Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay trong toàn bộ các vấn đề của nhân loại thì quyền con người là vấn đề có tính lịch sử lâu đời, cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Quyền con người là mối quan tâm của toàn thể nhân loại trong suốt thời kỳ phát triển lâu dài. Quyền con người là một phạm trù chính trị – pháp lý, sự ra đời và phát triển của khái niệm quyền con người gắn liền với các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách mạng cũng như phản ánh quá trình nhân loại tự giải phóng mình.

Quyền riêng tư là một quyền con người cơ bản được ghi nhận từ lâu trong nhiều văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc và của khu vực, trong đó có những văn kiện mà Việt Nam đã ủng hộ và tham gia như Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR), Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (CRC),…Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam có nghĩa vụ chuyển hóa các điều ước quốc tế về quyền con người đã nêu vào trong pháp luật nước mình cũng như đề ra các biện pháp bảo đảm thực thi.

Bảo vệ quyền về riêng tư không phải là vấn đề mới ở Việt Nam. Vấn đề này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật, có thể kể đến là Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự,…Dù vậy, giống như ở nhiều nước khác, quyền về riêng tư ở Việt Nam hiện vẫn bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà quyền riêng tư bị xâm phạm quá dễ dàng. Ai cũng biết điều đó, nhưng không phải ai cũng có thể tự bảo vệ được quyền riêng tư của mình. Ví dụ, scandal liên quan đến Facebook năm ngoái cho thấy những thông tin cá nhân của người tham gia mạng xã hội không phải là bí mật, hoặc ít nhất là không được bảo mật một cách tuyệt đối. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Ông chủ Facebook phải ra điều trần trước Thượng viện và Hạ viện Mỹ trong hai ngày 10 và 14/4/2018 do trước đó, tờ New York Times phanh phui Công ty Cambridge Analytica của Anh thu thập thông tin liên quan đến 50 triệu người dùng Facebook mà họ không hề hay biết. Vụ việc này cho thấy khi sống trong thời đại công nghệ, khó ai có thể thoát ly khỏi môi trường công nghệ, vì vậy, quyền riêng tư cũng không được đảm bảo. Ví dụ tiếp theo về sự rò rỉ thông tin cá nhân của hơn 14.200 người nhiễm HIV tại Singapore. Theo Bộ Y tế Singapore, các dữ liệu liên quan đến 5.400 công dân Singapore nhiễm HIV từ năm 1985 đến tháng 1/2013 và 8.800 người nước ngoài nhiễm HIV từ năm 1985 đến tháng 12/2011 đã bị rò rỉ. Các thông tin bị rò rỉ bao gồm tên, số chứng minh thư, số liên lạc, địa chỉ, các kết quả xét nghiệm HIV và thông tin y tế.

Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có tuy đem lại cho con người khả năng liên kết, chia sẻ vô cùng nhanh chóng, tiện lợi nhưng lại ẩn chứa rất nhiều hệ lụy, thậm chí ảnh hưởng xấu đến con người. Nhìn từ góc độ này có thể thấy dường như khoa học và công nghệ “tiếp tay” cho việc xâm phạm quyền riêng tư của mọi cá nhân. Bóng đen công nghệ cao càng lớn thì sự riêng tư của con người càng bị đe dọa. Trong khi đó, quy định hiện hành về quyền riêng tư ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, bất cập. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu các quy định về pháp luật hiện hành về quyền riêng tư và thực tiễn thi hành quyền này để đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Với những lý do nêu trên, em quyết định lựa chọn đề tài “Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” để thực hiện khoá luận tốt nghiệp, với mong muốn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này ở nước ta.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Bảo vệ quyền về sự riêng tư là chủ đề đã được nghiên cứu bởi nhiều học giả trong và ngoài nước. Một số nghiên cứu ở nước ngoài về vấn đề này có thể kể như sau:

  • Dimitri Vitaliev (2007), “Frontline International Foundation for the Protection of Human rights defenders”;
  • Graeme Laurie (2002), “Genetic privacy: a challenge to medico-legal norms”, Cambridge, U.K; New York: Cambridge University Press;
  • Michael, James (1994), “Privacy and human rights: an international and comparative study, with special reference to developments information technology”, Paris: Aldershot UNESCO Publ; Dartmouth, cop;
  • William N. Eskridge, Nan D. Hunter (1997), “Sexuality, gender, and the law”, New York: Foundation press;
  • Richard Hunter (2002), “World without secrets: Business, crime, and Privacy in the age of ubiquitous computing”, New York…: John Wiley & Sons;
  • Bruce Schneier, David Banisar (1997), “The Electronic privacy papers: Documents on the battle for privacy in the age of surveillane”, John Wiley & Sons. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Việt Nam, số lượng nghiên cứu về vấn đề này tuy ít hơn, song cũng đã có một số công trình, tiêu biểu như nêu dưới đây :

  • Lê Đình Nghị (2007), “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ luật học, trường Đại học luật Hà Nội.
  • Tiến sĩ Thái Thị Tuyết Dung – giảng viên Đại học luật TP Hồ Chí Minh, Sách tham khảo “Quyền tiếp cận thông tin và quyền riêng tư tại Việt Nam”.
  • TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao, TS. Ngô Minh Hương, TS Lã Khánh Tùng (2018), Sách tham khảo “Quyền về sự riêng tư” , NXB Chính trị quốc gia sự thật.
  • TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao, Sách tham khảo “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet”, NXB Chính trị sự thật quốc gia.
  • Vũ Công Giao, Phạm Thị Hậu, “Pháp luật bảo vệ quyền bí mật dữ liệu cá nhân trên thế giới và Việt Nam”, Bài đăng Tạp chí khoa học Nhà nước và Pháp luật số 2/2017, trang 67;
  • Nguyễn Ngọc Anh, “Lý lịch tư pháp, bí mật đời tư về tình trạng tiền án của cá nhân”, Bài đăng Tạp chí khoa học Dân chủ và Pháp luật số Chuyên đề về Lý lịch tư pháp, trang 8;
  • Phùng Trung Tập, “Bí mật đời tư bất khả xâm phạm”, Bài đăng Tạp chí Luật học số 6/1996, trang 41;
  • Nguyễn Thị Huyền Trang (2014), “Quyền được bảo vệ đời tư trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Pháp luật về quyền con người, Khoa luật – ĐHQGHN, Hà Nội;
  • Hoàng Lê Minh (2016), “Quyền bí mật đời tư trong Hiến pháp năm 2013 và thực tiễn tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
  • Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Bảo vệ quyền đảm bảo bí mật, an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của công dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”, Bài đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2014, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, trang 51;
  • Ngô Minh Hương, Nguyễn Đình Đức, “Quyền riêng tư của trẻ em trong không gian Internet tại Việt Nam”, Nxb chính trị quốc gia sự thật (2018)

Ngoài các công trình nêu trên, còn có một số tài liệu khác được đăng trên các tạp chí chuyên ngành và các website điện tử.

Những công trình nghiên cứu ở trên đã đặt nền tảng, cung cấp những thông tin quý báu cho những nghiên cứu tiếp theo về bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Việt Nam, trong đó bao gồm khoá luận này.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Mục đích của khoá luận là phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền về sự riêng tư, từ đó đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền này

  • Việt Nam trong thời gian tới.

Để đạt được mục đích nêu trên, các nhiệm vụ của khoá luận là:

  • Nghiên cứu các quy định có liên quan trong các văn kiện quốc tế (như UDHR, ICCPR, CRC,…) để làm rõ nội hàm của quyền riêng tư trong pháp luật quốc tế.
  • Nghiên cứu các quy định có liên quan trong pháp luật Việt Nam để làm rõ nội hàm của quyền riêng tư tại Việt Nam.
  • Phân tích đánh giá mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam và quốc tế trong vấn đề bảo đảm quyền riêng tư.
  • Đề xuất những giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp luật Việt Nam về việc bảo đảm quyền riêng tư trong thời gian tới .

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là các vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn về bảo đảm quyền về sự riêng tư.

Phạm vi nghiên cứu của khoá luận là các vấn đề lý luận về quyền riêng tư, cùng các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền này, trong đó trọng tâm là các quy định trong pháp luật Việt Nam.

5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu

Về phương pháp luận, đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin và các lý thuyết về các quyền tự nhiên, quyền pháp lý.

Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội như tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Ý nghĩa lý luận: Thông qua việc nghiên cứu, khóa luận đã góp phần củng cố kiến thức khoa học về đề tài, cụ thể là làm rõ được các đặc điểm, bản chất và ý nghĩa của quyền riêng tư, phân biệt quyền riêng tư với một số quyền con người khác, cũng như cho thấy sự khác biệt về quan điểm quyền riêng tư giữa pháp luật thế giới và pháp luật Việt Nam.

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả của việc phân tích, nghiên cứu góp phần lý giải nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong việc bảo đảm quyền này. Từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện thực định và nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền riêng tư tại Việt Nam.

7. Cấu trúc của khoá luận

Khóa luận có kết cấu chính gồm 3 chương (ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục), cụ thể như sau:

  • Chương 1. Các vấn đề lý luận cơ bản về quyền về sự riêng tư
  • Chương 2. Khung pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền về sự riêng tư
  • Chương 3. Nguyên nhân và giải pháp tăng cường bảo vệ quyền về sự riêng tư ở Việt Nam

CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN VỀ SỰ RIÊNG TƯ

1.1. Khái niệm sự riêng tư (privacy)

Sự riêng tư (đời tư) có nguồn gốc sâu xa từ trong lịch sử. Thông thường, sự riêng tư được hiểu là sự kiểm soát cuộc sống riêng của mỗi người.

Theo từ điển Black Law Dictionary (tái bản lần thứ 9) giải thích khái niệm sự riêng tư như sau: “Sự riêng tư (privacy) được hiểu là điều kiện hoặc tình trạng được tự do trước sự xâm phạm hoặc can thiệp tùy tiện vào hành động hoặc suy nghĩ của mình [18, tr.1315].

Trong tác phẩm “Tìm hiểu về quyền con người” của mình , Wolfgang Benedek cho rằng Sự riêng tư là tách biệt với mọi thứ còn lại, có nghĩa là một người có thể tách biệt bản thân với những người khác cũng như bộc lộ bản thân mình [ 22, tr.259].

Trong luận án tiến sĩ “Quyền bí mật đời tư trong pháp luật dân sự Việt Nam”, tác giả Lê Đình Nghị cũng đưa ra cách hiểu của bản thân về đời tư trong mối quan hệ với thông tin, và cho rằng thông tin liên quan đến một cá nhân cụ thể, đó là những gì thầm kín của mỗi cá nhân mà họ giữ bí mật. Do vậy có thể hiểu Sự riêng tư là cá nhân có thể sinh hoạt theo sở thích trong một môi trường, không gian của mình, tự do lựa chọn cách sống, cách sinh hoạt, ăn mặc,…Theo tác giả thì thói quen, phong tục, tập quán và pháp luật là những yếu tố ảnh hưởng tới sự riêng tư [ 4, tr.45-52].

Về cơ bản, sự riêng tư bao gồm: Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

  • Sự riêng tư về thông tin cá nhân như thông tin tín dụng, hồ sơ cá nhân, các hồ sơ về chính quyền lưu trữ về công dân hay còn gọi là “ bảo vệ dữ liệu”
  • Sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ thân thể của con người với các hình thức xâm phạm như xét nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy,…
  • Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và sự riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại,…
  • Sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban hành các giới hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống của cá nhân, nơi làm việc cũng như không gian công cộng (tìm kiếm thông tin, theo dõi bằng video, kiểm tra giấy tờ tùy thân) [11].

Tóm lại, sự riêng tư trao cho mỗi cá nhân một không gian để là chính mình mà không bị người khác phán xét một cách vô cớ, cho phép mỗi người suy nghĩ một cách tự do mà không bị kỳ thị hoặc phân biệt đối xử, cũng như khả năng kiểm soát ai được phép biết gì về bản thân mình.

1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyền về sự riêng tư

1.2.1. Khái niệm của quyền về sự riêng tư

Quyền về sự riêng tư, hay còn gọi là quyền về bảo vệ đời tư (quyền về đời tư) đã trở thành một trong những quyền con người quan trọng nhất của thời hiện đại. Các vấn đề về quyền riêng tư đã được Liên Hợp Quốc công nhận là quyền con người cần được bảo vệ. Các nước phát triển đã ban hành đạo luật về quyền riêng tư hoặc các văn bản điều chỉnh vấn đề này nhằm bảo vệ quyền thiêng liêng của con người. Dù vậy, trong tất cả các quyền con người, có lẽ quyền riêng tư là một trong những quyền khó định nghĩa nhất. Các định nghĩa về quyền riêng tư rất khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của từng quốc gia và nền văn hóa. Ở nhiều nước, khái niệm này đã được hợp nhất với khái niệm bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó sự riêng tư chính là việc quản lý thông tin cá nhân. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Trong bối cảnh hiện nay, bảo vệ sự riêng tư thường xuyên được xem như là một cách để hướng dẫn xã hội hạn chế can thiệp vào công việc của cá nhân. Việc thiếu một định nghĩa duy nhất không có nghĩa là vấn đề thiếu tầm quan trọng, vì “theo một nghĩa nào đó, tất cả các quyền con người đều có khía cạnh của quyền riêng tư”.

Quyền riêng tư có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử, được đề cập khá nhiều trước khi nó được công nhận là một quyền con người cơ bản trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật Việt Nam.

Trong xã hội nguyên thủy, dường như quyền riêng tư bị bỏ quên do cuộc sống bầy đàn, tính gắn kết cộng đồng khiến cho con người không đòi hỏi cái riêng tư cho bản thân. Phải đến khi hình thái nhà nước đầu tiên thực sự xuất hiện – là nhà nước chiếm hữu nô lệ – thì “ quyền về sự riêng tư ” mới manh nha xuất hiện như trường hợp lời thề Hippocrate trong ngành y, đó là việc các thầy thuốc phải tuyên thệ về việc giữ bí mật với hồ sơ bệnh án [2].

Mặc dù được đề cập từ thời kỳ chiếm hữu nô lệ, tuy vậy khái niệm và tính pháp lý chỉ thực sự được khẳng định rõ ràng ở thời kì phát triển của chủ nghĩa tư bản. Do đó, có thể nói, quyền riêng tư có nguồn gốc từ phương Tây và phát triển nhờ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Năm 1361, khi các thẩm phán của Đạo luật Hòa bình ở Anh đã đưa ra cơ sở cho việc bắt giữ Peeping Toms và các tiêu chuẩn khác mà không xâm hại về tính riêng tư. Nghị sĩ William Pitt đã viết: “Những người nghèo nhất có thể thách thức để buộc tất cả các quan chức phải tôn trọng. Mặc dù, căn nhà của họ có thể là xập xệ, mái của nó có thể lắc, gió có thể thổi, các cơn bão có thể vào, mưa có thể xâm nhập – nhưng vua nước Anh không thể vào nhà được”.

Nhiều quốc gia khác lần lượt ghi nhận và phát triển quyền riêng tư trong các thế kỷ tiếp sau đó. Năm 1776, Quốc hội Thụy Điển đã ban hành Luật “Access to Public Records” yêu cầu tất cả các thông tin của công dân mà chính phủ có chỉ được sử dụng cho mục đích hợp pháp. Năm 1792, Tuyên bố về Quyền của con người và công dân ghi nhận rằng: “Tài sản tư nhân là bất khả xâm phạm và thiêng liêng”.

Từ tiền lệ nước Anh, nhiều quốc gia lần lượt ghi nhận và phát triển quyền về sự riêng tư.

Trên phạm vi quốc tế, quyền về sự riêng tư được chính thức thừa nhận trong UDHR năm 1948, sau đó tiếp tục được khẳng định trong ICCPR năm 1966 và hàng loạt ĐƯQT trên thế giới và trong khu vực. Quyền riêng tư là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Trên bình diện quốc tế và ở những quốc gia phát triển, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về sự riêng tư kể từ cuối thế kỷ XIX, nhất là trong những năm 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, có một nhận định chung được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận “quyền riêng tư là một khái niệm quá rộng và hầu như không thể định nghĩa”. Sự quan tâm đến quyền riêng tư tăng nhanh trong những năm 1960 và 1970 cùng với sự ra đời của công nghệ thông tin. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Quyền riêng tư được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế như UDHR, ICCPR,…do đó quyền riêng tư là một quyền con người cơ bản. Hơn nữa quyền riêng tư đại diện cho giá trị con người, thể hiện nhu cầu tự nhiên của con người trong mối quan hệ với xã hội. Và quyền riêng tư là một quyền hiến định vì được quy định trong hiến pháp.Để hiểu rõ thêm về quyền riêng tư cần tham khảo quan điểm của các học giả trên thế giới. Các học giả trên thế giới định nghĩa quyền về sự riêng tư rất khác nhau.

Năm 1890, hai học giả người Mỹ là Samuel.D. Warren và Louis.D. Brandies cho ra đời tác phẩm “Right to privacy” – được đánh giá là một trong những tác phẩm có tầm quan trọng, là nền tảng phát triển những quy định pháp luật về quyền riêng tư tại Hoa Kỳ. Trong tác phẩm, Warren và Brandies không đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền riêng tư mà sử dụng thuật ngữ “quyền được ở một mình”. Sau này được Tòa Án Hoa Kỳ sử dụng. Nội dung bài viết tập trung vào sự thay đổi của công nghệ và truyền thông, tạo điều kiện cho báo chí can thiệp sâu hơn vào đời sống cá nhân do đó cần phải có luật bảo vệ sự riêng tư của cá nhân. Hai học giả cho rằng bảo vệ về quyền riêng tư là bảo vệ cá nhân khỏi những tổn thương về mặt cảm xúc và tinh thần do những hành vi xâm hại riêng tư gây ra, điều này rất khác với việc bảo vệ danh dự nhân phẩm và bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ [11].

William Prosser (1898 – 1972) lại đưa ra hệ thống 4 hành vi được coi là xâm phạm quyền về sự riêng tư:

  • Xâm phạm không gian riêng tư, đời sống riêng tư của người khác.
  • Công khai những thông tin cá nhân gây làm người khác tổn thương.
  • Công khai thông tin cá nhân đặt người khác vào tình huống bị hiểu lầm.
  • Sử dụng hình ảnh, tên tuổi người khác để vụ lời.

Học giả Alain Westin (1929-2013), trong cuốn “Privacy and Freedom” của mình lại cho rằng “Quyền riêng tư là yêu cầu của cá nhân, nhóm hoặc tổ chức để quyết định khi nào, trong phạm vi giới hạn nào những thông tin cá nhân của mình được chia sẻ cho những người khác.”[23]

Tuy nhiên, Robber Ellis Smith, biên tập viên của Tạp chí bảo mật thì xác định rằng: “Những mong muốn của mỗi chúng ta cho không gian vật lý mà chúng ta có thể hoàn toàn không bị gián đoạn, xâm nhập, bối rối hoặc chịu trách nhiệm và kiểm soát được thời gian và cách thức tiết lộ thông tin về cá nhân thông tin về bản thân”[11].

Judith Jarvis Thomson (1975) thì cho rằng quyền riêng tư là tập hợp của những quyền khác. Những quyền năng trong tập hợp có xu hướng đan xen, chồng chéo lên nhau và hoàn toàn có thể lý giải thông qua các quyền về thân thể, và các quyền về tài sản.

Học giả Ruth Gavison, trong tác phẩm “Privacy and Limit of the law” thì lại cho rằng: “Riêng tư là thuật ngữ được sử dụng với nhiều ý nghĩa. Thứ nhất liên quan đến bản chất của quyền riêng tư: Riêng tư là một trạng thái, một quyền, một yêu cầu, một dạng thực của sự kiểm soát hay một giá trị? Câu hỏi thứ hai liên quan đến những yếu tố thuộc về quyền riêng tư: là liên quan đến thông tin, quyền tự chủ, yếu tố định danh cá nhân, sự tiếp xúc về thân thể?”[20, tr.424]. Trên cơ sở hai câu hỏi đó, ông đã phân tích chứng tỏ rằng quyền riêng tư là sự kiểm soát đối với các vấn đề thuộc về cá nhân.

Tom Gerety lại cho rằng quyền về sự riêng tư là quyền tự chủ hay kiểm soát các giá trị nhân thân và bản sắc cá nhân, và khẳng định rằng một định nghĩa hẹp về sự riêng tư là tốt hơn một định nghĩa rộng [11].

Còn Hội đồng Calcutt ở Anh cho rằng: “Không nơi nào chúng ta có thể tìm thấy một định nghĩa hoàn toàn thỏa đáng về quyền về sự riêng tư” [11]. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Mặc dù có nhiều điểm không giống nhau song chúng đều nhấn mạnh rằng quyền này dùng để hoạt động riêng của cá nhân mà không chịu bất kì sự can thiệp nào từ bên ngoài. Nói cách khác sự tự chủ là yếu tố quan trọng bậc nhất của quyền về sự riêng tư.

Quyền riêng tư là một quyền con người đặc biệt quan trọng song nó không phải là quyền tuyệt đối. Quyền về sự riêng tư cần được bảo vệ khỏi sự can thiệp tùy tiện hoặc trái pháp luật của mọi thể nhân pháp nhân, trong đó bao gồm các cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước cùng những người sử dụng lao động. Tuy nhiên trong một số trường hợp nhà nước có thể thu thập hoặc yêu cầu công dân cung cấp các thông tin về đời tư nhằm bảo vệ những lợi ích chính đáng của quốc gia, cộng đồng và của người khác [8, tr.14]. Bên cạnh đó, quyền về sự riêng tư cũng bị hạn chế trong một số trường hợp nhất định như liên quan đến việc bảo vệ thuần phong mỹ tục và các điều cấm của pháp luật.

Quyền về sự riêng tư có sự gắn bó mật thiết với các quyền khác như: quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; quyền tự do hiệp hội và hội họp; quyền tự do báo chí;…

Tóm lại: Quyền về sự riêng tư là quyền của cá nhân không chịu sự can thiệp của bất kỳ chủ thể nào trong việc ra các quyết định hoặc tự do hành động trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức xã hội của bản thân mỗi người, kể cả trong gia đình và ngoài xã hội, trừ trường hợp được chính người này đồng ý hoặc theo quy định của pháp luật, được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

1.2.2. Đặc điểm của quyền về sự riêng tư Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Là một quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ, đặc điểm của quyền riêng tư là những thuộc tính, tính chất nổi bật của quyền riêng tư, là cơ sở để phân biệt quyền riêng tư với các quyền năng khác trong hệ thống quyền con người.

1.2.2.1. Quyền về sự riêng tư được pháp luật thừa nhận và thuộc về cá nhân:

Theo Điều 25 BLDS năm 2015 của Việt Nam: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Như vậy có thể thấy rằng quyền về sự riêng tư gắn liền với một cá nhân cụ thể, không phải gắn với tổ chức. Mặc dù có thể có những bí mật thuộc về một nhóm người (ví dụ: bí mật gia đình) trong một tổ chức nhất định nhưng cũng không thể khẳng định quyền về sự riêng tư gắn liền với pháp nhân.

1.2.2.2. Chủ thể của quyền về sự riêng tư không bị hạn chế, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ:

Bất kì cá nhân nào cũng được pháp luật bảo hộ quyền về sự riêng tư. Mỗi người sinh ra đều có cuộc sống, tình cảm, quan hệ xã hội của riêng mình – pháp luật luôn tôn trọng điều đó. Do đó, quyền về sự riêng tư của các cá nhân khác nhau được pháp luật bảo hộ như nhau. Tuy nhiên có một số trường hợp ngoại lệ đối với một số đối tượng. Việc quy định này không nằm ngoài mục đích công – vì lợi ích cộng đồng.

Ví dụ, theo Điều 34 Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 của Việt Nam thì có một số đối tượng nhất định có nghĩa vụ phải kê khai tài sản. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy nhằm phòng và chống các hành vi tham nhũng bởi công việc, chức vụ mà người này đảm nhận thuộc lĩnh vực nhạy cảm, có thể vụ lợi.

“ Điều 34. Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập

  1. Cán bộ, công chức.
  2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.
  3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
  4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.”

1.2.2.3. Quyền về sự riêng tư được bảo hộ ở một không gian rộng, với nội hàm rộng:

Quyền con người được bảo đảm thực hiện đối với mỗi cá nhân cư trú trong phạm vi lãnh thổ đất nước mình, mà còn được bảo vệ trong trường hợp lưu trú tại một quốc gia khác. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

Nội hàm của quyền riêng tư rất rộng lớn và có sự liên quan mật thiết đến nhiều quyền năng khác của cá nhân. Như đã phân tích ở trên quyền riêng tư là một quyền bao trùm lên toàn bộ đời sống riêng tư của cá nhân, cho phép cá nhân được thực hiện những hoạt động về đời sống riêng tư mà không bị bất kì ai can thiệp trái phép từ bên ngoài. Quyền riêng tư liên quan tới những gì thuộc về cá nhân, không chỉ bao gồm thông tin cá nhân, bí mật cá nhân mà còn trải rộng ra như hình ảnh, thân thể, công việc cá nhân.

1.2.2.4.  Khách thể của quyền riêng tư hướng tới giá trị tinh thần của một cá nhân:

Quyền riêng tư ra đời nhằm bảo vệ một cá nhân khỏi sự tổn thương về mặt tinh thần do những hành vi xâm phạm riêng tư gây lên. Đối tượng bảo vệ của quyền riêng tư rất rộng, bao gồm: hình ảnh, tên tuổi, thân thể, nơi ở và các thông tin cá nhân khác, nhưng đều chung mục đích hướng tới bảo vệ không gian riêng tư của cá nhân đó, bảo vệ cá nhân khỏi các hành vi xâm phạm. Ví dụ: Việc sử dụng hình ảnh cá nhân bất hợp pháp xâm phạm đến quyền của cá nhân với hình ảnh cũng như quyền về sự riêng tư của cá nhân.

1.2.2.5. Quyền riêng tư không phải quyền tuyệt đối:

Quyền riêng tư có thể bị hạn chế trong một số trường hợp vì lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội. Việc giới hạn quyền riêng tư có thể hiểu là trong điều kiện bình thường thì mọi cá nhân đều có quyền riêng tư nhưng trong một số trường hợp vì lợi ích xã hội – quốc gia thì quyền riêng tư bị hạn chế.

Sự giới hạn quyền về sự riêng tư chính là biểu hiện sinh động nhất giữa cá nhân và xã hội, con người không phải là đơn lẻ mà là thành tố tạo nên xã hội. Đôi khi có thể hi sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích cộng đồng.

Các điều kiện của trường hợp hạn chế tùy vào quốc gia, khu vực mà quy định khác nhau. Ví dụ, ở Việt Nam, sự giới hạn quyền này được quy định trong nhiều đạo luật chuyên ngành như luật an ninh quốc gia, luật phòng chống tham nhũng, luật chống khủng bố,…

1.3. Nội dung và các phương thức bảo vệ quyền về sự riêng tư Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.

1.3.1. Nội dung quyền về sự riêng tư

Nội dung quyền của sự riêng tư được hiểu là phạm vi các quyền mà quyền riêng tư bao trùm đươc pháp luật bảo hộ. Tổ chức Bảo mật quốc tế và Trung tâm bảo mật thông tin điện tử công bố báo cáo với tiêu đề “Sự riêng tư và nhân quyền” trong đó khái quát hóa sự phát triển pháp luật về bảo vệ quyền riêng tư ở 50 quốc gia, đưa ra nội dung của quyền riêng tư như sau:

  • Sự riêng tư về thông tin cá nhân: bao gồm việc bao hành các quy tắc quản lý trong việc thu thập và xử lý các dữ liệu cá nhân như thông tin tín dụng, hồ sơ y tế và các hồ sơ của chính quyền lưu trữ về công dân đó. Nó còn được gọi là “bảo vệ dữ liệu”.
  • Sự riêng tư về cơ thể: liên quan đến việc bảo vệ thân thể (vật chất) của người dân đối với hình thức xâm hại như xét nghiệm di truyền, thử nghiệm ma túy và thử nghiệm lâm sàng trên cơ thể.
  • Sự riêng tư về thông tin liên lạc: bao gồm bảo mật và riêng tư về thư từ, bưu phẩm, điện thoại, thư điện tử và các hình thức truyền thông khác.
  • Sự riêng tư về nơi cư trú: liên quan đến việc ban hành các giới hạn đối với sự xâm nhập vào môi trường sống, nơi làm việc hoặc không gian công cộng. Điều này bao gồm tìm kiếm thông tin, theo dõi bằng video và kiểm tra giấy tờ tùy thân.

1.3.2. Các phương thức bảo vệ quyền về sự riêng tư

Hiện nay, dựa vào pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật Việt Nam có thể xem xét đưa ra ba phương thức chính bảo vệ quyền về sự riêng tư bao gồm:

  • Thứ nhất, dựa vào quy định về bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự hay còn được gọi là các chế tài dân sự.
  • Thứ hai, dựa vào việc xử lý hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền về sự riêng tư trong từng lĩnh vực cụ thể và xử lý kỉ luật. Khóa luận: Quyền về sự riêng tư trong pháp luật quốc tế và VN.
  • Thứ ba, xử lý hình sự với các tội xâm phạm quyền về sự riêng tư thực sự nghiêm trọng (Chế tài hình sự).

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực trạng bảo vệ quyền riêng tư ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x