Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là tài sản đặc biệt luôn gắn liền với mọi giao dịch, hoạt động kinh doanh. Bắc Ninh đang dần trở thành một trong những tỉnh có tiến độ phát triển công nghiệp khá mạnh trong cả nước. Tại đây các vấn đề liên quan đến đất đai như: chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất, cầm cố, thế chấp, cho thuê đất, các tranh chấp về quyền sử dụng đất diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp. Theo khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013 [39], các loại hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất phải được công chứng, chứng thực gồm: Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Ngoài ra, văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cũng được công chứng hoặc chứng thực theo quy định. Có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2015, Luật Công chứng 2014 tập trung sửa đổi, bổ sung quy định về Công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên, phát triển các tổ chức hành nghề công chứng quy mô lớn, hoạt động ổn định, bền vững, tăng cường chất lượng hoạt động, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động công chứng. Đồng thời, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ổn định và phát triển kinh tế – xã hội. Luật Công chứng 2014 có nhiều quy định mới tác động đến tổ chức và hoạt động công chứng, chế độ hành nghề của Công chứng viên. Tinh thần của Luật là tiếp tục phát triển mạnh mẽ xã hội hóa hoạt động công chứng, kiện toàn hơn nữa chất lượng đội ngũ Công chứng viên ngang tầm với nhiệm vụ trong thời kỳ mới và hội nhập quốc tế, đề cao vai trò tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Công chứng viên. Theo Luật Công chứng 2014 [40], Công chứng viên phải đảm bảo và chịu trách nhiệm đối với tính xác thực, tính hợp pháp của các loại giấy tờ trong hồ sơ mà người yêu cầu công chứng cung cấp. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng hồ sơ yêu cầu công chứng có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép hoặc cần được làm rõ thì Công chứng viên đề nghị làm rõ hoặc xác minh, yêu cầu giám định theo đề nghị của người yêu cầu công chứng; nếu không làm rõ được thì từ chối công chứng.

Để làm rõ hơn phần trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên tôi chọn đề tài : Trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Luật Kinh Tế

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Sự hình thành và phát triển của công chứng Việt Nam gắn liền với các giai đoạn của lịch sử nước ta, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận trong quá trình phát triển, nhất là từ khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, hoạt động công chứng ở nước ta đã được đặt nền móng với Sắc lệnh số 59/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, mãi đến năm 2006, hoạt động công chứng mới chính thức được luật hóa với sự ra đời của Luật Công chứng năm 2006 và tiếp đó là Luật Công chứng năm 2014. Trên cơ sở quy định của pháp luật và tình hình thực tiễn việc thực hiện pháp luật của Công chứng viên tại các địa phương, đã có một số đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này như:

  • Đề tài Luận văn mang mã số 60.38.01.03 về “ Quy chế Công chứng viên theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Chu Hồng Sơn năm 2015 [48, tr. 2]. Luận văn đã thể hiện rõ những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm của Luật hiện hành, luật hoá các quy định có tính nguyên tắc trong các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đồng thời phân tích rõ về điều kiện hành nghề công chứng, thành lập các Văn phòng công chứng, quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công chứng, điều kiện bổ nhiệm Công chứng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ Công chứng viên, chất lượng hoạt động công chứng, tăng cường trách nhiệm của Công chứng viên trong hoạt động công chứng để công chứng thực sự trở thành một công cụ “bảo vệ” người dân trong quan hệ dân sự, qua đó bảo đảm tốt hơn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công chứng trong điều kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp.
  • Luận văn thạc sĩ mang mã số 60.85.01.03 “ Đánh giá thực trạng công tác công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội” của tác giả Hà Lan Hương năm 2013 [31, tr. 3]. Đề tài nghiên cứu khoa học đã làm rõ hoạt động công chứng, chứng thực những giao dịch liên quan đến Đất đai trên địa bàn quận Đống Đa để từ đó có những nhận xét đánh giá chính xác về thực tiễn thi hành luật công chứng. Luận văn cũng chỉ ra những tồn tại và hạn chế trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch liên quan đến đất đai của quận Đống Đa và cũng đưa ra những giải pháp để khắc phục những tồn tại hạn chế đó. Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất
  • Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Nguyễn Thị Cẩm Lai năm 2018 [33, tr. 12]. Luận văn đã nêu lên những thực trạng về tình hình quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và từ đó đưa ra những quan điểm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng.
  • Luận văn thạc sĩ mang mã số 8.38.01.02 “ Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 [32]. Luận văn đã chỉ ra những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về lĩnh vực công chứng trong chuyển nhượng tài sản. Trên thực tế tại Thành phố Hồ Chí Minh phát sinh những giao dịch về chuyển nhượng tài sản mà pháp luật công chứng gắn liền thì tác giả cũng đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản.
  • Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.07 “ Chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế theo quy định của luật đất đai 2013” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh năm 2015 [1]. Luận văn nêu rõ trọng tâm các khó khăn vướng mắc về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế theo luật đất đai 2013 và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của luật đất đai 2013 về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế.
  • Luận văn Thạc sĩ mang mã số 8.38.01.07 “ Thế chấp bằng quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lương Đình Thí năm 2018 [63]. Luận văn nêu lên thực trạng của pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại tổ chức tín dụng ở Thành phố Đà Nẵng. Cùng với đó tác giả cũng nêu ra các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về thế chấp quyền sử dụng đất ở để đảm bảo hợp đồng tín dụng ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
  • Luận văn Thạc sĩ mang mã số 60.38.01.03 “ Thừa kế quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Trần Huy Nam năm 2016[34]. Luận văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng đất. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất, luận văn đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất.

Những luận văn đã được công bố nêu trên đã góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về công chứng nói chung và công chứng viên nói riêng. Cùng với đó là những lý luận về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất như chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế. Tuy nhiên cũng cho thấy rằng chưa có công trình nghiên cứu nào nói về “ Trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

3.1 Mục đích nghiên cứu

Làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận, trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Phân tích và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về hoạt động công chứng và trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên gắn liền với hoạt động công chứng liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất

Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công chứng trong đó có trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên đối với các hợp đồng , giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. Trên cơ sở đó, tìm ra những vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật, xác định được những bất cập, qua đó tiến hành tìm hiểu những nguyên nhân để đề xuất những giải pháp, kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quan hệ phát sinh trong việc thực hiện pháp luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu là những quan hệ phát sinh trong việc thực hiện pháp luật khi công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh từ năm 2015 đến nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng cơ sở lý luận của phương pháp luận nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; Sự chỉ đạo của đảng và nhà nước nói chung về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

5.2 Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp khảo sát thực tiễn về trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

6.1 Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã hệ thống, phân tích, bổ sung những vấn đề có tính lý luận về trách nhiệm pháp lý của Công chứng viên và các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Các luận cứ và giải pháp của đề tài có thể sử dụng cho việc hoàn thiện các chế định pháp luật có liên quan đến tổ chức hành nghề công chứng nói chung và Công chứng viên nói riêng.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên trong các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh.

Chương 3: Định hướng và giải pháp về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên khi thực hiện công chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA CÔNG CHỨNG VIÊN TRONG CÁC GIAO DỊCH VỀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

1.1 Pháp luật về công chứng, tổ chức hành nghề công chứng Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

1.1.1 Khái niệm và đặc điểm về công chứng

1.1.1.1 Khái niệm công chứng

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Trong hoàn cảnh đầy khó khăn, phức tạp lúc bấy giờ, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vẫn không quên việc giải quyết vấn đề về thể chế công chứng. Ngày 1 tháng 10 năm 1945 (một tháng sau khi tuyên bố độc lập), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định về một số việc liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng viên người Pháp tên là Deroche tại Văn phòng công chứng; bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ (luật khoa cử nhân, luật sư tập sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội) thay thế cho công chứng viên người Pháp tại Hà Nội. Trong nghị định này đã chỉ rõ: những quy định cũ về công chứng của Pháp vẫn được áp dụng, trừ những quy định trái với chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa; công chứng viên chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra giám sát của Ủy ban hành chính các cấp.

Như vậy, có thể thấy rằng, tổ chức công chứng đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là sự kế thừa tổ chức công chứng của Pháp để lại, tuy nhiên cũng chỉ còn một phòng công chứng tại Hà Nội[5]. Các nguyên tắc quy chế hoạt động công chứng vẫn như cũ, trừ những quy định trái với nền độc lập và chính thể Dân chủ công hòa của nước ta lúc bấy giờ. Điểm mới của thể chế công chứng này được thể hiện ở chỗ: Đó là thể chế công chứng của nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, công chứng viên là người Việt Nam và đây cũng là lần đầu tiên trong một văn bản pháp lý nhà nước ta đã sử dụng thuật ngữ “công chứng”.

Sang đầu thập kỷ chín mươi, sự nghiệp đổi mới toàn diện ở đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thu được nhiều thành tựu rực rỡ. Cụ thể, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 là một bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển đất nước ta – Đại hội của sự đổi mới, mở cửa, chúng ta tiến hành đổi mới quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo sự thành công của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời lỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược kinh tế – xã hội đã vạch ra những định hướng lớn về kinh tế, tiếp tục phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đảng, ngày 27 tháng 2 năm 1991 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật về công chứng. Theo Nghị định này thì “ Phòng Công chứng Nhà nước là cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở Ngân hàng, có con dấu mang hình quốc huy”, theo đó, mỗi tỉnh sẽ có một phòng công chứng riêng. Ở những nơi chưa thành lập được phòng công chứng thì Ủy ban nhân dân được thực hiện một số việc công chứng. Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Sau hơn 5 năm thực hiện (từ tháng 2/1991-5/1996) Nghị định 45/HĐBT, chúng ta đã thu được khá nhiều thành công trong việc tổ chức và hoạt động công chứng. Thể chế công chứng ở nước ta đã được hình thành và phát triển khá nhanh trên thực tế do gặp được môi trường thuận lợi, đó là cơ chế thị trường. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta, nhu cầu về giao kết dân sự, hợp đồng kinh tế,… của các tổ chức, cá nhân ngày càng tăng và có nhiều thay đổi liên quan đến hoạt động công chứng và Nghị định 45/HĐBT không còn đáp ứng được. Chính vì thế, ngày 18 tháng 5 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước thay thế cho Nghị định số 45/HĐBT, theo đó, Phòng công chứng thuộc Sở Tư pháp nhằm chuyên môn hóa hoạt động công chứng và giảm tính trạng quá tải cho Ủy ban nhân dân. Ngày 03 tháng 10 năm 1996, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 411-TT/CC hướng dẫn thực hiện Nghị định 31/CP.Tuy nhiên, những văn bản này vừa quy định về công chứng, vừa quy định về chứng thực và sự phân biệt giữa công chứng và chứng thực là không rõ ràng.

Do nhu cầu giao kết ngày càng phong phú, đa dạng về số lượng cũng như nội dung các lĩnh vực giao kết, nên Nghị định 31/CP đã bộc lệ nhiều điểm bất cập. Do đó, ngày 08 tháng 12 năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm vi công chứng, chứng thực; tổ chức phòng công chứng; nguyên tắc hoạt động; trình tự thủ tục thực hiện việc công chứng, chứng thực; công tác chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn. Cũng trong Nghị định này, thuật ngữ phòng công chứng đã được sử dụng để thay thế cho thuật ngữ phòng công chứng Nhà nước, góp phần vào yêu cầu quan trọng trong việc xã hội hóa hoạt động công chứng ở nước ta. Trước nhu cầu công chứng ngày càng lớn, để đáp ứng nhu cầu của những người yêu cầu công chứng và thực hiện hiệu quả hơn nữa chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng. Ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XI, Luật Công chứng đã được thông qua và có hiệu lực thi hành vào ngày 01 tháng 07 năm 2007. Theo Luật Công chứng 2006, công chứng viên được thừa nhận là một nghề, ghi nhận tổ chức hành nghề công chứng tư và công chứng viên chứng nhận các hợp đồng, giao dịch và không thực hiện các việc chứng thực như: sao y, chứng nhận chữ ký. Để góp phần vào việc thực hiện hoạt động công chứng tốt hơn, các văn bản hướng dẫn thi hành luật công chứng cũng lần lượt ra đời như Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký giao về Phòng Tư pháp cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã; Nghị định số 02/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.

Trước yêu cầu thực tiễn của hoạt động công chứng và để tiếp tục thể chế hoá Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý cho việc đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động công chứng, đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ thành viên của Liên minh công chứng Quốc tế, Luật công chứng mới đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ bảy thông qua ngày 20/6/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015 (sau đây gọi là Luật công chứng năm 2014).

Để thực hiện Luật Công chứng đạt được những thành tựu trong quá trình phát triển của hoạt động công chứng, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã ban hành các văn bản hướng dẫn dân chi tiết bao gồm: Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có hiệu lực ngày 1/5/2015) về chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng; hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng Văn phòng công chứng; chính sách ưu đãi đối với Văn phòng công chứng thành lập tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; điều kiện về trụ sở của Văn phòng công chứng; niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; Thông tư số 06/2015/TT-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng (có hiệu lực ngày 1/8/2015) về thủ tục đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, đăng ký hành nghề, cấp Thẻ công chứng viên; đào tạo nghề công chứng, khoá bồi dưỡng nghề công chứng, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; tổ chức và hoạt động công chứng; một số mẫu giấy tờ trong hoạt động công chứng.

1.1.1.2 Đặc điểm công chứng Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Hoạt động công chứng do công chứng viên thực hiện.

Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được công chứng viên xác nhận. Công chứng viên kiểm chứng và xác nhận các tình tiết, sự kiện có xảy ra trong thực tế, trong số đó có cả tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau, đó do, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà án không thể xác minh được. Đồng thời, công chứng viên cũng kiểm tra và xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch.

Có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng, đó là các loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt buộc phải công chứng và các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị thực hiện cho các hợp đồng giao ý dịch, phòng ngừa tranh chấp và cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra.

Như vậy có thể hiểu, Công chứng là hành vi của công chứng viên lập, chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật. Văn bản công chứng có giá trị thực hiện và giá trị chứng cứ.

1.1.2 Tổ chức hành nghề công chứng

Tổ chức hành nghề công chứng bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng do Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bàn hành ngày 20/06/2014 [2] và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Tổ chức hành nghề công chứng thực hiện hai nghiệp vụ chính là công chứng và chứng thực.

Phòng công chứng do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập; là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng. Tổ chức, hoạt động gồm các công chức, viên chức hưởng chế độ lương theo đơn vị sự nghiệp công lập và trưởng phòng Phòng công chứng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Thành lập do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập theo quy định tại Điều 20 Luật công chứng 2014 [40]: Căn cứ vào nhu cầu công chứng tại địa phương, Sở Tư pháp chủ trì phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nội vụ xây dựng đề án thành lập Phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật công chứng 2014 và Luật Doanh nghiệp. Văn phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên, văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn. Tổ chức hoạt động phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên và không có thành viên góp vốn. Nếu như Trưởng Phòng công chứng được hình thành theo con đường bổ nhiệm thì Trường phòng Văn phòng công chứng do các thành viên hợp danh tự bầu, tự thỏa thuận theo quy định của pháp luật liên quan về loại hình công ty hợp danh. Việc thành lập do các công chứng viên thành lập được quy định tại Điều 23 Luật công chứng 2014. Văn phòng công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

1.2 Pháp luật về các giao dịch quyền sử dụng đất Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

1.2.1 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Khái niệm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất và quyền sử dụng cho bên nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển nhượng theo quy định. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực và phải làm thủ tục tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: Chuyển giao đất cho bên nhận chuyển nhượng đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, ví trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thỏa thuận; giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất cho bên nhận chuyển nhượng. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất có quyền được nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ: trả đủ tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức đã thỏa thuận cho bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất; đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; đảm bảo quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có quyền: yêu cầu bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thỏa thuận; được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất được chuyển nhượng; được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn. Loại đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất (ghi theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Thời hạn sử dụng đất của bên chuyển nhượng; thời hạn sử dụng đất con lại của bên nhận chuyển nhượng. Giá chuyển nhượng (do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật). Phương thức, thời hạn thanh toán (có đặt cọc không? Trả tiền một lần hay nhiều lần, việc giải quyết tiền đặt cọc đã nhận, trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản…). Quyền của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng (nếu có).

1.2.2 Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận theo quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai.

Bên tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Giao đất đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận; Giao giấy tờ có liên quan đến quyền sử dụng đất cho bên được tặng cho để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.

Bên được tặng cho quyền sử dụng đất có các nghĩa vụ sau đây: Đăng ký quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai; Bảo đảm quyền của người thứ ba đối với đất được tặng cho; Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật về đất đai. Bên được tặng cho quyền sử dụng đất có các quyền sau đây: Yêu cầu bên tặng cho giao đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số hiệu và tình trạng đất như đã thoả thuận; Được sử dụng đất theo đúng mục đích, đúng thời hạn; Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

1.2.3 Thừa kế quyền sử dụng đất

Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển giao quyền sử dụng đất từ người chết sang người thừa kế thông qua di chúc hợp pháp hoặc theo quy định pháp luật. Thừa kế quyền sử dụng đất xảy ra người có quyền sử dụng đất mất đi để lại quyền sử dụng đất cho những người khác theo di chúc hợp pháp hoặc theo quy định pháp luật.

Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

Tuy nhiên Luật đất đai 2013 ra đời thay thế Luật Đất đai 2003 [39], và Bộ luật Dân sự 2015 ra đời thay thế Bộ luật Dân sự 2005 đã có những quy định rõ hơn và thiết thực hơn về thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất, thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở cũng giống như thừa kế các loại tài sản khác. Tuy nhiên thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở còn có những đặc điểm tương đối độc lập với thừa kế các loại tài sản khác: Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nên đất đai trước hết thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và do Nhà nước thống nhất quản lí. Do vậy thừa kế quyền sử dụng đất ở cũng không nằm ngoài nguyên tắc thừa kế quyền sử dụng đất nói chung, tuy rằng thừa kế quyền sử dụng đất ở không cần phải có các điều kiện như đối với thừa kế đất nông nghiệp trồng cây nông nghiệp hằng năm, nuôi trồng thủy hải sản. Đất đai thuộc sở hữu Nhà nước, cá nhân có quyền sử dụng, khai thác đất ở chứ không có quyền chiếm hữu. Vì vậy, di sản thừa kế không phải là đất ở hay diện tích đất ở mà phải được hiểu là thừa kế quyền sử dụng đất ở. Hơn nữa đất đai nói chung và đất ở nói riêng đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước, vì vậy việc để lại thừa kế quyền sử dụng đất không những phải tuân theo qui định về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự mà còn phải thỏa mãn các điều kiện về thừa kế quyền sử dụng đất ở theo qui định của Luật đất đai năm 2013.

1.2.4 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Hợp đồng vay thế chấp quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên sử dụng đất dùng quyền sử dụng đất của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự với bên nhận thế chấp. Bên vay thế chấp quyền sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn thế chấp.

Trước hết, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật khi nó đảm bảo được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 cụ thể [45]: Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện; Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Về hình thức, Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định tại Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai 2013.

Trong trường hợp nhận thấy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu thì một bên trong hợp đồng thế chấp có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu. Theo Điều 132 Bộ luật Dân sự thì thời hiệu để yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất vô hiệu do mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc do hợp đồng thế chấp là giả tạo thì không bị hạn chế về thời hiệu; đối với các trường hợp còn lại thì thời hiệu là 2 năm kế từ ngày hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất được xác lập [45].

Hậu quả của việc hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất bị vô hiệu được quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 [45], theo đó: không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập hợp đồng thế chấp; Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

1.3. Pháp luật về công chứng viên và những vấn đề liên quan đến trách nhiệm pháp lý của công chứng viên Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

1.3.1. Công chứng viên

Công chứng viên, một người hành nghề luật, là một chức danh công, do Nhà nước bổ nhiệm để xác thực các văn bản pháp lý và hợp đồng mà công chứng viên soạn thảo và để tư vấn cho những người cần đến dịch vụ công chứng. Công chứng viên là người nắm giữ quyền lực công nhưng thực hiện chức năng của mình một cách khách quan và độc lập ngoài hệ thống thứ bậc hành chính của cơ quan Nhà nước.

Trước hết, để trở thành công chứng viên, một người bắt buộc phải là công dân Việt Nam, được đào tạo và có bằng cử nhân luật; có đủ sức khỏe và tư cách đạo đức tốt. Sau khi có bằng cử nhân luật, người đó phải tham gia khóa đào tạo nghề công chứng trong 12 tháng tại Học viện Tư pháp. Sau khóa đào tạo chuyên môn, Học viện Tư pháp cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa học cho người học. Việc tham gia khóa đào tạo hành nghề công chứng không bị áp dụng cho tất cả các trường hợp. Cụ thể, theo Điều 10 Luật Công chứng 2014, những đối tượng sau sẽ được miễn đào tạo hành nghề công chứng: Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Người đã có thời gian làm thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên từ 05 năm trở lên;

  • Luật sư đã hành nghề từ 05 năm trở lên;
  • Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;
  • Người đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên pháp luật cao cấp.

Các trường hợp được miễn đào tạo hành nghề công chứng vẫn phải tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng tại Học viện Tư pháp trong 03 tháng và tập sự hành nghề.

Người đã hoàn thành khóa đào tạo hành nghề công chứng hoặc khóa học bồi dưỡng hành nghề công chứng đăng ký việc tập sự hành nghề với Sở Tư pháp nơi có Phòng công chứng hoặc Văn phòng công chứng nhận tập sự. Trường hợp không tìm được tổ chức hành nghề công chứng để tập sự hoặc gặp khó khăn trong việc tự liên lạc, người tập sự có thể liên hệ với Sở Tư pháp đại phương nơi mình muốn tập sự để được bố trí phù hợp (Khoản 1, Điều 11 Luật Công chứng 2014) [40]. Thời gian thực tập hành nghề công chứng là 12 tháng đối với những người tốt nghiệp khóa đào tạo hành nghề công chứng, 03 tháng đối với người tốt nghiệp khóa bồi dưỡng nghề công chứng. Người có nguyện vọng được quyền thay đổi nơi tập sự nhưng phải đảm bảo tổng thời gian tập sự tối thiểu tại mỗi tổ chức hành nghề là 03 tháng (Khoản 2, Điều 3, Thông tư 04/2015/TT-BTP).

Việc đăng ký kiểm tra kết quả tập sự có thể được thực hiện tại Sở Tư pháp nơi đăng ký tập sự khi có kỳ kiểm tra do Bộ Tư pháp tổ chức hoặc ngay khi người tâp sự nộp báo cáo kết quả tập sự. Một năm, Bộ Tư pháp tổ chức 02 kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng. Trong trường hợp không đạt yêu cầu trong kỳ kiểm tra trước, người tập sự được phép đăng ký kiểm tra lại trong đợt sau nhưng tổng số lần kiểm tra tối đa chỉ 03 lần (Điều 16, Điều 17, Thông tư 04/2015/TT-BTP). Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành nghề công chứng.

Khi đạt tiêu chuẩn hành nghề và đã tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, có giấy chứng nhận hoàn thành tập sự hành nghề công chứng, người có nguyện vọng đủ điều kiện nộp hồ sơ xin bổ nhiệm công chứng viên theo quy định tại Điều 12 của Luật Công chứng 2014. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được văn bản và hồ sơ đề nghị bổ nhiệm công chứng viên của Sở Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm công chứng viên. Đây là thời điểm xác định một người chính thức trở thành công chứng viên.

Khoản 1 Điều 7 Luật Công chứng năm 2014 [40] quy định về việc nghiêm cấm tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên có các hành vị như sau: Tiết lộ thông tin về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác; sử dụng thông tin về nội dung công chứng để xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội; xúi giục, tạo điều kiện cho người tham gia hợp đồng, giao dịch thực hiện giao dịch giả tạo hoặc hành gian dối khác; Công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh chị em ruột, anh chị em ruột của vợ hoặc chồng; cháu là con của con đẻ, con nuôi; Từ chối yêu cầu công chứng mà không có lý do chính đáng; sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; Nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được xác định, thỏa thuận; nhận, đòi hỏi tiền hoặc lợi ích khác từ người thứ ba để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức có liên quan; Ép buộc người khác sử dụng dịch vụ của mình; cấu kết, thông đồng với người yêu cầu công chứng và những người có liên quan làm sai lệch nội dung của văn bản công chứng, hồ sơ công chứng; Gây áp lực, đe dọa hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội để giành lợi thế cho mình hoặc cho tổ chức mình trong việc hành nghề công chứng; Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về công chứng viên và tổ chức mình; Tổ chức hành nghề công chứng mở chi nhánh, văn phòng đại diện, cơ sở, địa điểm giao dịch khác ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài phạm vi hoạt động đã đăng ký; Công chứng viên đồng thời hành nghề tại hai tổ chức hành nghề công chứng trở lên hoặc kiêm nhiệm công việc thường xuyên khác; Công chứng viên tham gia quản lý doanh nghiệp ngoài tổ chức hành nghề công chứng; thực hiện hoạt động môi giới, đại lý; tham gia chia lợi nhuận trong hợp đồng, giao dịch mà mình nhận công chứng; Vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.

1.3.2. Quyền và nghĩa vụ của Công chứng viên Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Hoạt động công chứng bao gồm toàn bộ các hoạt động pháp lý ngoài tố tụng, nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể pháp luật, phòng ngừa các tranh chấp có thể phát sinh mà công chứng viên có thể giải quyết được bằng việc thực hiện nhiệm vụ trung gian pháp lý và là một công cụ không thể thiếu được để quản lý một nền tư pháp hiệu quả. Các văn bản công chứng về các giao dịch pháp lý khác nhau là những văn bản mà công chứng viên xác thực. Tính xác thực của những văn bản này dựa trên chữ ký, nội dung và ngày tháng trên văn bản đó. Những văn bản này do chính công chứng viên lưu giữ và sắp xếp thành các sổ bộ công chứng. Luôn tuân thủ pháp luật, khi soạn thảo các văn bản công chứng, công chứng viên hiểu rõ ý chí của các bên liên quan và thể hiện ý chí đó theo đúng các quy định pháp luật. Công chứng viên kiểm tra nhân thân, năng lực và trong trường hợp cần thiết, công chứng viên kiểm tra cả quyền của các bên. Công chứng viên kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản và đảm bảo rằng ý chí của các bên đã được thể hiện một cách tự do trước công chứng viên mà không ảnh hưởng bởi cách thức thể hiện ý chí trong các văn bản mà công chứng viên soạn thảo. Công chứng viên hoàn toàn chủ động trong việc soạn thảo các văn bản. Công chứng viên có toàn quyền chấp nhận hoặc từ chối các dự thảo văn bản mà các bên đề xuất, hoặc có thể có những sửa đổi, bổ sung phù hợp trên cơ sở thỏa thuận với các bên. Các bên của văn bản đã được công chứng có quyền có bản sao y bản gốc do công chứng viên lưu trữ. Các bản sao công chứng có giá trị pháp lý như bản gốc. Công chứng viên có thể cấp các bản sao cho các đối tượng có quyền lợi chính đáng liên quan theo quy định của pháp luật. Các văn bản công chứng có hiệu lực hợp pháp và chính xác và chỉ có thể phản bác theo trình tự tố tụng tư pháp. Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và hiệu lực thi hành. Công chứng viên cũng có thẩm quyền xác nhận chữ ký của các cá nhân tại các tài liệu tư chứng thư, chứng thực bản sao y bản gốc và thực hiện tất cả các hoạt động khác do pháp luật của quốc gia quy định. Các văn bản công chứng tuân thủ các nguyên tắc nêu trên cần phải được thừa nhận tại tất cả các quốc gia và có giá trị chứng cứ cũng như hiệu lực thi hành, xác lập các quyền và nghĩa vụ như tại quốc gia gốc nơi văn bản công chứng đó đã được ban hành. Luật quốc gia xác định phạm vi về thẩm quyền theo địa hạt lãnh thổ của mỗi công chứng viên cũng như là ấn định số lượng công chứng viên để đảm bảo đáp ứng nhu cầu cung cấp dịch vụ công chứng. Luật quốc gia cũng xác định địa điểm đặt của mỗi văn phòng công chứng đồng thời đảm bảo việc phân bổ đồng đều các văn phòng công chứng trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia đó. Các công chứng viên đều phải trực thuộc một hiệp hội công chứng. Một cơ quan duy nhất bao gồm các công chứng viên thực hiện chức năng đại diện ngành công chứng của quốc gia. Luật quốc gia xác định các điều kiện hành nghề công chứng và điều kiện thực hiện chức năng công chứng nhà nước. Để thực hiện điều này, Luật quốc gia quy định các kỳ thi, môn thi cần thiết để đánh giá các ứng viên về kiến thức pháp luật và các phẩm chất cần thiết để được hành nghề công chứng. Điều 17 Luật công chứng năm 2014 quy định rõ quyền và nghĩa vụ của công chứng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động công chứng, trong đó có các quyền và nghĩa vụ mới như quyền được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề công chứng, quyền tham gia thành lập Văn phòng công chứng hoặc làm việc theo chế độ hợp đồng cho tổ chức hành nghề công chứng, được từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này và các nghĩa vụ mới như giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng; trường hợp từ chối yêu cầu công chứng thì phải giải thích rõ lý do cho người yêu cầu công chứng, giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn

bản hoặc pháp luật có quy định khác; tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình; chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của Văn phòng công chứng mà mình là công chứng viên hợp danh; đặc biệt, công chứng viên có trách nhiệm tham gia tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên; chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm công chứng viên và tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên mà mình là thành viên; và các nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.

1.3.3. Trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng của công chứng viên Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Luật công chứng năm 2014 quy định rõ nét hơn về trách nhiệm của tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động hành nghề của mình, phải bồi thường khi gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng, cá nhân, tổ chức, theo đó, tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng; công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hành vi gây thiệt hại của công chứng viên trong quá trình tác nghiệp là việc công chứng viên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy trình, thủ tục công chứng, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên gây ra trong hoạt động công chứng là một dạng trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân công chứng viên gây ra khi thi hành nhiệm vụ. Hiện nay, làm việc tại phòng công chứng có công chứng viên là công chức và công chứng viên là viên chức. Theo đó, công chứng viên giữ chức vụ lãnh đạo được bổ nhiệm giữ các vị trí trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập (Trưởng phòng công chứng) là công chức; công chứng viên làm việc trong đơn vị sự nghiệp (phòng công chứng) theo chế độ hợp đồng là viên chức. Như vậy, nếu trong phòng công chứng có công chứng viên là công chức thì khi gây thiệt hại phải áp dụng những quy định trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và thiệt hại do công chứng viên là viên chức gây ra sẽ tuân thủ quy định của Luật Viên chức 2010.

Trước hết, về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra trong hoạt động công chứng. Theo quy định tại Điều 7, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017, nếu công chứng viên là công chức gây thiệt hại thì chỉ cần xác định có thiệt hại thực tế xảy ra do hành vi trái pháp luật của công chứng viên gây ra và có văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật này của công chứng viên. Nếu công chứng viên là công chức gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở thương lượng giữa người bị thiệt hại và công chứng viên gây thiệt hại. Thiệt hại ở đây được xác định chi trả bằng tiền và trả một lần trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Kinh phí để thực hiện bồi thường thiệt hại từ ngân sách Nhà nước theo Điều 60, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2017. Theo đó, trình tự, thủ tục cấp và chi trả tiền bồi thường được quy định như sau: Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ theo quy định, cơ quan tài chính phải hoàn thành việc cấp phát kinh phí bồi thường cho cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại; trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kinh phí do cơ quan tài chính cấp, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu bồi thường về việc chi trả tiền bồi thường. Trong thời hạn 2 ngày làm việc kể từ ngày người yêu cầu bồi thường nhận được thông báo, cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây thiệt hại phải tiến hành chi trả tiền bồi thường. Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Căn cứ vào các quy định của pháp luật về trình tự thủ tục cấp và chi trả bồi thường nêu trên ta thấy rằng, để người bị thiệt hại nhận được tiền bồi thường phải tuân theo một quy trình khá dài và chặt chẽ. Từ việc chứng minh thiệt hại, có văn bản xác định thiệt hại do hành vi trái pháp luật của công chứng viên gây ra, có quyết định hoặc bản án của Tòa án theo trình tự của Luật Tố tụng Dân sự năm 2015, có hồ sơ đề nghị bồi thường thì cơ quan có thẩm quyền mới tiến hành trả tiền bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau khi được Nhà nước đứng ra bồi thường do hành vi trái pháp luật của mình gây ra khi thi hành công vụ thì công chức phải có nghĩa vụ hoàn trả số tiền đã bồi thường cho Nhà nước và bị xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Việc Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2017 quy định trách nhiệm hoàn trả của công chức khi thi hành công vụ gây thiệt hại là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với quy định tại Điều 598, Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều này một mặt tránh sự lợi dụng cố tình làm sai gây thất thu ngân sách nhà nước, mặt khác góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của công chức khi thi hành công vụ. Việc xác định mức hoàn trả được thực hiện tại khoản 1, Điều 56, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 dựa vào căn cứ mức độ lỗi của người thi hành công vụ và số tiền Nhà nước đã bồi thường. Yếu tố lỗi cố ý hay vô ý gây thiệt hại sẽ là căn cứ để xác định mức hoàn trả là bao nhiêu. Nếu người thi hành công vụ do lỗi cố ý gây thiệt hại thì phải hoàn trả cao hơn so với trường hợp vô ý gây thiệt hại. Cách quy định này hoàn toàn phù hợp với nguyên lý chung và bản chất của yếu tố lỗi khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Về cơ chế bồi thường thiệt hại do công chứng viên là viên chức gây ra trong hoạt động công chứng: Đối với những công chứng viên là viên chức hành nghề tại các phòng công chứng, nếu gây thiệt hại thì có trách nhiệm hoàn trả lại cho đơn vị sự nghiệp công lập khoản tiền mà đơn vị này đã bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi có lỗi gây thiệt hại cho người khác trong quá trình tác nghiệp. Quy định trên được cụ thể hóa tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP ngày 6-4-2012 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức, trong đó xác định các trường hợp xử lý trách nhiệm bồi thường hoàn trả. Đối với công chứng viên là viên chức thì có hai dạng trách nhiệm: Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi công chứng viên làm mất mát, hư hỏng trang thiết bị hoặc có hành vi khác gây hại tài sản của phòng công chứng. Thứ hai, trách nhiệm hoàn lại cho phòng công chứng khi phòng công chứng với tư cách là cơ quan quản lý viên chức đó đã đứng ra bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Theo quy định của Luật Viên chức năm 2010, công chứng viên là viên chức chỉ có trách nhiệm hoàn lại nếu công chứng viên đó có lỗi gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng. Viên chức gây thiệt hại nếu tự nguyện bồi thường và được người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập đồng ý thì không phải thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường hoặc trách nhiệm hoàn trả.

Việc thành lập Hội đồng xử lý trách nhiệm bồi thường, Hội đồng xử lý trách nhiệm hoàn trả cũng như nhiệm vụ và các nguyên tắc hoạt động của các hội đồng này, hồ sơ xử lý về bồi thường, hoàn trả cũng được quy định cụ thể tại Nghị định số 27/2012/NĐ-CP. So sánh quy định về bồi thường thiệt hại do công chứng viên là công chức gây ra theo Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2017 với quy định về trách nhiệm bồi thường, hoàn trả đối với công chứng viên là viên chức gây ra theo Luật Viên chức năm 2010 và Nghị định số 27/2012/NĐ-CP quy định về xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức chúng ta thấy rằng, quy định đối với viên chức chặt chẽ hơn, cụ thể hơn. Công chứng viên là viên chức nếu gây thiệt hại thì phòng công chứng với tư cách là đơn vị sự nghiệp công lập phải có trách nhiệm đứng ra bồi thường thiệt hại do hành vi công chứng viên của tổ chức mình gây ra. Sau đó công chứng viên có trách nhiệm hoàn lại toàn bộ số tiền cho phòng công chứng nếu hành vi gây thiệt hại được xác định do lỗi của công chứng viên trong quá trình tác nghiệp.

1.3.4. Bảo hiểm nghề nghiệp của công chứng viên Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Theo quy định của Luật Công chứng, tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do lỗi mà công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng gây ra cho người yêu cầu công chứng; văn phòng công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình. Đây là quy định được xem là có lợi cho cả công chứng viên và người dân trong trường hợp chẳng may có rủi ro, nếu đã tham gia bảo hiểm thì khoản bồi thường cho khách hàng công chứng viên sẽ không phải “móc tiền túi” cá nhân mà việc này sẽ do bảo hiểm chi trả. Thấy rõ những lợi ích của việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên nên ngay sau khi Luật Công chứng có hiệu lực, nhiều văn phòng công chứng đã tự nguyện mua bảo hiểm. Ban đầu việc này còn khó khăn do nhiều công ty bảo hiểm không muốn bán vì còn xa lạ với hoạt động công chứng. Tuy nhiên, đến nay việc mua bảo hiểm đã trở nên phổ biến với nhiều văn phòng công chứng, tuy mức bảo hiểm ở mỗi văn phòng là khác nhau.

Luật công chứng 2014 quy định tại Điều 37. Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên:

  • Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên phải được duy trì trong suốt thời gian hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
  • Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên hành nghề tại tổ chức mình.
  • Chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày mua bảo hiểm hoặc kể từ ngày thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm, tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm thông báo và gửi bản sao hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng thay đổi, gia hạn hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên cho Sở Tư pháp.
  • Chính phủ quy định chi tiết điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu đối với bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên.

1.3.5 Đạo đức hành nghề công chứng của công chứng viên Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (gồm 4 chương, 15 điều) quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội. Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã hội. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình.

Có thể khẳng định rằng, khi làm bất cứ ngành nghề nào cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức – Đó là một nghề mang tính công quyền. Trong đó, công chứng viên là người được Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng, công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch tại tổ chức hành nghề công chứng. Do vậy, việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành nghề công chứng của công chứng viên. Với tư cách là một công chứng viên đang hành nghề, ngoài việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ những quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm có liên quan, công chứng viên phải tuân theo và tôn trọng Quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Đó chính là quy tắc ứng xử đã được luật hoá bằng Thông tư số 11/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp, cho nên không chỉ mang tính chất tự nguyện mà còn mang tính chất bắt buộc phải thực hiện. Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng đòi hỏi thái độ của công chứng viên khi ứng xử và hành nghề phải đi vào khuôn phép pháp luật, đó là:

  • Phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá nhân, sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác;
  • Không công chứng hợp đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Công chứng viên phải luôn coi trọng uy tín của mình đối với công việc chuyên môn, không thực hiện những hành vi làm tổn hại đến danh dự cá nhân, thanh danh nghề nghiệp;
  • Không sử dụng trình độ chuyên môn, hiểu biết của mình để trục lợi, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng;
  • Để hoàn thành công việc được Nhà nước trao quyền, công chứng viên phải gương mẫu trong hành vi, lối sống, tôn trọng người dân, thực hiện công việc tuân theo quy định pháp luật.

Để thực hiện tốt Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng, đòi hỏi mỗi công chứng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín, thanh danh nghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự tôn trọng và tin cậy của nhân dân. Đạo đức hành nghề công chứng là sự chuẩn mực về phẩm chất, chuẩn mực về xử sự trong khi hành nghề. Sự chuẩn mực đó được thể hiện trong quan hệ với đồng nghiệp, với người yêu cầu công chứng nói riêng và với nhân dân nói chung, với Nhà nước và xã hội:

Đối với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng nơi mình làm việc và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện sự tôn trọng, thân thiện, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; giám sát lẫn nhau, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hành vi sai trái; khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót thì góp ý thẳng thắn nhưng không hạ thấp danh dự, uy tín của đồng nghiệp, hướng dẫn giúp đỡ đồng nghiệp mới vào nghề; Chấp hành các nội quy, quy chế của tổ chức hành nghề công chứng, Hội công chứng. Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

Đối với người yêu cầu công chứng, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện sự văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên cần có thiện chí và phải tư vấn cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về hệ quả pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công chứng. Công chứng viên phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người yêu cầu công chứng lựa chọn hình thức văn bản công chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên cần tận tình, hòa nhã giải đáp thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp luật, ý chí của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Đồng thời, giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch.

Công chứng viên đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng; không phân biệt giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, địa vị xã hội, khả năng tài chính… Thu đúng, thu đủ, thu công khai phí và thù lao công chứng đã quy định và niêm yết, khi thu phải có chứng từ đầy đủ. Đồng thời, chấp hành nghiêm chỉnh các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên quy định tại Luật Công chứng:

  • Không được sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng;
  • Không đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngoài phí, thù lao công chứng và chi phí khác đã được thoả thuận;
  • Không nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng,
  • Không sử dụng thông tin biết được từ việc công chứng để phục vụ lợi ích cá nhân;
  • Không công chứng đối với trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Tiểu kết Chương

Công chứng xuất hiện tại Việt Nam là vào những năm 30 của thế kỷ XX, do người Pháp đưa vào Việt Nam. Nhưng mãi đến năm 1987, công chứng mới được đề cập lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này, công chứng được hiểu là “Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là nhà nước trao thẩm quyền cho một cơ quan được phép nhân danh nhà nước để làm chứng cho các giao dịch dân sự và thương mại, sao y bản chính các loại giấy tờ. Luật Công chứng 2014 định nghĩa: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.” Trải qua những thời kỳ khác nhau, định nghĩa về hoạt động công chứng có những thay đổi nhất định, tuy nhiên, có thể hiểu một cách nôm na nhất, công chứng là việc tạo lập và lưu giữ chứng cứ được thực hiển bởi công chứng viên, theo đó công chứng viên sẽ: Nhân danh nhà nước đứng ra làm chứng, ghi nhận lại sự thỏa thuận của các bên; Bảo đảm tính xác thực, tính hợp pháp của giao dịch, văn bản giấy tờ, bản dịch.

Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật, được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng. Công chứng viên là một chức danh tư pháp có vị trí tương đương với thẩm phán, kiểm sát viên hay chấp hành viên thi hành án. Để được bổ nhiệm trở thành công chứng viên, người đó phải đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe về quá trình đào tạo và tuyển chọn (tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng viên tại Học viện Tư pháp, có kinh nghiệm làm việc về pháp luật tối thiểu là 05 năm và phải vượt qua được kỳ thi sát hạch của Bộ Tư pháp). Công chứng viên được coi là “Thẩm phán phòng ngừa”, hay “Thẩm phán hợp đồng”, đó chính là người có đủ năng lực để nhận biết và phong ngừa rủi ro pháp lý cho các bên tham gia giao dịch.

Giao dịch quyền sử dụng đất là việc người sử dụng đất thực hiện quyền tài sản của mình đối với quyền sử dụng đất bằng cách đưa quyền sử dụng đất của mình vào giao dịch dân sự theo nội dung và hình thức nhất định phù hợp quy định của pháp luật đất đai. Luận văn: Trách nhiệm Công chứng viên trong giao dịch đất

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Khái quát tình hình địa phương tại tỉnh Bắc Ninh

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x