủ Na còn thờ cả Ngọc Hoàng thượng đế.

Sáu là, rước kiệu Mẫu Liễu Hạnh trong ngày hội tháng 3, một hình thức không thể thiếu. Hội thánh Mẫu ở Phủ Na cũng rước kiệu Mẫu nhưng có hai điều khác biệt đó là nơi đầu tiên rước kiệu đến phải là đền thờ Tản Viên Sơn Thánh, làm lễ xong mới rước đến các đền khác theo thứ tự đền Thượng Ngàn, đền Cô Chín, đền các Quan Hoàng, đền Đức Ông rồi đến đền Cô Ba Đón, sau mới rước từ đền Cô Ba Đón lên thẳng đền Mẫu Liễu Hạnh để làm lễ. Chỉ riêng sự quy định rước kiệu thôi, cũng thấy tín ngưỡng bản địa quan trọng như thế nào trong đời sống tâm linh của cư dân vùng Phủ Na này. Nhưng đặc biệt là 16 người con gái khiêng kiệu bát cống và 8 cô khiêng kiệu võng đều phải mặc bộ nữ phục Mường và theo sau là một dàn cồng chiêng đủ bộ gồm 12 chiếc từ nhỏ đến lớn cũng do 12 cô gái mặc nữ phục Mường và một trống dàm do một người đàn ông vừa bước đi khoan thai vừa cử nhạc [17].

Từ những biểu hiện khác biệt trên, ta dễ dàng nhận ra, yếu tố tín ngưỡng dân gian Mường đọng lại trong tín ngưỡng Mẫu Phủ Na rất đậm đặc, làm cho hội Phủ Na thêm phong phú về mầu sắc và đa dạng về nội dung. Nhưng quan trọng hơn, là tín ngưỡng thờ Mẫu ở Phủ Na phản ánh trung thực một quá trình giao thoa, tiếp biến giữa tín ngưỡng dân gian Mường và tín ngưỡng thờ Mẫu, bất kỳ ở đâu, ở phương diện nào cũng thấy hiện lên sự đan xen lẫn nhau, đan xen trong phân bố vị trí thờ tự, đan xen trong kiến trúc đền phủ, đan xen trong nội dung nghi lễ, trong nghệ thuật trang trí, trang phục và cả trong âm nhạc. Sự đan xen này không hề có biểu hiện mâu thuẫn nhau, mà ta có cảm giác họ cùng chung vai sát cánh, tạo ra sự hài hòa để cả hai loại tín ngưỡng cùng song song tồn tại và phát triển. Kế thừa là quy luật vận động của văn hóa, sự hiện diện của tín ngưỡng Phủ Na hôm nay là kết quả của quy luật vận động ấy. Nói vậy là nhìn từ điểm chính, điểm cốt lõi, tất nhiên, tín ngưỡng Phủ Na không tránh khỏi có những biểu hiện khó chấp nhận hoặc phải loại trừ còn rơi rớt lại, nhưng không phải là điểm cơ bản.

Hằng năm cứ vào mùa xuân bắt đầu từ ngày mùng 1 đến ngày 16 tháng 2 âm lịch và mùng 1 đến 16 tháng tám âm lịch, hàng vạn người dân và du khách thập phương lại trở về vừa để thắp hương tưởng nhớ những người có công và cầu cho một năm mới nhiều may mắn, mùa màng tốt tươi, nhân khang vật thịnh, gia đình khoẻ mạnh. Hiện nay ở Phủ Na còn tổ chức “Hội cầu lộc cầu tài”, diễn ra vào thời điểm kết thúc năm cũ, bước vào năm mới. Hội kéo dài suốt cả tháng giêng, tham gia hội gồm các vị cao niên, quan chức, nhà doanh nghiệp, trí thức, sinh viên, thanh niên, người buôn bán nhỏ ở các đô thị. Ngày xuân họ hành hương lên rừng (tức là đến Phủ Na), xuống biển (tức là về đền Độc Cước ở bãi biển Sầm Sơn), thắp nén hương cầu các đấng thần linh một năm mới hanh thông, may mắn, thành đạt. Vãn cảnh đền phủ, thăm thú núi rừng, sông biển, nhằm lập lại sự cân bằng trong tâm thức qua bao ngày bươn chải trên thương trường, trong quản lý đất nước, trong nghiên cứu khoa học, đây cũng là một nhu cầu văn hóa chính đáng. Rất có thể, từ đây sẽ hình thành một tập tục mới phủ lên tín ngưỡng Phủ Na một tầng văn hóa khác nữa, để tín ngưỡng Phủ Na càng phong phú, xích gần lại với cuộc sống đương đại.

2.1.2.2. Hệ thống di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu

a). Núi Nưa và cuộc khởi nghĩa của nữ tướng Triệu Thị Trinh Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Thắng cảnh ngàn Nưa, từ xa xưa đã lưu truyền nhiều địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (248). Bà Triệu tên thật là Triệu Thị Trinh, người huyện Quân An, quận Cửu Chân (tức huyện Yên Định, Thanh Hóa ngày nay). Cha mẹ mất sớm, Bà ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở huyện Quân An thời bấy giờ. Bà Triệu là người có sức khỏe, có chí lớn và giàu mưu trí. Căm thù chính sách đồng hóa, áp bức bóc lột tàn bạo của bọn thống trị nhà Ngô, Bà đã quyết một lòng cứu nước, cứu dân khỏi ách nô lệ lầm than khổ cực. Năm 20 tuổi, Bà Triệu cùng anh tập hợp nghĩa sĩ, luyện tập võ nghệ, chuẩn bị khởi nghĩa. Có kẻ khuyên bà nên lấy chồng chứ không nên “làm loạn”, Bà khảng khái đáp: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp cho người” [12, 346].

Trước sự bóc lột tàn bạo của bọn quan lại nhà Ngô, Bà Triệu đã cùng Triệu Quốc Đạt khởi binh đánh quận Cửu Chân. Trong một trận giao chiến với giặc, Triệu Quốc Đạt bị tử trận, quân sĩ đã tôn Bà lên làm chủ soái lãnh đạo nghĩa quân. Sau một thời gian chuẩn bị, Bà Triệu cùng nghĩa quân đã vượt sông Chu đến rừng núi Nưa để lập căn cứ, tập hợp lực lượng, chuẩn bị lương thảo, nhằm mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng. Dưới ngọn cờ cứu nước của Bà Triệu, nhân dân khắp huyện Cửu Chân một lòng ủng hộ, nô nức tham gia nghĩa quân. Nghĩa quân dưới sự chỉ huy của Bà Triệu đã đủ mạnh để tấn công thành Tư Phố – trụ sở đầu não của chính quyền đô hộ ở Cửu Chân. Lúc này cũng là thời kỳ mà phong trào đấu tranh của nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân đã diễn ra hết sức sôi nổi. Tiêu biểu nhất là cuộc nổi dậy của anh em họ Lý ở Bồ Điền (Triệu Lộc – Hậu Lộc). Đó là thời cơ thuận lợi để Bà Triệu có thể giải phóng hoàn toàn Châu Giao. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Đầu năm 248, từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tấn công thành Tư Phố và đã mau chóng giành thắng lợi trọn vẹn. Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng căn cứ địa. Về mặt quân sự, địa hình tự nhiên vùng Bồ Điền có đủ yếu tố để xây dựng một căn cứ thuận lợi cho cả việc tấn công và phòng thủ. Từ đây có thể ngược sông Lèn, sông Âu ra sông Mã rút lên mạn Quân An, hoặc tới căn cứ núi Nưa lúc cần; lại có thể chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù để khống chế địch ở mặt này. Dựa vào địa hình hiểm yếu ở Bồ Điền, Bà Triệu đã cùng anh em họ Lý chỉ huy nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn lũy vững chắc. Thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn, khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ nhân dân một lòng hưởng ứng công cuộc cứu nước của Bà Triệu. Các thành ấp của giặc Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị hạ. Bọn quan lại nhà Ngô từ Thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng kế tiếp nhau kẻ bị giết, kẻ chạy trốn. Từ Cửu Chân, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng lan ra Giao Chỉ và vào tận Cửu Đức, Nhật Nam. Thứ sử Châu Giao bị giết, bọn quan lại đô hộ ở Châu Giao hết sức hoảng sợ trước thanh thế và sức mạnh của nghĩa quân Bà Triệu. Sử nhà Ngô thú nhận: Năm 248 “toàn thể Châu Giao đều chấn động”. Trước tình hình đó, Nhà Ngô lo sợ, phải phái viên danh tướng Lục Dận (cháu họ viên tướng Lục Tốn) làm thứ sử Châu Giao, đem thêm tám nghìn quân sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa. Lục Dận một mặt ra sức trấn áp nhân dân, mặt khác dùng thủ đoạn xảo quyệt đem của cải, tiền bạc lung lạc một số thủ lĩnh địa phương nhằm ổn định Giao Chỉ, tập trung lực lượng tấn công Cửu Chân. Ổn định được Giao Chỉ, Lục Dận đã đem toàn bộ lực lượng tấn công Cửu Chân theo hai đường thủy: một mũi từ Tạc Khẩu qua hành lang Hoàng Cương – Chính Đại – Bạch Ác ngược sông Lèn vây bức phía bắc, mũi theo đường biển vòng qua sông Sung và Vích (cửa Lạch Trường) đánh vào phía Nam. Nắm được mưu đồ của giặc, Bà Triệu cùng bộ chỉ huy nghĩa quân đã chủ động tung một lực lượng quan trọng xuôi sông Lèn rồi theo sông Đào tiến ra chặn đánh địch ở mạn Yên Mô – Ninh Bình. Suốt hai tháng ròng bị giặc Ngô vây hãm, nhưng căn cứ địa Bồ Điền vẫn đứng vững. Tại đây, nghĩa quân đã chiến đấu hơn ba mươi trận lớn nhỏ và đều thu được thắng lợi. Quân giặc đã phải gọi Bà Triệu là Nhụy Kiều tướng quân (vị nữ tướng yêu kiều) và Lệ Hải Bà Vương (Vua Bà ở vùng biển mỹ lệ), mỗi khi gặp Bà giặc Ngô đã phải khiếp sợ thốt lên: “Hoành qua đường hổ dị Đối diện Bà Vương nan!(Múa ngang ngọn dáo chống hùm dễ, Đối mặt Vua Bà thực khó ghê!) Sau một thời gian vây hãm không thành, lại bị tiêu hao một lực lượng quan trọng và có nguy cơ thất bại, Lục Dận đã phải điều thêm binh, cử thêm tướng quyết tiêu diệt căn cứ nghĩa quân. Trong một trận chiến đấu ác liệt tại căn cứ Bồ Điền, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh ở núi Tùng, đó là ngày 22 tháng 2 năm Mậu Thìn – 248. Tưởng nhớ ân đức lớn lao của Bà Triệu, nhân dân đã lập đền thờ Bà ở núi Gai, xây lăng mộ Bà trên núi Tùng. Hiện nay, theo điều tra ở Thanh Hóa có 5 địa phương lập đền thờ bà gồm: một đền thờ ở Nông Cống, hai đền thờ ở Triệu Sơn, một đền thờ ở Yên Định và một đền thờ ở Hậu Lộc. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Các đền thờ Bà Triệu ở Thanh Hóa đều lấy ngày mất của Bà (ngày 21 tháng Hai, Âm lịch) để mở hội hằng năm. Dù đã trải qua 18 thế kỉ, song nhân dân cả nước, nhân dân xứ Thanh vẫn tự hào về Bà và cuộc khởi nghĩa “ chấn động Giao Châu” ấy. Ở vùng Kẻ Nưa – Cổ Định, nhân dân vẫn còn lưu truyền bài ca:

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành con voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng

Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu cánh phượng cho chồng ra quân.

Hiện nay, ở xung quanh vùng núi Nưa – Cổ Định (xã Tân Ninh, Triệu Sơn) vẫn còn lưu truyền nhiều địa điểm, địa danh và truyền thuyết liên quan tới cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Có thể kể tên một vài địa danh như:

Hang Cắc cớ: Tương truyền nơi Bà Triệu cất giấu kho vàng cướp được của giặc Ngô.

Trang Thu: Tương truyền là nơi tiếp nhận nghĩa quân các nơi kéo về.

Trang Đồng Bể: Tương truyền là ấp trại riêng của Bà Triệu. Vì vậy mà quân Ngô gọi Bà là Lệ Hải Bà Vương (Bà vương xứ Đồng Bể). Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Làng Các (gồm Các Xôi, Các Sắn) tương truyền là khu vực hậu cần bếp núc của nghĩa quân.

Làng Vẹo: Tương truyền là nơi Bà Triệu chia khẩu phần ăn cho nghĩa quân.

Làng Chén: Tương truyền là nơi ăn uống tập trung

Ruộng Bà Chúa: Tương truyền nơi Bà Triệu cho vỡ đất hoang.

Eo Sở: Tương truyền là nơi nghĩa quân khai thác cây Sở để ép dầu làm dầu thắp.

Đồng Chàn Mướp: Nơi trồng mướp cho nghĩa quân.

Bùng Cổ Ngựa: Nơi cho ngựa của Bà Triệu uống nước và tắm.

Đồng Kỵ: Nơi nuôi ngựa chiến của nghĩa quân.

Bùng Voi Đằm: Nơi tắm cho voi của Bà Triệu.

Bùng Tù: Nơi voi một ngà bị Bà Triệu đuổi xuống bị sa lầy và được Bà chinh phục, huấn luyện thành voi chiến.

Cò Đồng Thóc: Nơi để kho thóc của nghĩa quân.

Cò Đồng Cấu: Nơi để kho gạo của nghĩa quân.

Lũy Chiến: Lũy tre gai chắn ngay trước khu căn cứ Ngàn Nưa.

Xóm ải: Nơi cửa ải vào khu nghĩa quân.

Cửa Khâu: Cửa lên núi.

Khe Ông Vạn: Tương truyền là trạm tiền tiêu do tướng quân Trương Công Vạn (Người Hậu Lộc) chốt giữ.

Bái áng: Nơi thao diễn luyện tập của nghĩa quân.

Bằng Yên Ngựa: Nơi Bà Triệu dừng ngựa để quan sát xung quanh.

Am Tiên: Nơi Bà Triệu đóng đại bản doanh.

Ao Hóp: Nơi Bà Triệu cho đào đắp để giữ nước cho nghĩa quân sinh hoạt.

Chùa Bích Vân: cung tự ở khu vực Động Am Tiên do Bà Triệu cho dựng để nghĩa quân khấn Phật.

Đồng Chợ Bụa: Nơi Bà Triệu cho mở chợ để nhân dân quanh vùng đến trao đổi, mua bán hàng hóa.

Đồng Cắm Cờ: Nơi cắm cờ cho nghĩa quân.

Bờ Đồn: Nơi tiền đồn của nghĩa quân.

Khe Đá Bàn: Nơi Bà Triệu và tướng lĩnh họp bàn việc đánh giặc Ngô

U Chiêng: Nơi thu quân.

Mau Bưu: Nơi giết nhiều quân Ngô

Giếng Cô Tiên: Nơi Bà Triệu tắm

Cầu Thiều: Nơi ăn mừng chiến thắng… [9, 28 – 30] Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Nhìn chung, ở vùng đất Kẻ Nưa – Cổ Định – Tân Ninh, nhìn tên làng, tên núi, tên sông, tên xứ đồng, gò, bái, chỗ nào cũng có truyền thuyết gắn liền với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Nhân dân ở đây vẫn còn truyền nhau câu “Ngô thời phá tán, cá Na tam thập dư nhân, cơ hồ tận hẫy, tồn thập bất dinh” (thời giặc Ngô phá tan, Kẻ Nưa có hơn ba ngàn người, cơ hồ mất gọn chỉ còn 18 xuất đinh). Điều này chứng tỏ, cuộc khởi nghĩa Bà Triệu thực sự gây chú ý, lôi cuốn được nhiều người tham gia ủng hộ, đặc biệt là người dân kẻ Nưa đã nhiệt tình hưởng ứng. Tuy nhiên những địa danh, truyền thuyết nêu trên, chúng ta không thể xem là tư liệu, hay sự kiện lịch sử, nhưng về mặt ý nghĩa xã hội thì tất cả những địa danh truyền thuyết đó đều có giá trị phản ánh được tinh thần và dấu ấn của thời kì lịch sử đã từng diễn ra trên đất này. Những địa danh đó, cho đến nay vẫn luôn trường tồn trong tâm tưởng người dân vùng Kẻ Nưa này như một niềm tự hào mãnh liệt ăn sâu vào trong tâm thức. Bởi vậy, đây đã trở thành vùng đất thiêng, nơi thu hút khách hành hương tới thăm viếng tưởng nhớ người nữ anh hùng dân tộc.

b). Đền Nưa

Dưới chân núi Nưa là “Na Sơn Tự”, tục gọi là Đền Nưa. Đền Nưa tọa lạc chân núi ngay cửa rừng Nưa – một vị trí cao, rộng và thóang đãng, phía trước có một hệ thống ao hồ tự nhiên, tạo nên cảnh sơn thủy hữu tình và thơ mộng.

Lịch sử của đền Nưa, nhân vật thờ cùng những câu chuyện cổ tích là điểm hấp dẫn mà muôn đời sau vẫn mong muốn hành hương về chốn này. Từ xưa lắm, đã có cộng đồng thị tộc nguyên thủy đầu tiên mang tên Chạ Kẻ Nứa ở đây. Là vùng đất sông suối, khí hậu thuận hoà nên đời sống vật chất, tinh thần phong phú. Theo các đời truyền lại: Người đầu tiên được thờ ở Đền là Tiên – Thiên thánh mẫu Na Sơn Thượng ngàn. Thánh Mẫu vô vàn phép lạ, màu nhiệm đã che chở cho dân làng. Tiếp theo Đền thờ Mẫu Tam Giang (con gái thứ 3 của vua Hùng) trong một lần vi hành vào ngàn Nưa đã giúp Thánh mẫu Thượng ngàn tiêu diệt con thuồng luồng khổng lồ ở sông Mực, giữ yên bình đời sống cho dân làng. Cho đến năm 248 ứng vào vận mệnh một người con gái nổi tiếng xứ Thanh Triệu Trinh Nương, cuộc khởi nghĩa của Bà xuất phát từ căn cứ Ngàn Nưa, đã làm quân Ngô bạt vía, xiêu hồn; sau khi bà qua đời, để tỏ lòng kính trọng đối với nữ anh hùng dân tộc kiệt xuất, nhân dân đã thờ Bà ở đền Nưa cho đến ngày nay. Ngoài ra đền còn thờ Mẫu Thoải – người hầu cận tâm phúc của Thánh mẫu Thượng ngàn; thờ bà Nguyễn Thị Liễu – tùy tướng cận vệ của Bà Triệu. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Với nhiều nhân vật huyền tích như vậy, nên Đền Nưa được người dân trong vùng tôn kính hương khói quanh năm: người cầu xin vào rừng may mắn, người làm ruộng cầu xin được mùa, người buôn bán, người đi xa ai ai cũng nhờ thần thánh phù hộ. Dân Cổ Định và vùng lân cận ở đâu cũng hướng về. Đặc biệt, vào cuối đời vua Tự Đức, Đền đã được hưng công xây dựng lại. Chuyện kể rằng Cao Bá Đạt là tri huyện Nông Cống xin thánh Mẫu (Bà Triệu) phù hộ đã bắt được một cặp hươu sao hiến vua, ông muốn trả ơn được Bà phù hộ, nên đã trình tấu sự việc về đền chúa ngàn Nưa, được triều đình cho phép trích 1.200 quan tiền công quỹ cùng dân làng dựng lại Đền gạch ngói và sau này lại xây cổng tam quan. Đây là một công trình văn hóa nguy nga tráng lệ, chạm khắc tinh vi. Vị nữ thần nơi này được phong tặng là Thượng đẳng thần với duệ hiệu là: “Đệ nhất thiên tiên thánh mẫu, sơn trang thượng ngàn bạch y công chúa, Lệ Hải Đại Vương Ngọc bệ hạ”.

Tuy nhiên trong thời kì Cần Vương, vì muốn trả thù Tống Duy Tân cùng nghĩa quân đã đánh chiếm đồn Nông Cống và những nơi khác nên thực dân Pháp đã cho triệt phá, đốt cháy cả làng Cổ Định, Đền Nưa cũng bị phá hủy, thiêu rụi. Sau cuộc tàn phá này, người dân đã thu lượm và xếp tạm một bệ đá để ngoài trời thờ cúng. Tuy đền thờ rất đơn sơ, chỉ với bát hương nhang song lại rất linh thiêng.

Trong những năm chiến tranh, vùng Cổ Định là trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ. Các công trình trong Đền Nưa cũng như hòn đá đề bia đều bị phá hủy gần như hoàn toàn. Chỉ duy nhất cổng Nghinh Môn, được xây dựng từ thời Tự Đức là còn khá nguyên vẹn với bốn tầng mái bề thế. Theo lời kể lại của các vị cao niên trong làng, năm 1926, vua Bảo Đại đã đến đây vãn cảnh, và vời các nghệ nhân ở Huế đến tu bổ lại toàn bộ phần mái và đầu đao nên kiến trúc của cổng này giống cổng Nghinh Môn của các lăng tẩm ở Huế: “Cổng cao 14m, rộng 13,5m, vì bị lấp đất theo mặt đường hiện tại nên chiều cao chỉ còn 12,50m. Hai cửa phụ rộng 1,7m, cao 4,2m, còn cửa chính cao 4,8m và rộng 3,2 m. Ở mặt trước và mặt sau Nghinh Môn đều được trang trí bằng những bức tranh sơn thủy theo kiểu đắp nổi, tô màu các cảnh núi, sông, đất nước, hình linh vật như rồng, phượng và hoa lá, cúc dây, hình chữ triện. Mặt trước phía dưới Nghinh Môn có hai tượng hổ chầu ở hai bên. Trên hai cửa phụ là hai bức phù điêu tả cảnh trí nhà trên núi để nói về sự tích Am Tiên trên đỉnh núi Nưa (gọi là tranh vị tiều phu trên núi). Các cửa Nghinh Môn đều được xây theo kiểu cuốn vòm. Trên tầng hai có gác treo chuông. Tầng ba, tầng bốn đều bị bịt kín để đắp tranh phù điêu” [9,57]. Hiện nay cổng nghinh môn còn lưu giữ đôi câu đối được người dân quý trọng,giữ gìn: “Na Sơn từ lĩnh trấn Na Sơn, Thần duy đức kì thịnh – Cổ Định xã nguyên tòng Cổ Định, Dân trực đạo vi hành”. Có thể nói Nghinh Môn ở Đền Nưa là một loại hình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn điển hình còn lại khá nguyên vẹn. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Theo lời mô tả của các già làng cũng như căn cứ vào dấu vết mặt bằng cũ thì quy mô đền vào thời Nguyễn khá bề thế. Trước kia, đền Nưa có khuôn viên rộng hơn 3 mẫu, gồm 3 khu với 27 gian thờ. Trải nhiều biến cố, đến nay Đền Nưa chỉ còn một hậu cung và nhà tiền đường vừa được tôn tạo. Cấu trúc đền gồm 5 gian tiền đường, 3 gian hậu cung hợp thành theo kiểu chữ Đinh. Năm 1993, sau khi đền Nưa, Am Tiên được quyết định công nhận bảo vệ, tôn tạo thì chính quyền và nhân dân xã Tân Ninh đã góp công sức khôi phục lại di tích này. Xã sưu tầm được ngôi nhà cổ có niên đại từ năm Minh Mạng thứ 19 (khắc ở thượng lương, là năm 1838) để dựng lên trên nền móng nhà tiền đường cũ gồm năm gian, bít đốc; cấu trúc vì kèo làm theo kiểu kèo suốt trụ trốn. Mỗi vì kèo có 4 hàng chân cột, tất cả có 4 cột cái, 8 cột quân, 4 cột hiên. Hoa văn ở các đầu quá giang và các kẻ bẩy là các lá cúc cách điệu. Nối liền với nhà tiền đường là hậu cung dài 5,4m; rộng 4,2m [9,58].

Tuy nhiên, do sự thất lạc cũng như bị phá hủy trong chiến tranh và thời gian, ngôi đền đã không còn giữ được những vật thờ cúng bên trong. Nhờ sự vận động ủng hộ mà một số hiện vật được nhân dân tự nguyện mang trả, một số khác phải trang bị mới. Hiện nay, các hiện vật trong đền Nưa cũng khá đầy đủ, trong đó quan trọng có pho tượng Bà Triệu cổ còn sót lại được sau đợt Mỹ thả bom đánh phá vùng Cổ Định. Cũng bởi vậy, người dân cho rằng đây là linh vật rất thiêng. Pho tượng được nặn đắp bằng hỗn hợp bột đất, giấy bản, mật mía, sau khi để khô thì phết quét mầu để hoàn thành. Trong phủ cũng còn lưu giữ ba pho tượng quý thuộc Tam tòa thánh mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải). Ngoài ra, các loại hạc đồng, lư hương đồng, chân nến đồng, chuông đồng nhỏ và các loại bát hương to, nhỏ, các loại mâm bồng, ống hương, lộng gỗ… được trang bị đầy đủ phục vụ việc thờ cúng, cũng như tạo sự uy nghi, trang nghiêm cho đền Nưa. Cùng với đền Nưa, lễ hội đền Nưa cũng được tổ chức hằng năm tạo nên màu sắc tín ngưỡng dân gian đặc sắc cho vùng đất này.

Lễ hội đền Nưa là một tập truyền tín ngưỡng dân gian, kết hợp với việc “uống nước nhớ nguồn” nhớ công ơn của Bà Triệu và viên tướng Trần Khắc Chân – người có công đánh đuổi quân Chiêm Thành xâm lấn bờ cõi đời vua Trần Nghệ Tông. Lễ hội Đền Nưa bắt đầu từ 15 đến 20 tháng giêng âm lịch, thu hút thiện nam tín nữ từ mọi vùng về đây thắp hương, niệm Phật cầu Thánh. Trong lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ, nhân dân các làng dâng mâm sơn trang để tế lễ và tưởng nhớ công đức của các vị tướng, thần đã có công khai phá và gìn giữ vùng đất. Một làng tiêu biểu được chọn để dâng lễ vật chính, cỗ rước bằng kiệu bát cống (8 người khiêng), trong kiệu có các loại hoa quả và bánh dầy – một đặc sản của địa phương được làm bằng gạo nếp cái hoa vàng. Kiệu được tổ chức rước tại hai địa điểm, đền Trần Khát Chân và đền Nưa. Đi đầu đoàn rước kiệu là một người ăn mặc trang phục võ quan, nhanh nhẹn, mắt sáng, tướng võ quan, tay cầm kiếm lệnh dẹp đường, chỉ huy đội quân rước kiệu. Phía sau là một số nam thanh, nữ tú, cùng các cô thôn nữ đội mâm sơn trang và các lễ vật tế thần; sau là một đội quân ăn mặc chỉnh tề, tay cầm vũ khí, ô lọng và có một đội khiêng kiệu. Kiệu rước từ đền Trần Khát Chân được gọi là kiệu Ông; kiệu rước từ đền Nưa gọi là kiệu Bà. Người khiêng kiệu phải là trai, gái thanh tân. Kiệu Ông, kiệu Bà đều được rước về trung tâm sân vận động của địa phương để làm lễ tế thiên địa, thần linh và cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Phần hội trước đây có các trò chơi như cờ người, đua thuyền, hát ví, chọi gà… Ngày nay, phần hội còn tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao như bóng đá, cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, chọi gà… Nếu ai đến vào đúng dịp chính hội sẽ được xem các cô đồng lên giá: bà Chúa thượng ngàn, cô Cả thoải cung, ông Hoàng, cô Chín, cô Ba, quan Hổ…, trong không gian ấy, cùng với mùi huệ trắng, hương trầm tạo thành một không gian linh thiêng huyền ảo. Lễ hội hằng năm được khai mạc rất trọng thể và trang nghiêm tại đền thờ Trần Khát Chân và kết thúc tại đền Nưa. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Ngoài lễ cầu ở Đền Nưa, du khách còn có thể đến dâng hương ở Am tiên tự, ở Đền Thánh mẫu và ở Huyệt đạo thiêng nước Nam. Lễ hội ở Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa có thể kéo dài đến hết tháng 3 Âm lịch, tuy nhiên du khách vẫn đến đây lễ bái và vãn cảnh quanh năm.

c). Chùa Am Tiên – Đền Bà Triệu – Huyệt đạo thiêng nước Nam

Nói đến Am Tiên – Ngàn Nưa có rất nhiều chuyện kể và giai thoại, nhưng dân vùng Cổ Định ai cũng biết đỉnh Am Tiên là nơi rất thiêng và thường lưu truyền một câu chuyện cổ. Chuyện kể rằng: Ngày xưa tiều phu ở Cổ Định vẫn ngày ngày đi đốn gỗ về bán làm cột nhà, Ngàn Nưa trở thành nơi cung cấp gỗ làm nhà cho cả một vùng đồng bằng. Một hôm, người trưởng tràng đầu nhóm nói ông phải đi tìm chọn một cây gỗ Lim về làm cột đình làng. Ông leo lên đỉnh núi cao nhất của Ngàn Nưa… nhưng đến chiều tối dân làng vẫn không thấy ông trở về. Dân làng đốt đuốc đi tìm, nhưng vẫn không thấy chút dấu vết nào. Một ngày, rồi hai ngày…, cả tháng không thấy ông về, dân làng nghĩ rằng ông đã bị thú dữ ăn thịt. Gia đình đành lấy ngày ông đi lên núi làm ngày giỗ… Nhưng một ngày kia, người tiều phu bất chợt trở về làng. Dân làng thấy một tiều phu vạm vỡ, nhưng chẳng ai biết tên ông. Ông về chính ngôi nhà của mình, không thấy vợ con đâu mà chỉ thấy toàn người lạ. Ông hỏi người trong nhà về người thân, xưng tên, thì mọi người đều tròn mắt, nhớ ra người có cái tên ấy là một người trong dòng họ đã chết từ lâu và vẫn được người trong gia đình nhang khói thờ cúng. Sau một hồi trò chuyện, người tiều phu và người nhà đều nhận ra nhau, chỉ có điều ai cũng ngạc nhiên rằng những người cháu gọi ông là ông nội nay cũng đã râu tóc bạc phơ, còn ông, vẫn ở cái tuổi trung niên. Ông kể rằng khi lên núi đi tìm gỗ Lim về làm cột Cái đình làng, tìm mãi chưa thấy, vừa mệt, vừa thất vọng thì ông nhìn thấy ở trên mỏm đá bằng ở trên đỉnh núi có hai ông lão đang ngồi đánh cờ. Cờ ông cũng biết và ham mê, nên ông đứng chống rìu xem hai ông lão toạ đấu. Cả chủ và khách mải mê trong trận cờ, mặt trời xuống núi lúc nào không hay, mà ván cờ vẫn chưa phân thắng bại. Ông định ra về, nhưng trời tối mau, thú dữ nhiều nên hai ông lão khuyên ông ở lại. Hai ông lão không ăn cơm, mà chia cho ông ăn hoa quả và uống nước trong hồ lô. Ông nhớ, cuộc đấu diễn ra đúng 3 ngày 3 đêm mới phân thắng bại. Xong trận cờ là ông xuống núi về ngay, chỉ có điều ông thắc mắc là sao lúc ông xuống núi nhanh thế, loáng cái đã không thấy hai ông lão đâu, chỉ thấy hai con Hạc bay lên, ông cũng chưa kịp hỏi tên, quê ở làng nào… Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Câu chuyện của ông được lưu truyền, mỗi người giải thích mỗi cách. Người ta bảo người tiều phu đã gặp các tiên ông, được ăn đào tiên, uống nước giếng tiên, nên ông trẻ mãi; rằng 3 ngày trên “cõi tiên” thì đã là một trăm năm ở hạ giới… Các hương lão trong làng Cổ Định, sau khi nghe chuyện của ông tin rằng ông đã gặp Tiên nên đã chung sức xây chùa, lập miếu thờ cúng phật, thánh thần, và tiên tổ, từ đó nơi đây có tên gọi là Am Tiên tự [20].

Và động Am Tiên chính là nơi mà vị ẩn sĩ thời Trần Hồ đã cư trú. Đây cũng là nơi nằm ở vùng cao nhất ngọn núi, bởi vậy đỉnh núi Nưa còn được dân gian gọi là đỉnh Am Tiên. Vào thời điểm cuối thời Trần (thế kỉ XIV), đạo tu tiên (Đạo giáo) đã du nhập đến và từ đó lan rộng khắp quanh vùng núi Nưa. Cho đến nay, những câu truyện truyền thuyết về ông Tu Nưa vẫn còn được lan truyền một cách phổ biến ở vùng Kẻ Nưa – Cổ Định. Điều đó chứng tỏ, đạo tu tiên trên đỉnh Am Tiên là một loại hình tín ngưỡng đã từng phát triển và tồn tại khá dài ở vùng ðất này. Ðỉnh núi Nưa là một khu đất khá bằng phẳng, có diện tích hàng mẫu, giống nhý một bình nguyên. Nơi đây cỏ cây tươi tốt quanh năm. Từ trên đỉnh cao nhìn xuống, bên triền tây là núi rừng hùng vĩ, bên phía đông là làng xóm ruộng đồng trù phú. Đây là khu thắng cảnh hết sức độc đáo, đầy nét quyến rũ như một chốn bồng lai, tiên cảnh. Trên khu vực này, ngoài Am ra còn có hệ thống Chùa, Miếu và các địa danh liên quan được sách vở ghi chép như giếng Tiên, Ao Tiên, Bàn cờ tiên…, tất cả tạo nên một không gian linh thiêng trầm mặc. Chính sự hòa hợp của Đạo giáo, Phật giáo, Đạo Mẫu trên đỉnh Am Tiên tạo nên một nét đặc trưng điển hình. Trước năm 1945, ở chỗ Am – Đền – Miếu thờ trên đỉnh núi Nưa, người ta còn thấy hiện tượng Đạo tu tiên của Đạo giáo bị biến tướng thành Đạo phù thủy với sự xuất hiện của các “Phụ đồng Tiên Nưa” là những người hành nghề đạo cốt, vừa đọc thần chú vừa làm phép và cho chữ mang nội dung thần bí để báo hiệu về số mệnh con người…

Hiện nay khu vực thiêng Am Tiên bao gồm Chùa – Miếu – Đền, huyệt đạo thiêng đã trở thành nơi linh thiêng để cho người dân tới cầu an, khang, phúc lộc, thọ.

Trước hết là ngôi chùa cổ được xây dựng trên núi, cũng không xác định rõ niên đại, thời gian đích xác, là chùa Bích Vân mà dân gian vẫn gọi là Chùa Am Tiên. Tương truyền, khi lập căn cứ trên đỉnh núi Nưa, Bà Triệu cho xây dựng Bích Vân cung tự nhằm bố cáo với muôn dân: cuộc khởi nghĩa này có sự trợ giúp của trời đất. Khi đàn áp được khởi nghĩa của Bà Triệu, bọn xâm lược đã tàn sát dân Cổ Na và tất nhiên cả những gì có liên quan đến Bà Triệu đều bị phá hết. Không ai biết đích xác ngôi chùa được xây dựng lại bao giờ nhưng vào cuối thời nhà Nguyễn, chùa Am Tiên vẫn còn đó. Một ngôi chùa 3 gian khiêm tốn, xây bằng đá, lợp tranh cỏ, nằm giữa một khung cảnh thực thực, hư hư, nép mình dưới những cây đa cổ thụ. Ông từ coi chùa cuối cùng trước Cách mạng tháng Tám – 1945 là cụ Hương Nhã, người họ Trần, (thân sinh ra ông Trần Huy Nhượng, người bí thư chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của xã Tân Ninh). Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Sau Cách mạng tháng Tám – 1945, cụ Hương Nhã qua đời, chùa lại bị bỏ hoang, dột nát. Khoảng năm 1950, có ông Hoàng Văn Chí (Tú Chí) đã đem gia đình về ở trên Am Tiên. Ông nuôi bò sữa, mở xưởng nhỏ nấu cồn, trồng cây. Đến năm 1955, ông về quê ở Thiệu Hóa, từ đó chùa Am Tiên lại bị bỏ hoang.

Đầu những năm 80-90 của thế kỷ 20 bà con phật tử trong xã đã khôi phục, xây lại chùa mới, trồng cây xung quanh chùa. Ngoài Chùa Am Tiên, trên đỉnh núi Nưa còn có ngôi đền Bà Triệu mới được xây dựng. Đền chỉ có một gian thờ Bà Triệu, nhỏ nhắn giản đơn, công trình tuy không hoành tráng, song thanh tịnh và linh thiêng. Hằng năm, cứ mỗi dịp tết đến xuân về, khách hành hương lại về đây thắp nén nhang tưởng nhớ Bà và cầu xin sự may mắn, phát đạt.

Ở khu vực Am Tiên, nhân dân đã thu lượm được nhiều hiện vật bằng đá, gạch thời Lê và thời Nguyễn (trong đó có cả khánh đá, chân tảng đá, chân đế cắm tàn lộng và nhiều viên gạch vồ to hình chữ nhật…). Đó chính là di vật chứng minh, khu vực Am Tiên xưa đã có những kiến trúc cổ để thờ thần, phật.

Không chỉ vậy, gần Am Tiên còn có huyệt đạo linh khí quốc gia. Huyệt ở vị trí cao 538m so với mực nước biển và cũng chính là đỉnh cao nhất của ngọn núi Nưa. Khu vực huyệt thiêng là cả khoảng đất rộng hơn 100 mét vuông được rào chắn kỹ lưỡng, bốn mùa mây la đà bao phủ. Ngày trời quang mây tạnh, từ đây có thể trông thấy làng mạc trù phú, những cánh buồm thong dong ngoài biển đông, đưa tay lên tưởng như chạm vào bồng bềnh mây. Ngay lối vào là phiến đá trắng có khắc dòng chữ “Cầu cho quốc thái dân an”. Theo sử sách để lại, đây chính là 1 trong những huyệt đạo quan trọng nhất của nước Nam, mà tướng Cao Biền không thể trấn yểm nổi. Theo ông Lê Bật Thắng, một trong những người trông coi Am Tiên giới thiệu thì đất nước ta có 3 huyệt đạo thiêng: một là ở núi Đá Chông (Ba Vì, Hà Nội), hai là ở núi Bà Đen (Tây Ninh) và ba chính là đỉnh Am Tiên. Đây được xem là nơi năng lượng vũ trụ của trời và đất giao hòa. Ngay tại nơi này ta có thể cảm nhận được sự chuyển động của vũ trụ. Khi đứng vào giữa huyệt đạo, thả lỏng cơ thể, mắt nhắm lại, tập trung mọi suy nghĩ lên đôi mắt, sẽ có những trải nghiệm và cảm nhận được một hiện tượng kỳ lạ. Khoảng 2, 3 phút sau, từ màu tối, dần dần sẽ cảm nhận mắt chuyển thành màu đỏ, rồi chuyển sang màu da cam, cuối cùng là màu trắng xanh và đợi một chút sẽ thấy trong màu trắng xanh có lẫn các hạt bụi. Đó chính là các hạt bụi đang chuyển động trong vũ trụ này. Trong một khoảnh khắc đó, cảm giác như đang được bay bổng giữa trời đất bao la, hòa cùng với những chuyển động của vũ trụ, thư thái và nhẹ nhõm đến kì lạ [23]. Tuy Am Tiên hiện vẫn còn trong trạng thái tự nhiên, thậm chí chưa có một con đường tốt đảm bảo cho khách du lịch lên đỉnh núi, nhưng hàng năm vẫn thu hút hàng vạn người nô nức về đây hành lễ. Hơn ba tháng mùa xuân và đầu tiết mùa hè, Am Tiên vẫn mịt mờ trong hơi sương cho đến quá giờ ngọ, nhiệt độ dao động khoảng từ 200– 280, mùa hè nhiệt độ cao nhất trên Am Tiên cũng chỉ đạt đến 320. Mọi người đều cảm nhận được sự kỳ diệu, sự sung mãn, thư thái và minh triết hơn khi ngồi trên huyệt đạo tĩnh tâm và điều vận khí công. Có lý thuyết cho rằng núi Nưa nằm trên một vùng mỏ crom, trữ lượng lớn của mỏ kim loại đã tạo ra một từ trường và liên thông với trục chính là cột đá nối lên đỉnh núi. Điều này cắt nghĩa về những sự kỳ ảo, màu nhiệm khi luyện công trên huyệt đạo Am Tiên. Tất cả những điều này cùng tạo nên sự linh thiêng của khu vực Am Tiên, nơi được nhắc đến như là trung tâm của sự tu tiên, đắc đạo. Đây cũng chính là đại bản doanh, sở chỉ huy, căn cứ đầu não, nơi đóng quân của nghĩa quân Bà Triệu mà sử sách thường nhắc đến. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

  • d) Giếng Tiên – Động Đào

Theo người dân kể lại, di tích lịch sử Am Tiên gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu chống quân Ngô vào năm 248. Xung quanh vùng núi Nưa vẫn còn lưu truyền nhiều địa danh gắn liền với căn cứ kháng chiến của Bà Triệu như: Gò đống thóc (nơi để kho lúa của nghĩa quân), Đồng Kỵ (nơi nuôi ngựa chiến của nghĩa quân). Đỉnh Am Tiên còn có mạch nước ngầm trong vắt tự nhiên. Truyền thuyết kể rằng các tiên nữ xưa kia thường xuống đây hái đào và tắm nước giếng, vì thế mới gọi là giếng Tiên.

Không ai biết, không ai xác định được giếng này có từ khi nào. Dân gian vẫn tương truyền từ khi vũ trụ sinh ra giếng đã có rồi. Sự chuyển động của vũ trụ đã tạo ra vết nứt trên đá và dần dần vết nứt rộng ra tạo thành giếng. “Giếng sâu khoảng 3m, miệng rộng 2,5m phần lộ thiên của giếng được xếp bởi 3 lượt đá, mỗi lượt đá cao 20cm. Mỗi lượt đá chạy quanh miệng giếng bằng 16 viên đá hình khối, mùa khô nước chỉ sâu khoảng 1m. Nước giếng từ trong núi chảy ra cùng với hơi nước từ mây trời ngưng tụ và thẩm thấu qua rừng cây, vách đá, cung cấp nước cho giếng, vì thế mà nước giếng luôn được duy trì và tinh khiết, người ta gọi nguồn nước chảy vào giếng là Long mạch”[14]. Lòng giếng rất cạn, từ trên nhìn xuống đã thấy ngay, nhưng lạ kỳ thay nước giếng không bao giờ vơi dù cho hạn hán kéo dài và không bao giờ đầy dẫu trời mưa to. Tương truyền, đây là giếng chỉ dành riêng cho Bà Triệu lấy nước rửa mặt mỗi khi xuất trận. Hằng ngày khách lên đây tham quan đều mang can lấy nước về thờ cúng Tổ tiên hoặc dùng rửa mặt với quan niệm rửa sạch tội lỗi, trừ bệnh tật thì thấy thoải mái, thanh tịnh tâm hồn. Các sư thầy vùng lân cận thường tới đây xin về làm nước cam lồ dùng trong các dịp lễ tế.

Cùng với giếng Tiên, tương truyền khi xưa trên vùng đất này bạt ngàn đào, người dân còn gọi đó là Động đào. Tới giờ nơi đây vẫn còn hơn 1.000 gốc. Cứ đến dịp tết đến xuân về, đặc biệt vào đúng dịp lễ hội, hoa đào lại đua nhau khoe sắc, tạo nên khung cảnh tuyệt vời như chốn bồng lai tiên cảnh. Đào mọc ở hai bên lối đi dẫn lên động Am Tiên. Con đường được phủ kín một màu hồng đào của những cành đào phai nở rộ sau Tết, những cánh đào hồng tươi rớt xuống tựa như tấm thảm nhung đẹp đến say lòng người.

Ngoài ra, còn nhiều di tích danh thắng khác như Bàn cờ Tiên (Bàn cờ bằng đá, tương truyền là nơi hai tiên ông ngồi đánh cờ), Vườn Thuốc Tiên mà sử sách và truyền thuyết đã nhắc đến như một chốn tu tiên đắc đạo. Tất cả danh thắng trên đã tạo nên cảnh trí nên thơ, quyến rũ cho khu di tích. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

2.1.3. Giá trị của Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa

Có thể nói Khu di tích thắng cảnh núi Nưa (gồm núi Nưa, đền Nưa, và khu di tích Am Tiên) xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa là quần thể di tích có giá trị trên nhiều phương diện.

Về mặt lịch sử: Quần thể khu di tích bao gồm Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên với tổng diện tích 100 ha, riêng khu vực đền Am Tiên rộng 4 ha. Am Tiên – núi Nưa gắn liền với cuộc khởi nghĩa năm 248 của Bà Triệu chống giặc Ngô xâm lược, do đó khu vực Am Tiên còn có tên gọi khác là Kinh Triệu Quận (tức là Kinh đô của Bà Triệu). Xung quanh vùng núi Nưa vẫn còn lưu truyền nhiều địa điểm, địa danh gắn liền với căn cứ kháng chiến của Bà như: gò đống thóc (nơi để kho lúa của nghĩa quân), đồng kỵ (nơi nuôi ngựa chiến của nghĩa quân)…

Đỉnh núi Nưa – nơi có động Am Tiên là một khu đất rộng và khá bằng phẳng. Tuy ở độ cao 585m nhưng ở đây vẫn có mạch nước ngầm chảy ra trong vắt và không bao giờ cạn, đã tạo thành một giếng nước tự nhiên rất đặc biệt, được dân gian gọi tên là giếng Tiên, tương truyền là giếng dành riêng để Bà Triệu lấy nước rửa mặt mỗi khi xung trận. Phía dưới vài trăm mét có một hố nước rộng gọi là Ao Hóp, xung quanh là những bụi lau trắng, tương truyền là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho nghĩa quân Bà Triệu. Mặc dù diện mạo vùng đất này không còn dáng vẻ, hình hài giống Ngàn Nưa cách đây hơn 1700 năm nhưng với sự tồn tại của núi Nưa cùng với những địa danh làng xóm, ruộng đồng gò bãi, khe suối, rừng cây và các địa điểm liên quan khác vẫn giúp chúng ta hình dung một cách sống động về những ngày Bà Triệu “cưỡi voi đánh cồng”, và cùng nghĩa quân luyện chí mài gươm để rồi từ đây tràn xuống tấn công thành Tư phố, Nhật Nam làm “toàn Châu Giao chấn động”. Có thể nói, đây là nơi lưu giữ cũng như phản ánh tinh thần và dấu ấn của thời kì lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm kiên cường. Những truyền thuyết xung quanh cuộc đời cũng như cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu vẫn còn mãi lưu truyền, làm cho biết bao lớp người hậu thế đất này thêm tự hào và yêu mến mãi mãi. Tất cả những điều đó tạo nên những giá trị to lớn về mặt lịch sử của người dân Triệu Sơn, Thanh Hóa nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Hiện nay, khách hành hương xa gần trong tỉnh, trong nước đổ về vùng đất đậm chất mầu lịch sử và huyền thoại này ngày một đông, đã góp phần phát huy giá trị lịch sử, truyền thống của dân tộc. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Về mặt giá trị văn hóa: Như đã nhắc đến về câu chuyện vị đạo sĩ thời Trần – Hồ đã từng ở ẩn nơi này tu tiên, nơi đây còn lưu lại những công trình kiến trúc và những địa danh liên quan tới truyền thuyết ấy, tiêu biểu như: Đền Tu Nưa, Động Am Tiên, Bàn cờ tiên, Vườn đào tiên. Ở nơi nên thơ và quyến rũ này còn có ngôi chùa cổ gọi là chùa Am Tiên, đền chúa Thượng Ngàn (Bà Triệu hóa thân theo cách nghĩ của dân gian). Ngoài ra ở đây còn có cả một khu vực thờ lộ thiên để thờ cúng thần núi Tản Viên Sơn Thánh. Địa danh Am Tiên trên đỉnh núi Nưa chính là một địa điểm mà đạo Lão đã xuất hiện, và sau đó đến đạo Phật và đạo Mẫu. Khu vực này là nơi tổng hòa các loại tôn giáo tín ngưỡng, tạo nên quần thể Đền – Chùa – Miếu linh thiêng và màu sắc văn hóa độc đáo. Theo dấu tích của nền móng cũ, trong gần 20 năm qua, nhân dân địa phương đã tự nguyện đóng góp tiền của, công sức dựng lại chùa Am Tiên, đền Bà Chúa, đền Tu Nưa để thờ phụng. Ở khu vực Am Tiên, nhân dân còn thu gom được nhiều hiện vật có giá trị minh chứng về sự tồn tại lâu đời của các loại hình kiến trúc, tín ngưỡng tôn giáo Phật – Đạo – Mẫu trên đỉnh núi cao nhất Ngàn Nưa này. Và cũng chính vì vậy mà khu vực Am Tiên trên đỉnh núi Nưa không chỉ là nơi luyện chí mài gươm của nghĩa quân Bà Triệu mà còn là vùng huyệt đạo linh thiêng. Theo tín ngưỡng dân gian huyệt đạo trên đỉnh núi này là huyệt khí thiêng. Ngày chín tháng Giêng hàng năm là ngày mở cửa trời. Người dân hành hương về đây cầu cho quốc thái dân an, nhà nhà hạnh phúc, người người khỏe mạnh, tài năng tiến tới, công thành danh toại. Để tri ân tiền nhân, du khách tới đây đều không quên vào dãy điện thờ Bà Chúa Thượng Ngàn, vua Bà, đền thờ ông Tu Nưa thắp nén hương tỏ lòng thành kính. Đây là một điển hình về sự đan xen của các loại hình tôn giáo tín ngưỡng tại một khu vực cảnh trí đẹp đẽ nên thơ như vậy. Bản thân núi Nưa đã là một quần thể thắng cảnh nổi tiếng mà vốn dĩ từ xưa đã từng là nơi thăm viếng, hẹn hò của nhiều danh sĩ và tao nhân mặc khách. Vì vậy, mà nơi đây còn lưu giữ nhiều bài thơ văn ca ngợi núi Nưa trong các thế kỉ trước. Giờ đây, ngàn Nưa với Am Tiên vẫn là nguồn cảm hứng sáng tác cho nhiều nhà văn nhà thơ thời hiện đại. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Hiện nay, cứ mỗi độ xuân đến, hè về, vùng đất này lại sôi động hẳn lên bởi những dòng người hành hương ở nơi khác đến để vãn cảnh, thắp nén hương nhang cầu xin an lành. Vùng đất Kẻ Nưa còn là quê hương của kho tàng văn học dân gian phong phú với nhiều truyền thuyết về ông Nưa, vị thần khổng lồ tạo nên sông nên suối, về Bà Triệu và các loại hình múa hát dân gian độc đáo…Nơi đây còn có cả di chỉ văn hóa thời Đông Sơn muộn mà nhân dân đã phát hiện ra trống đồng, rìu đồng và thanh kiếm hình người phụ nữ lớn nhất Việt Nam. Thanh kiếm dài 50cm, phần cán dài 18,2cm được tạo thành hình một pho tượng phụ nữ có trang phục theo lối tả thực của người Việt cổ. Đầu tượng đội vương miện cao kiểu thông thiên quan bao quanh, búi tóc ngược lên kèm dải hoa văn trang trí hình bông lúa. Khuôn mặt trái xoan, hai mắt mở to toát lên vẻ thông minh, tự tin, đôn hậu được biểu hiện bằng 2 vòng tròn đồng tâm có điểm đồng tử ở chính tâm. Sống mũi nổi, miệng thon, nhỏ, xinh, duyên dáng. Đặc biệt tai to, đeo vòng lớn. Quan niệm vẻ đẹp tai to biểu tượng cho sự quyền quý như Đức Phật và các Bồ Tát tôn kính. Dái tai có đeo khuyên (các kiểu khuyên tai này khảo cổ đã tìm được trong nhiều làng cổ thuộc văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu (cách đây 3000 – 4000 năm), có những khuyên tai bằng đá ngọc nặng tới 500g. Trang phục của phụ nữ núi Nưa mặc áo chẽn mở để lộ phần trang trí của áo trong có trang trí hoa văn, phần cổ tỏa ra hai bên vạt áo và chạy theo mép tà áo. Chiếc thắt lưng lớn trang trí những đường chấm tròn hoặc hình kỉ hà chữ V đuổi nhau càng tạo cho eo bụng nhân vật nhỏ hơn. Trang phục xiêm và đệm xiêm váy được trang trí bằng những hình học. Các vòng tròn được nhắc đi nhắc lại theo nguyên tắc của vải hoa. Mép gấu xiêm có viền to trang trí cả phía trước và phía sau, bao lấy hông, tỏa dài xuống tới phần viền trên của mép gấu xiêm, được trang trí bằng những dải chấm tròn, dưới cùng nở ra và có các đường trang trí sổ dọc. Những lối dùng trang phục của tượng người trên cán các dao găm, đoản kiếm có tới vài chục tượng. Có nhiều trang phục điển hình. Tượng thể hiện theo phong cách Núi Nưa (Thanh Hóa) với kiểu tóc hất bồng cao có thắt eo ở giữa. Mặt hình trám bầu, cằm nhọn. Mắt kiểu vành tròn đồng tâm có lông mày chấm rải, mũi vuốt nhô. Trên phần cổ và ngực có những vòng chuỗi nhiều tầng. Phía sau lưng gáy là một hốc lõm hình thang có hai vòng bán khuyên, vừa như thể hiện búi tóc, vừa dùng làm chỗ có thể đeo nhạc chuông [27].

Như vậy, vùng đất này từng là cái nôi chứa đựng những giá trị văn hóa lâu đời cần được giữ gìn, bảo tồn và phát huy, để có thể trở thành một điểm du lịch phát triển tương xứng với tầm giá trị. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Về mặt giá trị tâm linh: Trước hết, khu di tích Núi Nưa, là di tích lịch sử, từng là căn cứ khởi nghĩa của Bà Triệu. Mặc dù đã trôi qua gần hai ngàn năm song những truyền thuyết và các địa danh xưa cũ vẫn còn được nhắc đến và lưu truyền. Không chỉ vậy, đây còn là địa điểm tu tiên đắc đạo, dấu tích của một thời kỳ phát triển của Đạo giáo dưới thời Trần – Hồ. Và cũng từ đó trở đi, khu vực Am Tiên của vị ẩn sĩ thời Hồ đã trở thành khu vực thiêng. Từ thời Lê tới thời Nguyễn, đây trở thành một khu vực, nơi tập trung hệ thống các đền, chùa, miếu linh thiêng gắn với vị nữ tướng oai hùng Bà Triệu cũng như vị ẩn sĩ thời Trần Hồ mà tiêu biểu là ngôi đền Nưa linh thiêng dưới chân núi và đền Mẫu trên đỉnh Am Tiên, đền Tu Nưa, hằng năm thu hút hàng vạn khách hành hương tới dâng hương cầu khấn xin bình an, may mắn trong thi cử, làm ăn.

Bên cạnh đó, đỉnh Am Tiên (đỉnh núi Nưa) còn là nơi tương truyền có huyệt đạo thiêng. Cửa vào khu huyệt khí theo hướng Tây Nam. Phương vị của Huyệt khí được định vị theo các trụ cây hương, hành lễ theo hướng Đông – Tây-Bắc – Nam. Có thể nói nơi đây là nơi tế lễ giữ gìn nguyên khí Quốc gia, vì trong khu vườn đền Am Tiên có rất nhiều cây lưu niệm do các chính khách từ Trung ương đến địa phượng đã tới đây trồng lưu niệm. Ngày nay, các đoàn du khách lên thăm núi Nưa, không thể không đến thăm huyệt đạo, cảm nhận sự giao hòa, chuyển động của các hạt vật chất trong vũ trụ, giữ cho tâm hồn thanh tịnh thư thái, cầu cho quốc thái dân an.

Vào các dịp tết, lễ hội đầu xuân, khu di tích đã thu hút hàng ngàn lượt du khách về dâng hương, cầu khấn. Có thể nói, đây là một vùng đất thiêng, không gian thiêng, tạo nên sức mạnh tinh thần, cổ vũ và tiếp sức cho du khách trong hành trình vượt dốc quanh co để đến với đỉnh Am Tiên cao vút.

2.2. Thực trạng khai thác hiện nay Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

2.2.1. Thực trạng khai thác tại khu di tích Phủ Na

2.2.1.1. Thực trạng tài nguyên và công tác quản lý

Khu di tích phủ Na, là điểm đến nổi tiếng và quen thuộc của du lịch xứ Thanh. Hiện nay, dự án quy hoạch đã hoàn thiện xong, tạo nên không gian khoáng đãng. Trong khu vực di tích Phủ Na, ngoài các công trình như Đền, phủ còn có khu phụ trợ tách biệt bán các mặt hàng thờ cúng, đồ lưu niệm trước cổng vào khu di tích. Tuy nhiên, mới chỉ là các gian hàng do người dân tự động quây dựng thành. Một điểm tích cực đó là, đã có con đường dẫn lên khu di tích được làm bằng bê tông tạo điều kiện thuận tiện cho nhân dân tản bộ lên núi. Ở khu vực suối Tiên, một cây cầu được xây bắc qua, vừa tạo cảnh đẹp vừa để khách du lịch đi lại thuận lợi hơn. Hệ thống điện nước nhìn chung cũng đã phục vụ được cho hoạt động quản lí cũng như hoạt động du lịch tại khu di tích. Như vậy, hệ thống cơ sở của khu di tích cũng khá hoàn thiện song cần phải nâng cấp và đầu tư hơn nữa các công trình công cộng và nhà nghỉ cho khách phục vụ khách ở xa có nhu cầu nghỉ lại.

Khu di tích Phủ Na có phạm vi quy hoạch với tổng diện tích 70 ha, gồm khu quần thể di tích và danh thắng Phủ Na, khu dịch vụ, khu dân cư. Mỗi khu chức năng đều có quy định cụ thể về kiến trúc, cảnh quan; trùng tu tôn tạo; hạ tầng kỹ thuật; vệ sinh môi trường; quản lý xây dựng… Ðây là cơ sở pháp lý để quản lý, thực hiện tốt quy hoạch nhằm khai thác, bảo vệ di tích danh thắng theo Luật Di sản văn hóa phục vụ nhu cầu của các tầng lớp nhân dân. Huyện đã chú trọng việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của địa phương như các lễ hội, trò diễn dân gian; quan tâm bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát huy di tích lịch sử văn hóa đền phủ Na. Hiện nay, tại khu di tích đã thành lập Ban quản lí di tích, xây dựng các nội quy quy định tại các điểm di tích. Các công trình đều được tu bổ tôn tạo hoàn thiện theo tham vấn của các chuyên viên phụ trách. Di tích được địa phương tôn tạo từ trước tết nguyên đán, vì vậy không gian trở nên thóang đãng và tiện lợi cho nhân dân tản bộ lên núi.

2.2.1.2. Thực trạng trong khai thác du lịch Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Tọa lạc trên đỉnh ngàn Nưa, Di tích Lịch sử văn hóa đền Phủ Na, là nơi có cảnh sắc tươi đẹp với gió núi, mây ngàn, suối reo, thác đổ, rừng đại ngàn âm u với bao huyền tích lung linh, kỳ ảo. Vào đầu xuân mới hằng năm, bắt đầu từ mùng 1 đến 16-2 (âm lịch) và từ mùng 1 đến 16-8 (âm lịch), du khách tìm về đây dâng hương tưởng nhớ các vị tiền nhân có công chống giặc ngoại xâm và để cầu may, cầu an, cầu cho mùa màng tốt tươi, nhân khang, vật thịnh, gia đình khỏe mạnh. Mỗi năm Phủ Na đón từ 20.000 đến 30.000 lượt khách đến tham quan, vãn cảnh. Ngoài các nghi thức cúng tế mang đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu được thể hiện đậm nét, còn có các hoạt động văn hóa văn nghệ, trò chơi trò diễn dân gian cũng được địa phương tổ chức góp phần làm sinh động cho lễ hội khiến đây trở thành nét sinh hoạt văn hóa tâm linh đặc sắc của nhân dân xứ Thanh mỗi độ Tết đến, Xuân về…

Không chỉ linh thiêng trong tín ngưỡng mà ở Phủ Na, còn có phong cảnh sơn thủy hữu tình. Na Sơn là đỉnh cao nhất trong dãy núi Nưa. Từ trên đỉnh núi cao ấy, có một mạch nước ngầm trào tuôn trong vắt, mát rượi chảy xuống núi từ phía sau đền Thượng. Các cụ từ thường lấy nước ấy làm cơm, đồ xôi, pha trà trong việc cúng thần. Trữ lượng của mạch nước này rất lớn, nước từ vũng ao đền Thượng ngàn công chúa chảy xuôi tới đền Mẫu (đền Trung) ở phía phải, qua đền Quan Hoàng về phía trái, tới trước đền Hạ rồi vòng tới phía hữu đền Cô Ba Đón tạo thành khe sâu. Theo lời kể của các cụ cao niên trong vùng thì đây là khe suối chưa bao giờ vơi cạn. Nếu một lần được tắm, rửa từ nguồn nước tại khe suối, con người như được gột rửa bụi trần và khoác lên mình vạn điều may mắn trong cuộc sống. Du khách đến dâng hương và thưởng ngoạn cảnh chùa thường lấy nước về nhà xem đây là nước lộc. Cùng với hệ thống núi non, hệ thống đền, miếu ở đây đã quy tụ ở một vùng thung lũng, tạo nên một quần thể di tích độc đáo mang tính nguyên sơ. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Từ đây, du khách còn có thể vãn cảnh đền Bạch Y công chúa (xã Phú Nhuận), đền Khe Rồng (đền Đức Ông, thị trấn Bến Sung), đền Phủ Sung (đền Mẫu) (xã Hải Vân), Lò cao kháng chiến Hải Vân, khu du lịch ngành nghề truyền thống ở làng Quảng, làng Mó, xã Xuân Thái và thưởng thức các trò diễn dân gian, dân ca dân vũ ở làng Vĩnh Lợi (xã Hải Long), làng Rooc Dăm (xã Xuân Phúc)… Các khu du lịch này đang được tỉnh và huyện quan tâm đầu tư phát triển để liên kết với khu di tích Phủ Na.

Bắt đầu từ xuân 2013, hoạt động du lịch tại khu di tích Phủ Na có nhiều khởi sắc. Ngoài niềm vui được tản bộ lên núi trên con đường bê tông bằng phẳng, được tự do xin nước thánh và thoải mái cầu nguyện trong không gian rộng rãi của khu di tích mới được tôn tạo, du khách còn không phải mua vé vào cửa như mọi năm. Đây thực sự là một thay đổi lớn lao, khiến lượng khách về với lễ hội đã đông nay lại càng đông. Không chỉ có vậy, Ban quản lý khu di tích đã tìm nhiều biện pháp giúp cho công tác quản lý lễ hội được tốt hơn, không để xảy ra các hiện tượng đồng bóng, mê tín dị đoan hoặc chèo kéo, hét giá khách như những năm trước. Một trong những biện pháp cụ thể để khắc phục triệt để những hạn chế tiêu cực thường thấy trong các lễ hội đó là địa phương đã giao việc viết sớ cho hội người cao tuổi đảm trách [25]. Nơi lấy nước thánh không còn xô bồ, mất vệ sinh như hình ảnh đọng lại trong lòng du khách hằng năm, mà đã được bố trí hợp lý để người dân lấy nước dễ dàng, sạch sẽ. Bên cạnh đó bổ sung thêm các đoàn viên thanh niên vào lực lượng bảo vệ, bố trí ở khắp nơi, ngay từ cổng ra vào tận tình hướng dẫn nhân dân từ nơi để xe, giám sát không để xảy ra tình trạng xô xát, tạo cho du khách cảm giác yên tâm, thoải mái đúng nghĩa khi được trở về với không gian linh thiêng của của một nơi chốn độc đáo có sự phối thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ thần và thờ anh hùng dân tộc.

Tuy nhiên, bên cạnh những nét đẹp văn hóa tâm linh vẫn còn tồn tại nhiều điều khiến không chỉ những người tổ chức lễ hội mà cả du khách phải suy ngẫm. Đó là những trò đỏ đen như các trò tôm, cua, cá, tung vòng…, hiện tượng ăn xin vẫn tồn tại một cách công khai, thậm chí một số người đầu tư làm ăn lâu dài còn ngang nhiên đóng cọc, dựng lều, lán dọc con đường dẫn lên khu đền chính.

Một số người bán hàng tại Phủ Na cho biết, những người tổ chức trò đỏ đen này có cả mạng lưới cò mồi để hút khách. Cò thường đóng vai khách vào chơi và đặt tiền từ ít đến nhiều để nhử con mồi. Ban đầu, phần thắng thường nghiêng về khách chơi. Không ít du khách bị lừa nên bị cuốn theo đến nhẵn ví. Bên cạnh đó, là hiện tượng xem bói toán, mê tín dị đoan; các lều quán do một số cá nhân tự dựng lên để hoạt động dịch vụ xem bói bài…; hơn nữa là các hoạt động ăn xin chèo kéo khiến du khách cảm thấy phiền toái, bực mình. Mặc dù các hoạt động này diễn ra ngang nhiên, nhưng không thấy lực lượng bảo vệ xử lý, dẹp bỏ [15]. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Việc tạo nên một không gian văn hóa xô bồ vào các dịp lễ tết ở đền phủ như vậy, không chỉ có nguyên nhân ý thức kinh doanh của người dân mà còn từ cả ý thức của người tham gia lễ hội và dâng hương tại đền. Các phế thải của nhang hương cùng với rác thải đồ ăn uống của du khách vứt bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, làm mất cảnh quan thiêng liêng của khu di tích tại khu vực suối Tiên, mặc dù đã được ban tổ chức làm sẵn một chiếc vòi để hứng nước nhưng do quá đông nên nhiều người không chịu chờ đến lượt mà vượt rào vào sát vách đá hứng nước tạo nên cảnh chen lấn xô đẩy hỗn loạn ngay sát đền thờ Đức thánh Tản Viên, gây hình ảnh không đẹp trong mùa lễ hội.

Đền Phủ Na không chỉ đẹp bởi danh lam thắng cảnh hùng vĩ mà tại đây có nhiều đền miếu thờ nhiên thần và nhân thần, nổi bật bao trùm lên tất cả là thờ mẫu: mẫu Thượng Ngàn, Bà Triệu, công chúa Liễu Hạnh vì thế nên hằng năm cứ vào mùa xuân đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương ở khắp nơi lại trở về vừa để thắp hương tưởng nhớ những người có công, vừa đồng thời gửi gắm những ước vọng thiêng liêng của bản thân, của gia đình. Nhưng nếu những hình ảnh nói trên vẫn không được dẹp bỏ thì không chỉ làm ảnh hưởng đến tính thiêng của khu di tích, mà về lâu dài sẽ làm mất đi một lượng du khách đến chiêm bái và tham quan.

2.2.2. Thực trạng khai thác hệ thống di tích gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu

2.2.2.1. Thực trạng tài nguyên và công tác quản lý

Hiện nay, khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Nưa đã được Bộ văn hóa thể thao và du lịch quyết định xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 2009. Được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và những tấm lòng hảo tâm, trải qua nhiều kì tu bổ tôn tạo, khu di tích ngày càng khang trang. Do tính chất và giá trị đặc biệt về lịch sử văn hóa mà khu di tích Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên dần ăn sâu vào tâm thức người dân. Số lượng khách đến với khu di tích ngày càng đông, không chỉ vào các dịp lễ tết mà vào ngày thường, nhân dân quanh vùng và du khách thập phương cũng tới dâng hương, lễ khấn và tham quan.

Từ năm 1993, sau khi tỉnh ra quyết định công nhận và bảo vệ khu di tích thì chính quyền và nhân dân địa phương đã kêu gọi sự ủng hộ và đóng góp của du khách thập phương cùng sự hỗ trợ của huyện tỉnh, từng bước trùng tu, tôn tạo được nhiều hạng mục ở đền Nưa và khu vực Am Tiên. Các lần phục hồi và tu bổ đền Nưa và Am Tiên từ năm 1993 đến nay chủ yếu là do chính quyền và nhân dân địa phương xã Tân Ninh chủ trì trên cơ sở có sự chỉ đạo của huyện tỉnh. Các công trình dựng mới đều làm trên nền móng cũ. Trên đỉnh Am Tiên, các hạng mục như chùa Am Tiên, đền Bà Triệu, đền Tu Nưa, tuy đã hoàn chỉnh song chưa đạt được yếu tố thẩm mĩ và bền vững, riêng khu vực đền Nưa thì nhà tiền đường được thay thế bằng nhà cổ thời Nguyễn còn khá tốt. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Về núi Nưa, trước kia là vùng rừng đại ngàn với rất nhiều thú vật nhưng do sự khai thác của con người mà rừng trở nên cạn kiệt. “Núi Nưa vẫn còn đó, nhưng rừng thì không còn, Ngàn Nưa xưa chỉ còn trong ký ức của người già trong vùng. Việc khai thác ào ạt nguyên liệu crom tại vùng ven chân núi đã làm biến dạng cảnh quan khu rừng vốn rất độc đáo này”[22]. Núi Nưa ngày nay cũng đã bị thu hẹp không gian, phần lớn các cây trong rừng là các loại nứa vầu tái sinh. Tuy nhiên, trong mấy chục năm trở lại đây, cùng với những nỗ lực không ngừng trong chương trình trồng cây gây rừng phủ xanh đất trống đồi trọc, huyện Triệu Sơn nói chung, xã Tân Ninh nói riêng đã trồng nhiều loài cây như lim, lát, xà cừ, bạch đàn… góp phần từng bước hồi sinh màu xanh của Ngàn Nưa.

Để bảo vệ và phát huy giá trị của khu di tích, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, đáp ứng hu cầu văn hóa của nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Triệu Sơn đã thành lập Ban quản lí di tích lịch sử văn hóa núi Nưa để từng bước đưa công tác quản lí đạt hiệu quả.

Ban đầu, huyện Triệu Sơn giao cho ủy ban nhân dân xã Tân Ninh trực tiếp bảo vệ để thực hiện nhiệm vụ phát huy tác dụng. Ban quản lí di tích lịch sử thắng cảnh núi Nưa (bao gồm núi Nưa, đền Nưa và Am Tiên) được thành lập do đồng chí Chủ tịch xã làm trưởng ban. Hàng ngày các khu vực của khu di tích đều có người trông coi bảo quản. Khi vào kỳ hội với hàng vạn người đến tham quan thì ban quản lí phối hợp cùng với lực lượng công an xã bảo vệ rất chu đáo. Tuy nhiên số lượng du khách hành hương xa gần về rất đông và khu di tích mang tiềm năng du lịch lớn nên, huyện Triệu Sơn đã quyết định thành lập ban quản lí di tích trực thuộc huyện. Ban quản lí làm việc trên nguyên tắc chung:

Khu di tích núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên là khu di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, việc bảo vệ và quản lí sử dụng và phát huy giá trị của khu di tích phải được thực hiện theo Luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng dẫn quy định của Nhà nước. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Đề cao trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ quan đơn vị, địa phương và mọi công dân đối với việc bảo vệ sử dụng phát huy có hiệu quả giá trị của khu di tích, góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và đáp ứng nhu cấu hoạt động văn hóa tinh thần cho nhân dân, bài trừ mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu.

Dựa trên nguyên tắc hoạt động trên, ủy ban nhân dân huyện đã đề ra những nhiệm vụ, quy định cụ thể đối với các đơn vị tham gia quản lí khu di tích:

Đối với Ban quản lí di tích và danh thắng huyện, có trách nhiệm phối hợp với ủy ban nhân dân xã Tân Ninh tham mưu cho ủy ban nhân dân huyện quản lí bảo vệ, sử dụng và phát huy giá trị lịch sử văn hóa của khu di tích theo quy định của Nhà nước; đồng thời có trách nhiệm quản lí toàn diện hoạt động thu chi, tôn tạo bảo vệ của Ban quản lí khu di tích Núi Nưa – Đền Nưa – Am Tiên.

Đối với Ban quản lí di tích đền Nưa – Am Tiên, phải có trách nhiệm phối hợp với xã Tân Ninh và các ngành chức năng bảo vệ tốt cơ sở vật chất và tài sản ở di tích không bị xâm hại, đảm bảo tốt vệ sinh môi trường và an ninh trật tự ở khu di tích; hàng ngày tổ chức, hướng dẫn các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng tại khu di tích theo quy định cả nhà nước. Trưởng ban chỉ đạo phân công nhiệm vụ cho từng thành viên thực hiện có hiệu quả mọi hoạt động ở khu di tích. Phát hành phiếu công đức, tổ chức bán vé vào tham quan khu di tích theo quy định của UBND huyện và Ban quản lý di tích và danh thắng huyện. Quản lí và sử dụng các nguồn thu theo hướng dẫn số 1055/LS TC-VHT ngày 01/06/2007 của Liên sở Tài Chính – Văn hóa thông tin về chế độ thu nộp, quản lí và sử dụng kinh phí tham quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và công trình văn hóa.

Đối với ủy ban nhân dân xã Tân Ninh, có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với ban quản lý khu di tích để bảo vệ và quản lý cơ sở vật chất, tài sản, đảm bảo tốt an ninh trật tự, vệ sinh môi trường bên ngoài khu di tích. Theo phong tục, truyền thống của địa phương, định kỳ hằng năm hoặc 2 năm 1 lần phối hợp với Ban quản lí di tích và danh thắng huyện, xây dựng kế hoạch tổ chức lễ hội để nhân dân tham gia và hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh thần; được phép tổ chức các hoạt động dịch vụ, thu phí dịch vụ ngoài khuôn viên di tích theo quy định. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Nhìn chung, cho đến nay các di tích được xếp hạng đã được Ban quản lí di tích tiến hành treo bảng, biển gồm: Bảng giới thiệu, tóm tắt giá trị lịch sử di tích; quyết định xếp hạng di tích, nội quy bảo vệ di tích và biển chỉ dẫn vào di tích.

Bên cạnh những hiệu quả trên thì công tác quản lí và bảo tồn khu di tích cũng còn nhiều bất cập, hạn chế. Một số địa phương khi tu sửa di tích không tuân theo sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn, xây dựng tùy tiện, phục dựng sai nguyên mẫu mà tiêu biểu ở đây là di tích đền Mẫu và khu vực Giếng Tiên trên đỉnh Am Tiên. Sau khi được công nhận di tích cấp quốc gia vào năm 2009, quần thể di tích vẫn không được quan tâm đúng mức. Nhiều công trình, đặc biệt là khu vực đền Mẫu đã bị xuống cấp nghiêm trọng từ năm 2008 nhưng vẫn chưa được các ngành chức năng tiến hành trùng tu tôn tạo. Sự buông lỏng quản lý di tích của chính quyền địa phương đã dẫn đến việc vi phạm Luật di sản văn hóa. Trong đó, UBND xã Tân Ninh đã giao cho một số người trông coi Đền tự ý tổ chức xây dựng bằng nguồn kinh phí xã hội hóa, trong khi chưa được cấp thẩm quyền phê duyệt. Việc xây dựng lại đền Mẫu đã cơ bản xong về phần thô và đang trong quá trình hoàn thiện. Tuy nhiên các quy trình kỹ thuật đều sai yêu cầu. Chính nền của Khu di tích đền Mẫu được lát bằng đá xẻ là hoàn toàn sai với bản mẫu thiết kế của cấp thẩm quyền. Bên cạnh đó, khu vực Giếng Tiên cũng đang được tiến hành lát đá nền sân giếng. Việc làm trái phép này chỉ dừng lại khi Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa có buổi làm việc và tiến hành giám sát công tác quản lý, bảo tồn, tu bổ, tôn tạo các di tích, danh thắng tại huyện Triệu Sơn phát hiện. Việc người dân và địa phương huy động nguồn vốn xã hội để tôn tạo, tu bổ di tích văn hóa là việc làm tích cực. Tuy nhiên việc tu bổ chưa qua thẩm định và không đạt yêu cầu thiết kế nên gây khó khăn cho Sở trong mặt quản lý [34].

Đến ngày 24/3/2010, Sở VH-TT&DL Thanh Hóa đã có công văn số 522, trong đó nói đến hạng mục nhà Mẫu của di tích Quốc gia Thắng cảnh núi Nưa bị sập và UBND huyện Triệu Sơn đã chỉ đạo tháo dỡ nhà Mẫu không thực hiện theo đúng quy trình và đề xuất phương án bảo quản, phục hồi di tích. Sở VH- TT&DL Thanh Hóa cũng đã chỉ đạo tiến hành mời tư vấn thiết kế lập Hồ sơ dự án các hạng mục công trình đã được quy hoạch phục hồi, tôn tạo; trình các cấp có thẩm quyền thỏa thuận, phê duyệt theo đúng trình tự quy định của Luật di sản văn hóa [34].

Như vậy, nhờ những phát hiện và ngăn chặn kịp thời, việc tự ý trùng tu sai nguyên mẫu một số công trình, không làm mất đi tính lịch sử, thẩm mĩ của các ngôi đền này. Hiện nay, các kiến trúc xuống cấp trầm trọng đã đang trong thời gian tu bổ hoàn thiện. Khu di tích Núi Nưa, đang nằm trong dự án quy hoạch lại, với diện tích 6,92ha, nằm trên độ cao hơn 300m trên đỉnh núi Nưa. Trên khu vực này, không có cư dân sinh sống, không gian thoáng đãng yên bình, linh thiêng. Phần lớn các diện tích đất trong khu vực đang quy hoạch là đất rừng và đất hoang. Hiện nay ngoài các điểm di tích và các khu thờ cúng, hướng tới theo quyết định của UBND tỉnh nơi đây sẽ xây thêm các công trình phụ trợ như khu nhà nghỉ (tạo điều kiện cho du khách ở lâu ngày trên núi), đường giao thông, khu bán hàng lưu niệm, khu ăn uống, công trình vệ sinh công cộng, vườn cây cảnh, đường vào rừng… tạo nên một khu sinh thái hấp dẫn đối với du khách khi hành hương đến đây. Sau khi hoàn thành, với đầy đủ cơ sở vật chất khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Nưa sẽ trở thành khu du lịch tâm linh sinh thái có khả năng phục vụ tốt các nhu cầu hoạt động du lịch tại đây. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

2.2.2.2. Thực trạng khai thác trong du lịch

Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa và đặc biệt là hệ thống di tích Am Tiên mang dấu ấn lịch sử đặc biệt quan trọng cùng với vẻ đẹp được thiên nhiên ưu đãi đã tạo nên một tiềm năng du lịch rất lớn. Mỗi năm, nơi đây đón hàng chục nghìn du khách thập phương tập trung trong những tháng đầu năm Âm lịch, về tham quan, vãn cảnh, thắp hương cầu lộc, cầu tài.

Lâu nay người dân hành hương về khu di tích này đều phải đi qua con đường dài khoảng 3,5km gọi là “đường Ông Huỳnh”. Ông Lê Bật Huỳnh là người xã Tân Ninh, gia đình ông ở ngay dưới chân núi. Nhận thức được việc từ ngày Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch có Quyết định công nhận Di tích lịch sử văn hóa danh lam thắng cảnh núi Nưa là di tích, thắng cảnh cấp Quốc gia (27/3/2009), du khách hành hương lên đỉnh Nưa lễ đền và chiêm bái nơi Huyệt đạo Quốc gia ngày càng đông, đông nhất là những ngày đầu xuân nên gia đình ông Huỳnh đã đầu tư hơn 4 tỷ đồng tự mở rộng con đường (theo lối đường mòn người xưa lên đỉnh núi Nưa kiếm củi) vắt chon von lên Ngàn Nưa và tiến hành thu phí với khách tham quan. Con đường được làm thủ công san núi, đổ đất mà thành, bởi vậy đường đi trơn trượt, nguy hiểm cho hành khách. Đặc biệt vào những ngày mưa, đường trơn như đổ nhựa nhầy nhụa, lầy lội vào đến tận chân núi Nưa. Nhiều du khách đi xe đã bị trượt ngã bẩn hết quần áo. Để đảm bảo an toàn cho người dân lên chùa thắp hương, chính quyền địa phương phải huy động các xe tải chở đất đổ lên mặt đường gần khu vực chân núi nhằm giảm bớt nguy hiểm, tai nạn cho du khách. Tuy nhiên khi du khách lên đỉnh núi Nưa thì đành chịu và phó mặc cho số phận. Đoạn đường từ chân núi lên đỉnh núi dài gần 4 km liên tục có những đoạn cua gấp, nhiều đoạn có độ dốc 30 đến 40 độ và suốt cả tuyến đường liên tục có những “ổ voi” khiến việc lên, xuống rất khó khăn. Vào những hôm trời không mưa, khách hành hương ngoài việc đi xe máy có thể dùng tô (hoặc mua vé dịch vụ ô tô U – oát) chỉ mất chừng 20 phút là lên đến đỉnh Ngàn Nưa. Tuy nhiên, xe vận chuyển thì cũ kỹ, giá vé cả lên và xuống dù chỉ 80.000đ/người nhưng hơn chục người bị lèn trên chiếc xe có tải trọng tối đa 7 người đi trên con đường dốc khiến nhiều du khách sợ thót tim. Dịch vụ ô tô này cũng do người dân trong vùng tự phát đứng ra kinh doanh mà không hề có sự điều chỉnh của chính quyền địa phương hay Ban quản lý di tích nên không tránh khỏi hiện tượng tranh giành khách, giành đường vượt ẩu. Một số du khách sợ đi tô, xe máy mất an toàn, đã chọn cách leo bộ, nhưng cũng thật gian nan, phải mất từ 3 – 4 giờ đồng hồ mới lên được chùa do đó khi lên đến nơi du khách cũng không còn đủ sức thăm thú. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Cũng do địa hình trên cao mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động du lịch ở đây còn rất yếu kém. Ở khu vực này, chưa có hệ thống cấp thoát nước cho các hoạt động sinh hoạt cũng như du lịch. Nguồn nước chủ yếu là nước mưa và nước giếng. Mạng lưới các công trình thoát nước thải chưa có, rác nước bẩn thải trực tiếp ra môi trường thiên nhiên, gây ô nhiễm, làm xấu cảnh quan khu di tích. Hệ thống điện cũng còn thấp, mới chỉ được lắp đặt để phục vụ cho việc thắp sáng và các hoạt động trông coi tại khu di tích. Nhìn chung, hệ thống cơ sở hạ tầng tại đây chưa hoàn thiện để phục vụ cho hoạt động du lịch, và chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có. Hiện nay, huyện Triệu Sơn đang đầu tư vào dự án quy hoạch và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng các nhu cầu của khách hành hương. Cụ thể là cuối năm 2011, chính quyền huyện Triệu Sơn đã cho xây dựng một con đường mới tạo điều kiện thuận lợi giúp khách hành hương không phải trả tiền phí. Tuy nhiên, nguy cơ bị mất một nguồn thu lớn nên gia đình ông Huỳnh đã ngang nhiên phá đường mới nhiều lần, gây khó khăn cho công việc hoàn thành con đường vào khu di tích. Do đó, cần có những biện pháp giải quyết thỏa đáng và triệt để vấn đề này, vừa để an lòng dân vừa tạo cơ sở cho dự án phát triển khu di tích sau này.

Tuy nhiên, bên cạnh những bất cập kể trên, thời gian gần đây, việc quản lí lễ hội của huyện cũng đạt được những khởi sắc mới. Đầu xuân là thời gian diễn ra nhiều lễ hội trên mảnh đất huyện Triệu Sơn. Đó là lễ hội đền Nưa – Am Tiên, lễ hội Phủ Tía và lễ hội làng Quần Thanh. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của các lễ hội đối với đời sống tinh thần của nhân dân, đặc biệt là Lễ hội Đền Nưa, chính quyền các địa phương đã kết hợp với Ban quản lí tổ chức lễ hội có những cách làm mới, sáng tạo để người dân đi trẩy hội không những đông mà còn vui.

Từ thực tế của những mùa lễ hội trước, năm 2013, trước thời gian diễn ra các hoạt động lễ hội trên địa bàn, Uỷ ban nhân dân huyện đã giao cho Phòng Văn hóa thể thao ban hành kế hoạch hướng dẫn, tổ chức các lễ hội, chủ động phối hợp giữa các ngành, các cấp giám sát, thanh kiểm tra và xử lý kịp thời các hiện tượng tiêu cực trong lễ hội. Bên cạnh đó, địa phương cũng đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá di tích và thời gian diễn ra lễ hội để quần chúng nhân dân được biết.

Việc quảng bá tuyên truyền cho khu di tích cũng có những điểm tiến bộ. Hiện nay, huyện Triệu Sơn đang tích cực quảng bá trên nhiều phương tiện truyền thông, thông tin đại chúng như báo, báo mạng, truyền thông của huyện… để khu di tích được nhiều người biết đến hơn, mang hình ảnh của Khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh núi Nưa tới gần hơn với du khách.

Theo thông tin cung cấp của bác Hoàng Năng Hùng, Trưởng phòng Văn hóa – Thể thao huyện Triệu Sơn cho biết: Ước tính số lượng lượt khách du lịch (2009 – 2012) tới huyện theo từng năm bao gồm cả mùa lễ hội như sau:

Thống kê khách du lịch tới Triệu Sơn giai đoạn 2009 – 2012 Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Đặc biệt từ sau khi được cấp bằng Di tích lịch sử cấp quốc gia, số lượng du khách đến với Khu di tích lịch sử danh lam thắng cảnh Núi Nưa ngày càng nhiều, nhất là vào dịp đầu xuân năm mới. Hai năm gần đây, ước tính khoảng hơn 10.000 du khách đã đến với lễ hội Đền Nưa – Am Tiên. Để quản lý tốt lễ hội, đặc biệt là những lễ hội quan trọng như Đền Nưa – Am Tiên, thì bên cạnh việc đảm bảo an ninh trât tự, cần quan tâm vấn đề vệ sinh môi trường. Ban quản lí cũng thường xuyên nhắc nhở du khách về ứng xử, ăn mặc sao cho văn hóa ở chốn linh thiêng. Với những lễ hội diễn ra trong nhiều ngày, chính quyền địa phương cũng như Ban quản lí cần tổng kết vào cuối mỗi ngày lễ hội, rút kinh nghiệm và xử lý vấn đề một cách nhanh chóng, triệt để. Và một điều đổi mới trong năm nay đó là, phần trò chơi, trò diễn trong lễ hội đã phong phú, đa dạng hơn. Ngoài các trò chơi như cờ người, đua thuyền, hát ví, chọi gà… hiện nay, phần hội còn tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao như bóng đá, cầu lông, bóng bàn, cờ tướng, kéo co… thu hút đông đảo người dân và du khách tham gia.

Ngoài ra, để lễ hội đầu năm được diễn ra tốt đẹp, Uỷ ban nhân dân huyện đã đề ra nhiều phương án dự phòng trong mọi vấn đề, diễn biến nảy sinh của lễ hội, tránh tình trạng chen lấn, xô đẩy lẫn nhau và gây bức xúc cho du khách. Ban Quản lí nơi diễn ra lễ hội có phương án sắp xếp hàng quán hợp lý, bố trí bãi đỗ xe và quy định tiền gửi xe… Chính vì vậy, du khách chỉ cần đến với lễ hội Đền Nưa – Am Tiên đã thấy rõ được sự tiến bộ vượt bậc so với những năm trước trong vấn đề vệ sinh môi trường và cảnh quan văn hóa lễ hội. Mặc dù đến thời điểm hiện nay trên địa bàn huyện mới diễn ra 2 lễ hội, nhưng đều đảm bảo thời gian, sự trang nghiêm, an toàn. Các trò chơi dân gian được phục hồi cùng với các hoạt động trình diễn văn nghệ lành mạnh, tạo không khí vui tươi, hấp dẫn cho lễ hội. Tình trạng lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan cũng giảm nhiều. Đặc biệt, việc đặt tiền giọt dầu, nạn hành khất, mất cắp ở lễ hội không còn bức bối như trước. Vị trí đặt hòm công đức theo quy định được thực hiện nghiêm túc.

Với những cách làm sáng tạo, đặc biệt là việc tổng kết, rút kinh nghiệm và giải quyết vấn đề ngay cuối mỗi ngày làm việc, sẽ tiếp tục mang lại hiệu quả trong công tác quản lý lễ hội không chỉ của riêng huyện Triệu Sơn, mà còn của nhiều địa phương khác.

Tiểu kết chương 2 Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

Chương 2 của bài khóa luận đưa ra những cái nhìn tổng quan nhất về lịch sử hình thành quần thể khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh Núi Nưa đồng thời khảo tả hai khu di tích nằm trên hai sườn phía đông và tây của núi Nưa, đặc biệt đi sâu phân tích và làm rõ về khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh gắn với cuộc khởi nghĩa Bà Triệu. Đây là khu di tích chứa đựng các giá trị đặc sắc về văn hóa, lịch sử và tâm linh, tiềm năng là điểm du lịch mới hấp dẫn của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.

Tuy vậy, hiện nay, việc khai thác khu di tích này phục vụ cho hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của huyện còn chưa được quan tâm đầu tư thích đáng: hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng phục vụ hoạt động du lịch còn yếu kém; việc tổ chức quản lí tại khu di tích còn hạn chế, đặc biệt là trong công tác bảo tồn và tôn tạo còn nhiều bất cập, chính vì vậy mà hiệu quả đạt được chưa cao.

Di tích lịch sử văn hóa là nguồn tài nguyên du lịch rất quan trọng với huyện Triệu Sơn, nên cần phải có kế hoạch bảo tồn, phát huy giá trị để các di tích lịch sử văn hóa đó thực sự là sản phẩm du lịch đặc thù, là điểm nhấn thu hút khách đến với Triệu Sơn nói riêng và Thanh Hóa nói chung. Tuy còn nhiều thiếu sót trong việc nghiên cứu và tìm hiểu vấn đề, song đây cũng là cơ sở để tác giả đưa ra những đề xuất về một số giải pháp nâng cao giá trị khai thác của Khu di tích lịch sử, Danh lam thắng cảnh Núi Nưa phục vụ cho sự phát triển du lịch của huyện Triệu Sơn. Khóa luận: Thực trạng khu di tích lịch sử núi Nưa huyện Triệu Sơn.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp khai thác khu di tích lịch sử núi Nưa

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x