Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Địa vị pháp lý của Công ty chứng khoán theo Luật chứng khoán ở Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2. Thực trạng các công ty chứng khoán tại Việt Nam trong những năm gần đây Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
Ở Việt Nam, 2 CTCK đầu tiên được thành lập năm 1999 là Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC) và Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt. Năm 2000, TTCK Việt Nam chính thức đi vào hoạt động với việc vận hành sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM vào ngày 20/7/2000 và giao dịch chứng khoán Hà Nội vào ngày 8/3/2005 (trước đó các Sàn giao dịch chứng khoán hoạt động với mô hình là các Trung tâm Giao dịch chứng khoán và tổ chức dưới hình thức đơn vị sự nghiệp có thu thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước). Đến nay, sau gần 15 năm đi vào hoạt động và phát triển dựa trên các mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 và Chiến lược phát triển thị trường vốn đến 2010 và tầm nhìn 2020, hoạt động của các CTCK đã khá phát triển.
Trong giai đoạn năm 2012, tái cấu trúc CTCK được nêu lên như là nhu cầu tất yếu để chấn chỉnh hoạt động của khối doanh nghiệp này. Số CTCK đã tăng lên theo lẽ tự nhiên khi TTCK phát triển chắc chắn sẽ phải giảm theo lẽ tự nhiên khi TTCK khó khăn, tức là để họ tự nguyện sáp nhập, giải thể hay phá sản giống như ngân hàng. Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
Đến năm 2013, khung pháp lý cho việc ra đời các loại hình quỹ mới như quỹ mở, quỹ đầu tư bất động sản, quỹ hoán đổi danh mục, công ty đầu tư chứng khoán đã được ban hành. Về tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán: Để tạo cơ sở pháp lý cho quá trình tái cấu trúc, UBCKNN đã trình Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư an toàn tài chính; Thông tư sửa đổi về tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh doanh chứng khoán. Căn cứ chỉ tiêu an toàn tài chính, UBCKNN đã phân loại các CTCK thành 4 nhóm:
Nhóm 1: Nhóm hoạt động lành mạnh, gồm các công ty có tỷ lệ vốn khả dụng trên 180%
Nhóm 2: Nhóm hoạt động bình thường gồm các công ty có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 150% tới 180%
Nhóm 3: Nhóm bị kiểm soát gồm các công ty có tỷ lệ vốn khả dụng đạt từ 120% tới 150%
Nhóm 4: Nhóm bị kiểm soát đặc biệt gồm các công ty hoạt động kinh doanh thua lỗ làm cho tỷ lệ vốn khả dụng dưới 120%
Theo số liệu thống kê của UBCKNN, đến năm 2014 có 13/105 CTCK không có hoạt động môi giới chứng khoán.
Kết quả kinh doanh nửa đầu năm 2013 của các CTCK cho thấy sự thận trọng hơn trong chiến lược kinh doanh. Không còn có những trường hợp “lãi khủng” hay “lỗ khủng” trong kỳ như các năm trước. Tại các CTCK tuy không bằng cùng kỳ, nhưng thể hiện sự ổn định. Hết quý 1, tổng lợi nhuận của các CTCK là gần 520 tỉ đồng. Sang quý 2, con số này là 452 tỉ đồng. Tuy nhiên, mặt bằng lợi nhuận giữa các công ty đồng đều. Trong quý 2, không có công ty nào lãi vượt trội, lợi nhuận của tốp 10 các công ty đạt kết quả kinh doanh tốt nhất không chênh lệch đáng kể.
Việc lợi nhuận được phân hóa một cách rõ rệt ở các CTCK lớn và nhỏ như vậy là một lợi thế cho quá trình tái cấu trúc các CTCK. Nhìn vào cơ cấu thị phần hàng quý thì có thể thấy các công ty nhỏ sẽ không còn chỗ đứng trong thời gian tới. Việc thua lỗ kéo dài của các CTCK ảnh hưởng không nhỏ tới nhà đầu tư là khách hàng của những công ty này. Kế hoạch tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán được UBCK Nhà nước khởi động từ năm 2012 nhưng vẫn tiến hành khá chậm chạp.
Trong năm 2013, đặc biệt là thời điểm cuối năm của TTCK, đã có nhiều tín hiệu đánh dấu sự phục hồi ở nhiều CTCK, niêm yết cũng như đại chúng. Điều này được thể hiện qua con số 53/87 CTCK đã công bố kết quả kinh doanh báo lãi quý 4. Không ít công ty còn lội ngược dòng từ lỗ thành có lãi cả năm 2013 chỉ nhờ lợi nhuận quý 4.
Với nhiều điểm sáng tích cực từ kinh tế vi mô và thanh khoản thị truờng tăng mạnh, hoạt động của các CTCK năm 2014 đã có nhiều khởi sắc với việc ghi nhận sự tăng truởng đột biến về cả doanh thu lẫn lợi nhuận, nhất là ở nhóm các CTCK lớn. Các CTCK top đầu vẫn chiếm phần lớn thị phần môi giới chứng khoán toàn thị truờng. Top 10 CTCK trên HSX năm 2014 chiếm 62,13% tổng thị phần, xấp xỉ mức 62,6% của năm 2013.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
Biểu đồ 1: Doanh thu của 17 công ty chứng khoán lớn trong 6 tháng đầu năm 2014 và 2013
Biểu đồ 2: Lợi nhuận sau thuế của 17 công ty chứng khoán lớn trong 6 tháng đầu năm 2014 và 2013
Đánh giá chung về tình hình kinh doanh của các CTCK trong năm 2014, chủ tịch Ủy ban chứng khoán nhà nước cho rằng, thị trường diễn biến tích cực, giá trị giao dịch tăng trên 100% so với 2013, nên các CTCK nhờ đó cũng có kết quả kinh doanh tăng mạnh. Đối với một số CTCK nhỏ lãi tăng tới vài chục lần là do mức lãi của các năm trước quá thấp. Thêm vào đó, một số đơn vị có danh mục tự doanh trước đây rất lớn, mua ở thời điểm giá thấp, nên khi thị trường khởi sắc, số chứng khoán trên tăng điểm, các công ty lại giảm trích lập dự phòng và chuyển sang doanh thu nên kết quả đạt được cao.
Biều đồ 3: 10 CTCK có doanh thu lớn nhất năm 2014
Năm 2015, theo thống kê của Vietstock, trong số các CTCK đã công bố kết quả kinh doanh năm 2015, có 47 công ty báo lãi và 13 doanh nghiệp bị lỗ.
CTCK Sài Gòn (SSI) dẫn đầu với mức lợi nhuận ròng hơn 966,6 tỉ đồng, tăng 30% so với năm trước đó do nguồn thu chủ yếu đến từ hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn và hoạt động khác. Bên cạnh đó, năm qua việc hoàn nhập dự phòng 352 tỉ đồng cũng là một nguyên nhân chính giúp lãi của SSI tăng mạnh.
Đứng thứ hai là CTCK Ngân hàng Kỹ thương với lợi nhuận ròng 416 tỉ đồng, tăng mạnh gần 90% so với năm 2014 nhờ vào các đợt tư vấn phát hành trái phiếu thành công cho một số doanh nghiệp. Đứng thứ ba là CTCK Bản Việt với lợi nhuận ròng đạt 239,5 tỉ đồng, tăng hơn 60% so với năm 2014. Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
Trong danh sách bị thua lỗ thì CTCK Ngân hàng Nông nghiệp – Phát triển nông thôn (AGR) dẫn đầu với mức lỗ 175,7 tỉ đồng dù năm trước đó vẫn có lãi gần 48 tỉ đồng. Đứng thứ hai là CTCK Đông Á tiếp tục bị thua lỗ trong năm vừa qua với mức 81,5 tỉ đồng (năm 2014 công ty này bị lỗ 118,5 tỉ đồng) và CTCK Kim Long cũng thua lỗ 68 tỉ đồng dù năm 2014 đạt lợi nhuận lên đến 144,7 tỉ đồng…
Theo Ủy ban Chứng khoán nhà nước, tính đến hết năm 2015 còn 81 CTCK hoạt động, giảm hơn 20 công ty so với trước đó.
Theo đánh giá của Ủy ban chứng khoán nhà nước, năm 2015 là một năm đầy biến động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự sụt giảm của nhiều thị trường chứng khoán trọng điểm. Trong bối cảnh đó, TTCK Việt Nam vẫn duy trì được sự phát triển tương đối ổn định và hấp dẫn dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài dựa trên nền tảng chính trị, kinh tế vĩ mô ổn định với môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, trở thành điểm sáng nổi bật trong khu vực và nhóm thị trường mới nổi với tăng trưởng của chỉ số VN-Index tăng 6,2 % so với cuối năm 2014. Giá trị vốn hóa thị trường ngày cuối năm đạt 1,14 triệu tỷ đồng, tăng 16,41 so với cuối năm 2014, tương đương 27,3% GDP ước thực hiện năm 2015. Ngày 15/2/2016, Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh đã vinh danh các công ty chứng khoán tiêu biểu năm 2015 như sau:
- Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
- Công ty Cổ phần Chứng khoán Bảo Việt
Cho biết, quy mô thị trường chứng khoán trong năm 2015 tiếp tục tăng trưởng với mức vốn hoá đạt 1.360 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với cuối năm 2014, tương đương 34,5% GDP. Thanh khoản thị trường mặc dù có giảm nhẹ so với năm 2014 nhưng quy mô giao dịch bình quân mỗi phiên (bao gồm cả cổ phiếu, chứng chỉ quỹ và trái phiếu) vẫn đạt mức khá tốt với 4.932 nghìn tỷ đồng. TTCK vẫn phát huy vai trò kênh huy động vốn và góp phần tích cực vào tiến trình tái cấu trúc DNNN và cổ phần hoá. Tổng giá trị huy động vốn thông qua đấu thầu trái phiếu, phát hành thêm cổ phiếu… ước đạt 300 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2014. Năm 2015, có 139 doanh nghiệp đã đấu giá trên 2 Sở với giá trị đạt 11.671 tỷ đồng, tăng 40% về số lượng doanh nghiệp và 5% về giá trị thu được so với năm 2014.
Việc tái cấu trúc các CTCK sau 4 năm thực hiện đã thu được kết quả tốt trong việc thu hẹp về số lượng CTCK với chất lượng hoạt động cải thiện rõ rệt. Các công ty ngày càng tập trung hoàn thiện các nghiệp vụ, nâng cao tính chuyên nghiệp, chất lượng và hiệu quả hoạt động, thể hiện cam kết mạnh mẽ của các công ty cùng với cơ quan quản lý hướng đến một TTCK lành mạnh và minh bạch.
Tuy nhiên, hoạt động của các CTCK còn những hạn chế như sau:
Số lượng các CTCK không cân xứng với quy mô của thị trường
Con số 85 CTCK tính đến hết năm 2015 được xem là quá nhiều so với quy mô, nhu cầu của TTCK Việt Nam. Điều này có thể nhận thấy rõ ràng nếu so sánh với một số TTCK khác trong khu vực. Tổng số tài khoản cá nhân trên TTCK VN chỉ ở mức khoảng 0,7% dân số hiện tại trong khi Trung Quốc có khoảng trên 100 triệu tài khoản, tương đương với khoảng 8% dân số, nhưng số lượng CTCK cũng chỉ bằng Việt Nam; thị trường chứng khoán Thái Lan với quy mô khoảng 100 tỷ USD, giá trị giao dịch bình quân/phiên khoảng 400 triệu USD nhưng chỉ có gần 40 CTCK; Singapore chỉ có 26 CTCK, Malaysia có 33 CTCK… Số lượng lớn CTCK Việt Nam đang hoạt động nhỏ lẻ cho thấy sự phát triển thiếu chuyên nghiệp và chưa có định hướng dài hạn.
Năng lực tài chính và quy mô hoạt động còn hạn hẹp Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
Theo quy định hiện hành, CTCK phải có vốn điều lệ tối thiểu 300 tỷ đồng nếu muốn có đủ 4 nghiệp vụ kinh doanh là môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước, trong 4 năm gần đây, số lượng CTCK có quy mô nguồn vốn chủ sở hữu dưới 300 tỷ đồng (tương đương khoảng 15 triệu USD) chiếm khoảng 70% số lượng CTCK trên thị trường. Đặc biệt, số lượng CTCK có vốn điều lệ dưới 50 tỷ đồng (tương đương dưới 2,5 triệu USD) có xu hướng gia tăng qua các năm. Thậm chí, một số CTCK đã xin rút giấy phép hoạt động một số nghiệp vụ nhằm giảm áp lực vốn điều lệ theo quy định. Cụ thể, tính cho đến hết năm 2015, theo danh sách công bố trên hai Sở GDCK, chỉ có 82/85 CTCK là thành viên. Như vậy, có 3 CTCK hiện không cung ứng dịch vụ môi giới chứng khoán là TC Capital Việt Nam, CTCK Hamico và CTCK CIMB-Vinashin. Với quy mô vốn như hiện nay, năng lực tài chính của các CTCK Việt Nam thấp hơn nhiều so với các định chế tài chính khác như NHTM, công ty bảo hiểm, công ty tài chính đang hoạt động trên thị trường.
Bên cạnh đó, mặc dù số lượng CTCK nhiều nhưng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch chưa rộng khắp, chủ yếu vẫn chỉ tập trung ở những tỉnh, thành phố có kinh tế phát triển.
Theo Điều 3, Quy chế tổ chức và hoạt động CTCK ban hành kèm theo Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, CTCK phải có quyền sử dụng trụ sở làm việc tối thiểu trong vòng 1 năm, trong đó diện tích sàn giao dịch phục vụ NĐT tối thiểu là 150 m2. Theo Điều 17 Quy chế này, CTCK sẽ bị đình chỉ hoạt động nếu không duy trì các điều kiện trên. Tuy nhiên, có một thực tế là diện tích sàn giao dịch tại nhiều CTCK đang ngày càng hẹp lại. Tại nhiều sàn chứng khoán, diện tích dành cho NĐT được quây lại sao cho vừa đủ chiều rộng của 2 màn máy chiếu bảng điện tử, chiều dài đủ khoảng 4 – 5 hàng ghế, diện tích còn lại để tận dụng cho các hoạt động dịch vụ khác. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dịch vụ cung ứng cho nhà đầu tư
Các chỉ số an toàn tài chính giảm xuống, rủi ro hoạt động tăng cao
Theo số liệu thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nươc, trong 4 năm gần đây, hệ số nợ trung bình của các CTCK được duy trì dưới mức 0,65 hay tỷ lệ nợ phải trả trên nguồn vốn chủ sở hữu được duy trì dưới mức 2:1. Xét tổng thể toàn ngành, hệ số nợ này tương đối an toàn. Tuy nhiên, nếu xét theo nhóm 20 công ty có tổng tài sản lớn nhất có hệ số nợ cao hơn mức trung bình ngành trong khi nhóm 20 công ty có tổng tài sản thấp nhất trên thị trường lại có hệ số nợ khá thấp. Nói cách khác, mức độ an toàn tài chính tổng quát của các công ty lớn có xu hướng thấp hơn các công ty nhỏ. Đồng thời, số lượng CTCK có hệ số nợ cao – trên 0,8 – có xu hướng gia tăng mạnh.
Việc cung cấp đòn bẩy một cách thái quá, trong đó không loại trừ khả năng lạm dụng vốn nhàn rỗi của khách hàng là một trong những nguyên nhân khiến CTCK bị thiếu hụt thanh toán tạm thời. Trong trường hợp bình thường, công ty có thể tìm kiếm nguồn khác để bù đắp, chẳng hạn lấy vốn tự có, vay nóng ngân hàng, thậm chí vay nóng cả bên ngoài để cân đối. Mọi việc sẽ vẫn trơn tru nếu vòng quay này vận hành tốt. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, như danh mục cầm cố không giải phóng được, nhà đầu tư sử dụng đòn bẩy bị kẹt, nguồn vay ngắn hạn bị ngắt, vòng quay vốn sẽ dừng lại. Trên thực tế là những lý do đó lại thường xảy ra trong bối cảnh khó khăn như hiện tại: Thị trường liên tục xuống dốc, giá trị tài sản cầm cố suy giảm quá nhanh, ngân hàng không dễ dàng cho vay trước áp lực thu hồi nợ… đã đẩy hoạt động của công ty rủi ro hơn rất nhiều, thậm chí có công ty có dấu hiệu mất thanh khoản tạm như CTCK SME. Thực tế này không chỉ nằm ở một hai công ty mà có thể tiềm ẩn ở khá nhiều đơn vị nếu tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của các CTCK không được cải thiện trong thời gian tới.
Nguồn nhân lực còn thiếu và yếu
Lực lượng lao động hành nghề trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán có sự phát triển nhanh cùng với sự phát triển của thị trường, quá trình thiết lập và mở rộng hoạt động của các CTCK. Nhưng đi kèm với tốc độ gia tăng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực không được đảm bảo. Tỷ trọng nhân viên CTCK có giấy phép hành nghề mới chỉ chiếm khoảng 55% tổng số nhân viên. Điều đáng chú ý trong thời gian gần đây khi hoạt động kinh doanh của các CTCK trở nên kém hiệu quả, nhiều công ty đã phải cắt giảm đến 15-20% nhân sự. Trong đó, xuất hiện ngày càng mạnh xu hướng rút lui khỏi hoạt động chứng khoán của đội ngũ những người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán, đặc biệt là đội ngũ quản trị, điều hành có trình độ cao.
Hạn chế trong các hoạt động kinh doanh chứng khoán
Thứ nhất là trong hoạt động môi giới. Hoạt động môi giới chỉ dừng lại ở mức dộ đơn giản là nhận và truyền lệnh cho các nhà đầu tư, chưa kết hợp nhiều hoạt động tư vấn. Hình thức đặt lện qua điện thoại và Internet còn hạn chế, số lượng nhà đầu tư sử dụng được dịch vụ này còn bị giới hạn do hệ thống thông tin chưa đáp ứng được hết cho tất cả các nhà đầu tư.
Thứ hai là trong hoạt động tự doanh. Các CTCK chưa đảm đương được vai trò bình ổn giá chứng khoán cũng như vai trò nhà tạo lập thị trường. Danh mục đầu tư của các CTCk tuy đã có sự đa dạng song mức độ phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư chưa được thiết lập. Các công ty tập trung đầu tư cổ phiếu trong khi số lượng CTCK triển khai tự doanh trái phiếu còn ít.
Thứ ba là trong hoạt động tư vấn tài chính. Tư vấn chỉ mang hình thức cung cấp thông tin, nội dung và hình thức tư vấn còn sơ sài, chưa có nhiều các bài phân tích, đánh giá một cách sâu sắc về hoạt động của tổ chức phát hành hay diễn biến thị trường.Tư vấn hậu cổ phần hóa, hậu niêm yết, M&A chưa được phát triển nhiều.
Thứ tư là trong các hoạt động khác. Hoạt động bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu chưa niêm yết chưa được phát triển mạnh. Các CTCK chưa tham gia vào việc bình ổn giá chứng khoán sau khi phát hành. Chưa tách bạch giữa các hoạt động có thể làm ảnh hưởng tới lợi ích của khách hàng như dùng tiền của khách hàng tiến hành hoạt động tự doanh. Chất lượng dịch vụ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công chúng đầu tư, đặc biệt là trong vấn đề công bố thông tin, thực hiện lệnh cho khách hàng. Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
Nhiều công ty chứng khoán vượt rào quy định về mức cho vay tối đa (lên đến 70% giá trị danh mục) đã phát sinh rủi ro cho thị trường, tạo ra sân chơi không công bằng giữa các nhà đầu tư và cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, khi thị trường điều chỉnh, thanh khoản sẽ có những thời điểm tăng cao đột ngột sau đó giảm mạnh do dòng tiền ký quỹ chủ yếu mang tính chất ngắn hạn, lướt sóng nên được rút ra rất nhanh, điều này dẫn đến hệ quả chỉ số biến động thất thường, không ổn định. Nhiều mã chứng khoán có thể bị thao túng và làm giá. Đối với công ty chứng khoán, việc đảm bảo an toàn tỷ lệ tài chính cũng như công tác tư vấn đầu tư, giám sát, quản lý tài khoản ký quỹ được đặt lên hàng đầu. Nếu không tuân thủ các quy định liên quan có thể sẽ dẫn đến thua lỗ, mất vốn, gây thiệt hại cho chính công ty.
Những hạn chế trong hoạt động của CTCK thời gian qua xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
Sau hơn 15 năm phát triển, các CTCK đã bộc lộ nhiều yếu điểm. Mặc dù thị trường có những chuyển biến tích cực khi chỉ số VN-Index có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 2013 – 2015, tình trạng quá nhiều CTCK thành lập và các yếu tố bên trong lẫn bên ngoài khiến nhiều công ty lâm vào khó khăn. Đặc biệt trong giai đoạn nước ta tái cấu trúc lại TTCK nên các chỉ tiêu về tài chính cũng như các yêu cầu về chất lượng được nâng lên cao hơn.
Tác động của khủng hoảng và khó khăn về kinh tế vĩ mô và TTCK, hoạt động cổ phần hoá, phát hành huy động vốn giảm mạnh, hoạt động của các tổ chức trung gian thị trường gặp nhiều khó khăn.
Công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm còn hạn chế do hệ thống công nghệ thông tin, quy định pháp luật chưa phù hợp, chế tài, thẩm quyền xử lý của cơ quan nhà nước còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản lý còn trẻ, nhiều cán bộ mới nên việc xây dựng chính sách, thực hiện nghiệp vụ cũng gặp nhiều khó khăn cần phải có thời gian tích luỹ kinh nghiệm.
Kết luận Chương 2
Địa vị pháp lý pháp lý của CTCK theo pháp luật Việt Nam hiện hành đã được học viên nêu cụ thể từ điều kiện thành lập, tổ chức, các hoạt động kinh doanh, quyền và nghĩa vụ của CTCK, vấn đề chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động đối với CTCK.
Thực trạng hoạt động của các CTCK có những thăng trầm và việc thực hiện tái cấu trúc các CTCK đang được thực hiện nhằm thu hẹp số lượng, nâng cao chất lượng hoạt động qua việc tăng cường năng lực tài chính, quản trị công ty, quản trị rủi ro; củng cố hoạt động; cơ cấu lại tổ chức, nhân sự.
Hoạt động của CTCK trên TTCK mang tính cạnh tranh với rất nhiều sức ép nên chỉ cần sơ hở ở một điểm nào đó, CTCK sẽ phải trả giá. Khi gặp bất lợi, nếu liên tục đầu tư, giả sử kết quả không được như ý, thì sức ép đối với CTCK càng lớn thêm. Điều này đã đặt ra thử thách lớn cho các CTCK trong quá trình phát triển của mình. Để thúc đẩy sự phát triển của CTCK trên TTCK ở Việt Nam, cần không ngừng nâng cao tính hiệu quả, tính hoàn thiện và đồng bộ các văn bản pháp luật về chứng khoán nói chung và các quy định liên quan đến tổ chức và hoạt động của CTCK nói chung. Đây là nền tảng để học viên đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định và tăng cường thực thi pháp luật về địa vị pháp lý của công ty chứng khoán. Luận văn: Thực trạng về luật chứng khoán ở Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp HT thực thi pháp luật về Cty chứng khoán