Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Điều lệ mẫu áp dụng cho các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Khảo sát Điều lệ của các CTNY trên TTCK Việt Nam
Trong khả năng và thời gian có hạn, tác giả chỉ chọn 39 trong số hơn 700 CTNY trên cả 2 Sở GDCK Việt Nam. Tuy nhiên, đây là những doanh nghiệp tương đối điển hình: đó thuộc những doanh nghiệp nằm trong danh sách 66 công ty có vốn hóa lớn nhất TCCK Việt Nam năm 2009, nằm trong top 20 doanh nghiệp tiêu biểu niêm yết trên sàn Chứng khoán Việt Nam [54], hoặc là một trong số những doanh nghiệp đầu tiên niêm yết [55].
Lựa chọn các doanh nghiệp trên, tác giả hy vọng có được cái nhìn vừa chuyên sâu về các nhóm ngành doanh nghiệp vừa đa chiều từ những CTNY có vốn hóa lớn nhất, CTNY sớm nhất, hoặc những công ty tiêu biểu nhất TTCC Việt Nam đề đảm bảo sự đánh giá khách quan về ĐLM. Danh mục cụ thể các Công ty khảo sát được thể hiện trong Phụ lục 4 của luận văn này.
3.1.1. Đánh giá chung về Điều lệ của các CTNY trên TTCK Việt Nam Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Qua nghiên cứu Điều lệ của các CTNY ở Việt Nam cho thấy, về cơ bản Điều lệ của các công ty tuân theo 03 cách làm:
- Tuân thủ hoàn toàn cách làm của ĐLM: từ cơ cấu đến nội dung;
- Kết hợp ĐLM và quy định chuyên ngành;
- Trên cơ sở cơ cấu của ĐLM, bám sát tinh thần LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn LDN 2005, LCK và các văn bản hướng LCK.
Một cách khái quát, có thể đưa ra những đánh giá chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, về tính hiệu quả của mỗi cách làm nêu trên:
- Khi Điều lệ của các Công ty (SSI, KBC, TDH, CII,VCR,SRC…) tuân theo các quy định của ĐLM, Điều lệ của các Công ty này thường có số lượng các điều bằng hoặc thấp hơn ĐLM. Trong trường hợp nhiều hơn thì số lượng điều nhiều hơn là không đáng kể. Điều lệ của các Công ty này có những điểm tích cực của ĐLM như đã đề cập ở phần trên. Tuy nhiên, các Điều lệ này cũng vướng phải tất cả những sai sót và bất cập của ĐLM. Tỷ lệ các Công ty tuân theo quy định cuả ĐLM chiếm trên 85% số lượng các Điều lệ được khảo sát và nếu tính trên tổng số hơn 700 CTNY, con số hẳn còn lớn hơn nhiều;
- Khi Điều lệ của các công ty tuân theo cách làm thứ hai (IVS, HCM…), theo đó kết hợp cả ĐLM với quy định chuyên ngành thì Điều lệ của các Công ty này thường có điều nhiều, nhiều nội dung hơn hẳn so với ĐLM. Cách làm này chủ yếu được thực hiện ở các Công ty có ngành nghề kinh doanh đặc thù như Chứng khoán, Ngân hàng. Cũng giống như cách làm thứ nhất, Điều lệ của các công ty tuân theo cách thứ hai hầu hết có cơ cấu giữa các mục, điều không hợp lý, nhiều nội dung mâu thuẫn và bất hợp lý của ĐLM vẫn được giữ nguyên;
- Khi Điều lệ CTNY tuân theo cách làm thứ ba (SHS, HBC, PSI, EIB, STB, VCB…): làm theo hướng dẫn của Quyết định 15, bám sát các quy định của LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn LDN (là các Nghi định, Thông tư) là các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn Quyết định 15 và/hoặc kết hợp với các quy định của Luật chuyên ngành (LCK, Luật Ngân hàng…) nếu là doanh nghiệp đặc thù. Các Điều lệ này có một số đặc điểm:
Vẫn theo hướng dẫn của Quyết định 15 nhưng có sự xem xét, bổ sung nên cơ cấu giữa các mục, phần, điều khá hợp lý; có sự phù hợp tương đối giữa tên gọi, nội dung và các vấn đề trong Điều lệ;
Do bám sát LDN 2005 nên những Điều lệ này tránh được nhiều quy định của ĐLM đi sai hoặc ngược lại tinh thần của LDN 2005;
Vì kết hợp các quy định của ĐLM nên các Điều lệ trên đã đưa vào những điểm tích cực của ĐLM mà LDN 2005 và các văn bản hướng dẫn chưa có quy định cụ thể nhưng đồng thời cũng mắc phải những vấn đề được xem là sai sót của ĐLM như đã nêu.
Ngoài ra, Điều lệ của các Công ty Chứng khoán, Ngân hàng thường có số lượng điều vượt trội lên so với các nội dung cơ bản trong ĐLM.
Đối với Điều lệ của các Công ty làm theo cách thứ ba này chưa hẳn đã hoàn hảo vì rất nhiều vấn đề của Luật chuyên ngành đã và đang được thực hiện vẫn còn những bất cập, vẫn đang được mổ xẻ, phân tích. Song chừng nào mà các quy định pháp luật đó chưa được sửa đổi thì nó vẫn có giá trị trên thực tế. Điều quan trọng ở đây là Quyết định 15 – một văn bản dưới luật thì không được phép và không nên là một văn bản trái luật hoặc đi ngược lại tinh thần của LDN 2005. Sự chi tiết và sáng tạo của nó, nếu có và cần, là làm sao cụ thể hóa hơn ý tưởng và tinh thần của Luật mà không hạn chế, bó hẹp các quyền của đối tượng bị quản lý nhưng cũng không làm méo mó vai trò quản lý của Nhà nước. Trong 3 cách làm trên, cách thứ ba có thể xem là có ưu thế hơn cả.
Thứ hai, việc yêu cầu các công ty sáng tạo pháp luật là điều không thể và không phải công ty nào cũng có những chuyên gia pháp lý giỏi để thực hiện sự chấp hành pháp luật một cách sáng tạo đúng đắn và hợp lý nhất. Cho nên cách tốt nhất là hãy để các chủ thể tuân theo pháp luật bằng cách xây dựng, ban hành các quy định pháp luật hợp lý, đúng đắn. Ngay cả khi pháp luật ban hành đúng thì quá trình thực thi vẫn có thể sai huống hồ nếu pháp luật ban hành còn nhiều sai sót thì việc các chủ thể tuân theo sự sai sót của cơ quan quản lý là điều rất dễ hiểu. Trong 39 Điều lệ được khảo sát, rất ít các Điều lệ có “văn phong riêng”. Hầu hết là bê nguyên xi các quy định của ĐLM đến từng dấu chấm, dấu phẩy bất kể sai hay đúng, thiếu hay thừa so với LDN 2005 mà không hề có sự đối chiếu giữa điều trước với điều sau để có những chỉnh sửa cần thiết. Các công ty viết về tổ chức và hoạt động của mình mà như đang viết cho một tổ chức nào đó chứ không phải mình, một số những lỗi phổ biến:
- Quy định không đúng/không rõ bằng ĐLM hoặc thậm chí còn rối hơn ĐLM;
- Ôm đồm nhiều nội dung trong một điều và nhầm lẫn các khái niệm;
- Số lượng các Điều lệ thể hiện chủ kiến và quan điểm riêng của công ty ở một mức độ nhất định chỉ chiếm 21% trong tổng số khảo sát: gồm: SHS, HCM, PSI, HBC, STB, VCB, EIB, VIC;
Làm phức tạp hóa những nội dung vốn đã rất dễ hiểu của Điều 79 – LDN 2005 khi quy định: “Các cổ đông nắm giữ nhỏ hơn 6% số cổ phần biểu quyết trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng có quyền gộp số quyền biểu quyết của từng người lại với nhau để đề cử các ứng viên HĐQT. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông nắm giữ đến dưới 10% số cổ phần có quyền biểu quyết trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng được đề cử một ứng viên” ( Điều 24.3-PVI…). Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội được chuyển đối thành Sở giao dịch Chứng khoán Hà Nội từ tháng 01 năm 2009 nhưng Điều lệ của rất nhiều Công ty được sửa đổi sau thời điểm tháng 01/2009 vẫn tồn tại cụm từ “Trung tâm Giao dịch Chứng khoán” [24]. Qua đó cho thấy Điều lệ công ty đã và không được coi trọng đúng mức.
Có thể thấy rõ hơn về tình hình Điều lệ của các CTNY ở Việt Nam qua Bảng khảo sát được thể hiện trong Phụ lục 5 của luận văn này.
Thứ ba, tính hợp lý của một số nội dung cơ bản trong Điều lệ của các CTNY:
Về cơ quan quyền lực cao nhất của công ty: 100% các Điều lệ được khảo sát đều có sự nhầm lẫn giữa cuộc họp của ĐHĐCĐ với cơ quan ĐHĐCĐ. Điều này bắt nguồn từ sự sai lầm của ĐLM 15 như đã đề cập trong Chương II.
Về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích cổ đông, quyền và nghĩa vụ của thành viên HĐQT: Hầu hết các Điều lệ đều có cách làm của ĐLM là siết chặt quyền của cổ đông, trao thêm nhiều quyền cho HĐQT trái với LDN 2005. Việc cụ thể hóa các quyền của HĐQT hay xây dựng cơ chế bảo vệ cho HĐQT trong quá trình thực hiện công việc như tại Điều lệ của một số Công ty là cần thiết song không được làm phương hại đến quyền, lợi ích của cổ đông. Tuy nhiên, các quy định làm ảnh hưởng và hạn chế đến quyền của cổ đông thể hiện trên nhiều khía cạnh và ở tất cả các CTNY được chọn khảo sát, chẳng hạn: Quy định cổ đông chỉ có quyền quyết định mức cổ tức không cao hơn mức do HĐQT đề xuất (90% các Điều lệ); chỉ cổ đông sáng lập mới được đề cử thành viên HĐQT hay quy định cho các cổ đông nắm giữ tối thiểu 5% số cổ phần biểu quyết trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng mới có quyền gộp số quyền biểu quyết với cổ đông khác để đề cử các ứng viên HĐQT; chủ tọa cuộc họp ĐHĐCĐ có quyền tạm hoãn cuộc họp ĐHĐCĐ ngay cả khi có đủ số đại biểu cần thiết mà không cần lấy ý kiến của Đại hội; HĐQT phải triệu tập cuộc họp của ĐHĐCĐ khi có yêu cầu của kiểm toán viên…
Về điều kiện tiến hành cuộc họp của ĐHĐCĐ và việc thông qua các Quyết định của ĐHĐCĐ: Phần lớn các Công ty tuân theo quy định của ĐLM và cũng là của Luật DN. Tuy nhiên, việc quy định một tỷ lệ khác nhỏ hơn (STB, VCB…) không có nghĩa là sai vì Nghị quyết 71 cho phép điều đó.
Về thành viên HĐQT độc lập: Trừ tổ chức niêm yết là các Ngân hàng bắt buộc phải có thành viên HĐQT độc lập theo quy định nên Điều lệ của các Công ty này có quy định tương đối chi tiết về thành viên HĐQT độc lập [22,
Điều 62]. Số công ty còn lại đều quy định chung chung như cách làm của ĐLM;
Về chức danh Phó Chủ tịch HĐQT: 04/39 Điều lệ không quy định cụ thể về chức danh này như ĐLM. Tuy nhiên, trong nội dung quy định về trả thù lao cho HĐQT lại viết “thành viên HĐQT nắm giữ chức vụ điều hành (bao gồm cả chức vụ Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch) có thể được trả thêm tiền thù lao…”;
Về thành viên HĐQT thay thế: Là nội dung này được khuyến cáo không bắt buộc trong Quyết định 15. Quy định này cũng không có ý nghĩa và giá trị cao trong thực tế, thậm chí là phi lý và là trái luật. Tuy nhiên, rất nhiều các Công ty đều “bê” nguyên xi điều này vào, chiếm gần 60% tổng số Điều lệ được khảo sát. Đứng ở tư cách một cổ đông, người viết tự hỏi, liệu mình có nên để tồn tại một thành viên HĐQT chỉ nhận việc rồi chuyển giao chot người khác làm không?
Về các Tiểu ban giúp việc cho HĐQT: Ngoại trừ CTNY là các Ngân hàng do tính chất hoạt động nghề nghiệp bắt buộc phải có các ủy ban giúp việc [11, Điều 16.9]. Còn lại, quy định về các cơ quan giúp việc HĐQT trong số Điều lệ được khảo sát khá sơ sài, chung chung như ĐLM;
Về chức danh Thư ký Công ty/HĐQT: Theo quy định của Luật TCTD, Thư ký giúp việc cho HĐQT và không có chức danh Thư ký Công ty. Về cơ bản, các quy định của Thư ký Công ty trong ĐLM cũng tương tự như Thư ký HĐQT theo Pháp luật về Tổ chức tín dụng.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.1.2. Điều lệ Công ty – từ lý thuyết đến thực tiễn Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Có thể thấy các CTNY đã “chấp hành” pháp luật tương đối đầy đủ và được chứng minh qua tỷ lệ Điều lệ các CTNY “sao y” ĐLM theo Quyết định
Trong quá trình khảo sát thực tiễn áp dụng ĐLM của các CTNY, tác giả xin đưa ra một số phản ánh và nhận định về một số vấn đề sau đây:
Về bảo đảm quyền và lợi ích của cổ đông: Điều lệ của hầu hết các CTNY đều tồn tại những quy định hạn chế và ảnh hưởng đến quyền của cổ đông trên thực tế. Ở các công ty có cổ đông lớn Nhà nước, việc lạm dụng quyền và thực thi quyền của mình chưa đúng với quy định của pháp luật như: trực tiếp bổ nhiệm người của mình làm thành viên HĐQT, trực tiếp quyết định tăng vốn điều lệ hoặc điều chuyển, sử dụng tài sản của công ty phục vụ cho lợi ích riêng của mình, sử dụng vị thế cổ đông đa số biểu quyết dành cho mình quyền mua nhiều hơn với giá ưu đãi khi công ty phát hành thêm cổ phần… diễn ra ở nhiều nơi. Quyền ưu tiên mua trước bị vi phạm hoặc lạm dụng và thường biểu hiện dưới các hình thức: lợi dụng vị thế chi phối của mình tại ĐHĐCĐ để bỏ phiếu phát hành thêm cổ phần mới theo phương thức phát hành nội bộ và dành cho mình quyền được mua nhiều hơn so với cổ đông khác; phát hành dưới hình thức ưu tiên cho người lao động theo vị trí, thâm niên làm việc mà phần lợi thường là các thành viên HĐQT và những người quản lý khác; lạm dụng hình thức cổ đông chiến lược mua với giá ưu đãi để đưa mình hoặc người thân vào vị trí này. Việc bỏ phiếu tại cuộc họp của ĐHĐCĐ theo đầu người chứ không theo số cổ phần sở hữu nếu cách đó thuận lợi cho nhóm lãnh đạo. Điều lệ và cách thức thực hiện của một số công ty cho thấy chỉ những cổ đông sở hữu một tỷ lệ cổ phần nhất định mới được tham dự họp ĐHĐCĐ.
Nhìn chung, quyền của cổ đông theo quy định của pháp luật thực hiện được trên thực tế ở mức độ khác nhau. Hiện tượng vi phạm quyền của cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số, vẫn khá phổ biến với các hình thức đa dạng. Xu hướng chung chạy theo lợi ích trước mắt khá rõ nét trong nhiều CTNY.
Về Đại hội đồng cổ đông: Có khá nhiều hạn chế, bất cập liên quan đến ĐHĐCĐ, chẳng hạn:
Thứ nhất, có sự nhầm lẫn giữa thuật ngữ “cơ quan ĐHĐCĐ” và “cuộc họp ĐHĐCĐ”.
Như đã đề cập ở trên, Điều lệ của các CTNY đều có nhầm lẫn giữa khái niệm cơ quan ĐHĐCĐ và cuộc họp của ĐHĐCĐ. Trên thực tế, có đến 99% trường hợp cụm từ ĐHĐCĐ bị sử dụng với ý nghĩa là một cuộc họp và cuộc họp nào của các cổ đông cũng bị biến thành đại hội. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên CTCP Đầu tư và Phát triển du lịch Vinaconex năm 2010
Hầu hết các Công ty thông báo mời họp, đăng tin trên báo chí và trương phông màn tại hội trường đều đánh đồng từ “đại hội” với “cuộc họp”. Nhiều trường hợp, dòng trên viết đúng là mời họp ĐHĐCĐ nhưng đến dòng dưới lại bỏ họp để quay về chương trình đại hội. Như vậy, một từ đại hội lại mang hai nghĩa khác nhau. Đầu tháng 03/2009, báo chí đồng loạt đưa tin: HOSE hủy ĐHĐCĐ của CTCP Bông Bạch Tuyết [59]. Viết như vậy, thay vì hủy kết quả cuộc họp của ĐHĐCĐ thì lại hủy tư cách của các cổ đông, hủy một cơ quan không thể thiếu của một CTCP. Nếu hủy được ĐHĐCĐ cũng đồng nghĩa với việc chấm dứt tư cách pháp nhân của CTCP Bông Bạch Tuyết. Thực tế cho thấy, cả cơ quan Nhà nước, báo chí, doanh nghiệp đều sử dụng nhầm lẫn “Đại hội” với “cuộc họp”, cho nên mới có là “mời dự ĐHĐCĐ Tập đoàn Bảo Việt” hay “PVK hủy ĐHĐCĐ thường niên năm 2010 [43] .
Thứ hai, những sai sót về trình tự tiến hành cuộc họp ĐHĐCĐ: Đại bộ phận các CTNY họp ĐHĐCĐ thường niên mỗi năm một lần và đều tuân thủ đúng trình tự triệu tập và họp ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, ở một số công ty, trình tự và thủ tục triệu tập ĐHĐCĐ vẫn chưa được tuân thủ đúng. Nguyên nhân chủ yếu là do HĐQT cũng chưa nắm vững các quy định pháp lý để tiến hành triệu tập một cuộc họp ĐHĐCĐ theo đúng luật. Bên cạnh đó, trình độ và hiểu biết của cổ đông về các thủ tục pháp lý cần thiết về một cuộc họp ĐHĐCĐ còn non yếu cộng với sự “yếu thế” của cổ đông thiểu số hoặc cổ đông là người lao động trong công ty được cổ phần hóa. Việc thực hiện không đúng trình tự và thủ tục triệu tập họp ĐHĐCĐ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp trong nội bộ các CTNY nói riêng, CTCP nói chung.
Thứ ba, những vướng mắc về tỷ lệ tham gia cuộc họp ĐHĐCĐ: Cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có một đáp án chính thức cho tỷ lệ 65% hay 51% cho một cuộc họp ĐHĐQĐ được xem là hợp lệ. Hệ thống các văn bản của cơ quan lập pháp đến cơ quan quản lý các Bộ, Ngành và cơ quan quản lý trực tiếp vẫn mâu thuẫn lẫn nhau và mâu thuẫn trong nhau [30]. Tuy nhiên, tuân theo cách làm của Quyết định 15 – là văn bản trực tiếp hướng dẫn về ĐLM cho CTNY và để đảm bảo an toàn cho hoạt động, nhiều công ty vẫn chọn tỷ lệ 65%. Không ít công ty đã chọn tỷ lệ 51% với lý lẽ riêng nhằm thực hiện mục đích riêng của mình mà cũng không trái với quy định của pháp luật. Nhiều cuộc họp ĐHĐCĐ bắt đầu bằng việc biểu quyết bầu ra Ban kiểm tra tư cách cổ đông để xác định điều kiện về tỷ lệ dự họp nói trên. Việc này là không hợp lý vì Nghị quyết về việc bầu Ban kiểm tra tư cách cổ đông chỉ có giá trị pháp lý nếu đã đủ điều kiện về số cổ phần và cổ đông để tiến hành cuộc họp. Bầu Ban kiểm tra tư cách cổ đông, là dùng một cơ chế chưa biết có hợp pháp hay không để xem xét quyết định về tính hợp pháp của cuộc họp.
Nhiều cuộc họp ĐHĐCĐ còn yêu cầu cổ đông biểu quyết thông qua thành phần Đoàn chủ tịch, Đoàn thư ký cuộc họp là không cần thiết. Điều 103.2.c LDN 2005 và Điều 19.4 – ĐLM nêu rõ Chủ tịch HĐQT là “chủ toạ đương nhiên” của cuộc họp. Việc mời hay không mời thêm thành phần tham gia điều khiển cuộc họp thuộc quyền của Chủ toạ và Chủ toạ cử ra một người làm thư ký lập biên bản họp ĐHĐCĐ.
Để kiểm phiếu biểu quyết (nhất là phiếu bầu thành viên HĐQT theo phương thức bầu dồn phiếu), nhiều cuộc họp ĐHĐCĐ đã bầu ra Ban kiểm phiếu với số lượng lên đến hàng chục người là trái với Điều 103.2.d – LDN 2005 và Điều 19.2 – ĐLM. Trên thực tế, không có công ty nào thực hiện theo đúng trình tự biểu quyết như quy định tại Điều 103.5 – LDN 2005, Điều 19.2 –ĐLM “bằng cách thu thẻ biểu quyết tán thành nghị quyết, sau đó thu thẻ biểu quyết không tán thành, cuối cùng kiểm phiếu tập hợp số phiếu biểu quyết tán thành, không tán thành, không có ý kiến“.
Thứ tư, những hiểu biết chưa đầy đủ về biên bản cuộc họp ĐHĐCĐ: Điều 106 – LDN 2005 quy định “Cuộc họp ĐHĐCĐ phải được ghi vào sổ biên bản của công ty”. Điều đó nghĩa là biên bản phải được ghi vào một quyển sổ, hoặc ít nhất cũng phải được tập hợp đóng thành sổ biên bản. Tuy nhiên, với phương tiện máy vi tính như ngày nay, ít công ty thực hiện việc ghi chép bằng tay vào sổ như trước kia. Không thể tránh khỏi băn khoăn trước cách làm “khác” luật hiện nay, trong khi chưa có văn bản nào giải thích thế nào là “sổ biên bản”.
Điều 106.3 LDN cũng quy định: “Biên bản họp ĐHĐCĐ phải được gửi đến tất cả cổ đông trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày bế mạc cuộc họp”. Trên thực tế hầu như không có doanh nghiệp nào gửi Biên bản cho cổ đông. Cá nhân người viết chưa bao giờ nhận được Biên bản họp ĐHĐCĐ trong gần 20 cuộc họp trực tiếp tham gia.
Thứ năm, những sai sót về thủ tục ảnh hưởng đến nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ: Thủ tục là điều kiện cần thiết để bảo đảm giải quyết đúng đắn về nội dung. Nếu không thực hiện đúng những quy định về trình tự, thủ tục liên quan đến việc họp ĐHĐCĐ, thì có thể dẫn đến hậu quả là quyết định của ĐHĐCĐ bị Toà án hoặc Trọng tài huỷ bỏ theo yêu cầu của cổ đông, thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS theo quy định tại LDN [17, Điều 107] .
Thứ sáu, những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề biểu quyết tại cuộc họp: Hiện tại vẫn chưa thấy quy định nào của Nhà nước về vấn đề biểu quyết tại cuộc họp ĐHĐCĐ nhưng xem ra đây là vấn đề không đơn giản. Mặc dù vậy, tất cả các cuộc họp của ĐHĐCĐ của mọi công ty vẫn tiến hành trôi chảy, không thấy công ty hay cổ đông nào than phiền về việc lấy ý kiến biểu quyết của các cổ đông. Thực tế cho thấy, việc tổ chức lấy ý kiến cổ đông chỉ là hoạt động tượng trưng và ước lệ. Trong các cuộc họp ĐHĐCĐ của các Công ty có vài trăm cổ đông (chưa nói đến công ty hàng ngàn cổ đông) ai có thể đếm chính xác được số phiếu đồng ý/không đồng ý/ý kiến khác? Cơ chế giám sát nào cho hoạt động bỏ phiếu? Tôi đã chứng kiến nhiều cuộc họp ĐHĐCĐ của CTCP Bất động sản tài chính dầu khí (Nhà nước chiếm trên 50% phần vốn Điều lệ), một số cổ đông bên ngoài thậm chí đã không thèm giơ phiếu biểu quyết nhưng vẫn thấy Chủ tọa xướng lên rằng 100% số đại biểu tham dự đồng với nội dung này. Vẫn biết, quyền lực luôn thuộc về phe đa số nhưng dù thế nào, phe thiểu số vẫn cần được thông tin công khai, minh bạch và xác đáng.
Sao y Điều 20 và 21 của ĐLM, các công ty chính thức chấp nhận ràng buộc mình trong việc luôn luôn phải tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ đối với những vấn đề quy định tại Điều 20 cho dù theo Điều 21 thì HĐQT có quyền lấy ý kiến cổ đông bằng văn bản để thông qua quyết định của ĐHĐCĐ bất cứ lúc nào (chứ không phải bất cứ vấn đề gì) nếu xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty. Trên thực tế, vẫn có CTNY gửi văn bản xin ý kiến cổ đông về bầu bổ sung thành viên HĐQT sau khi có một thành viên rút lui.
Thứ bảy, vướng mắc về tỷ lệ biểu quyết trong cuộc họp ĐHĐCĐ: Giống như vướng mắc về tỷ lệ tham gia để tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ hợp lệ, tỷ lệ biểu quyết thông qua các quyết định tại cuộc họp ĐHĐCĐ vẫn chưa có hồi kết: một tỷ lệ 51 % theo Nghị quyết 71 hay phải là 65% và 75% như LDN và ĐLM?
Con số 65% tổng số cổ phần quyền biểu quyết của tất cả các cổ đông dự họp chấp thuận khi thông qua tại Điều 104.2 và Điều 104.3 LDN 2005 vẫn làm cả doanh nghiệp, nhà quản lý và cơ quan tài phán lúng túng [39]. Nếu những vấn đề tại Điều 104.2 (ngoại trừ các vấn đề được nêu tại Điều 102.3b) phải được ít nhất 65% tổng số cổ phần quyền biểu quyết của số cổ đông dự họp chấp thuận thì việc bầu dồn phiếu còn có ý nghĩa gì nữa không? Các vấn đề không được nêu rõ tại Điều 104.2 thì phải đạt tỷ lệ bao nhiêu thông qua mới được coi là hợp lệ? Những vướng mắc trên vẫn chưa có lời giải đáp. Nhiều cổ đông nắm giữ ít cổ phần không quan tâm tham dự và cũng không thực hiện quyền của mình đến nơi đến chốn. Thời gian qua rất nhiều doanh nghiệp phải tổ chức cuộc họp ĐHĐCĐ tới lần thứ 2, thậm chí thứ 3 mới thành công do tỷ lệ biểu quyết không đạt theo quy định. Thậm chí có cổ đông và doanh nghiệp còn đưa nhau ra tòa [40].
Về Hội đồng quản trị: HĐQT trong các CTNY ở Việt Nam phổ biến là 5 thành viên (chiếm đến trên 90% tổng số các CTNY và thường là những người có trình độ chuyên môn cao. Đại đa số thành viên HĐQT cũng đều là cổ đông lớn của công ty. HĐQT nhìn chung rất tập quyền và về cơ bản nắm giữ, chi phối quyền của ĐHĐCD, quyền của bản thân HĐQT và quyền điều hành của GĐ/TGĐ.
Quyền và trách nhiệm của HĐQT: ĐLM có nhiều quy định mà HĐQT “lạm quyền” của ĐHĐCĐ. Thực tế cũng cho thấy rõ điều này. Tuy HĐQT có nhiều quyền lực nhưng vai trò chưa tương xứng. Chức năng, quyền hạn của HĐQT theo LDN 2005 là tập trung vào các vấn đề chiến lược và định hướng chiến lược, vốn và cơ cấu vốn, nhân sự chủ chốt, giám sát quản lý điều hành và đánh giá kết quả của các bộ phận trong doanh nghiệp song hiệu quả hoạt động của HĐQT còn thấp: HĐQT của nhiều công ty còn thiên về điều hành hơn là quản lý, thiên về lợi ích ngắn hạn và lợi ích cá nhân hơn lợi lâu dài và lợi ích tập thể.
Việc bầu Phó Chủ tịch HĐQT: Luật không quy định và thực tế cũng không cần có chức danh này, cổ đông không bầu ra họ nhưng hơn một nửa số CTNY có Phó Chủ tịch HĐQT. Điều này có lẽ cũng dễ hiểu đối với một đất nước có văn hóa trọng chức vị và quyền lợi thay vì đánh giá cao chất lượng công việc như Việt Nam. Không có quy định đặc thù nào cho chức danh trên nhưng Phó Chủ tịch HĐQT được hiểu là người làm những phần việc của Chủ tịch HĐQT khi vị này vắng mặt. Người đứng ở vị trí Phó Chủ tịch HĐQT sẽ có quyền và lợi ích chỉ thấp hơn Chủ tịch HĐQT nhưng cao hơn các thành viên khác. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Về thành viên HĐQT độc lập: Theo Quyết định 12 về Quy chế QTCT áp dụng cho CTNY và Quyết định 15 về ĐLM áp dụng cho CTNY, tính độc lập của thành viên HĐQT được thể hiện bằng quy định tối thiểu 1/3 tổng số thành viên HĐQT là độc lập không điều hành. Điều này nhằm mục đích hạn chế thành viên HĐQT kiêm nhiệm chức vụ trong bộ máy điều hành, ngăn ngừa các xung đột lợi ích trong công ty. Tuy nhiên, theo thống kê của HOSE, tính đến 31/03/2009, chỉ có 107/177 CTNY thực hiện bầu thành viên HĐQT độc lập không điều hành và chỉ có 99/177 công ty tách bạch giữa HĐQT và BGĐ. Điều này dẫn đến hệ quả là việc công bố thông tin của thành viên HĐQT chưa chủ động, chậm hoặc không công bố thông tin. Đây là một trong những vi phạm thường gặp trong công tác quản trị của các CTNY hiện nay. Ngay cả những doanh nghiệp có thành viên HĐQT độc lập nhưng vẫn thiếu thành viên HĐQT độc lập có trình độ và năng lực theo yêu cầu. Chúng ta còn thiếu cơ chế giám sát đối với thành viên HĐQT độc lập, giám sát giữa Điều lệ Công ty và thực tế hoạt động doanh nghiệp. Vì thế ĐLM hướng dẫn mang tính mẫu cho doanh nghiệp và cũng chỉ được doanh nghiệp làm mẫu lấy lệ. Câu chuyện của Parkway Holdings – một công ty dịch vụ y tế của Singapore, đã được Fortis – một công ty dịch vụ y tế của ấn Độ đang nắm giữ 24% cổ phần của Parkway, “hướng dẫn cách thức biểu quyết tại các cuộc họp” và cách xử lý của Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán Singapore (SIAS) được ông David Gerald, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc SIAS kể lại trong buổi hội thảo “Quản trị doanh nghiệp – cách tạo dựng giá trị” tại Thành phố Hồ Chí Minh phần nào cho thấy khoảng cách giữa trình độ của CTNY và cơ quan quản lý trong nước với một số TTCK phát triển trong khu vực [31]. Trong so sánh các tiêu chí về quản trị của doanh nghiệp Việt Nam với Malaysia, Singapore, Trung Quốc, ông Tom Chong – Phó TGĐ Công ty Ernst & Young Việt Nam cho rằng, tiêu chí về thành viên HĐQT độc lập tại Việt Nam còn thiếu cụ thể, nhiệm kỳ dài (theo nhiệm kỳ 5 năm, trong khi các nước khác là thường niên), vai trò trách nhiệm của thành viên HĐQT cũng không được xác định rõ ràng…
Nhìn chung, HĐQT trong các CTNY ở ta chưa phải là thể chế giám sát và cân bằng quyền lực giữa các bên trong công ty, đặc biệt là giữa chủ sở hữu và người điều hành. Thêm vào đó, đa số họ chưa phải là những người quản lý chuyên nghiệp mà họ vừa là người sở hữu, vừa là người quản lý. Họ vẫn quen và thiên về cách làm theo lối quản lý điều hành thuận tiện.
Các cơ quan giúp việc cho HĐQT: Việc sử dụng các Tiểu ban hay Thư ký tùy thuộc vào quy mô công ty, đường lối lãnh đạo và sử dụng nhân lực của mỗi doanh nghiệp. Phần lớn các CTNY trên TTCK non trẻ của Việt Nam đều là công ty quy mô nhỏ và vừa, hình thức tổ chức đơn giản nên HĐQT thường sử dụng chính các kết quả của các phòng /ban chuyên môn rồi sau đó họp bàn và quyết định mà không có các Ban chuyên môn giúp việc độc lập. Công việc của chức danh Thư ký Công ty hay Thư ký Giám đốc cũng chưa rõ ràng. Có những trường hợp vừa làm Thư ký HĐQT kiêm luôn Thư ký Giám đốc hoặc chọn một cán bộ/nhân viên của một ban/phòng nào đó kiêm Thư ký HĐQT
Về kiểm soát giao dịch: LDN 2005 quy định khá chi tiết, cụ thể các bên có liên quan của công ty và cả chế độ, cách thức kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan. Tuy vậy, việc kiểm soát các giao dịch loại trên trong thực tế còn yếu kém, thậm chí có thể nói chưa hiện diện trong quy chế QTCT ở nước ta. Cổ đông, thành viên HĐQT, các cơ quan thực thi pháp luật và xã hội nói chung chưa thực sự ý thức được sự tồn tại và tác hại của giao dịch tư đối với lợi ích công ty, cổ đông và những người khác nếu giao dịch của công ty với các bên có liên quan bị lạm dụng. Trong hầu hết các trường hợp, các công ty chưa xác định cụ thể những đối tượng thuộc diện bên có liên quan; chưa có cơ chế và cách thức thu thập, tập hợp, lưu trữ và quản lý hồ sơ về các bên có liên quan; chưa xác định danh tính cụ thể của từng bên có liên quan của công ty v.v…dẫn đến chưa xác định được cụ thể các giao dịch cần kiểm soát với các bên liên quan. Như vậy, yêu cầu công khai hóa và kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan hầu như chưa thực hiện được . Đây thực sự là một lỗ hổng lớn trong pháp luật về QTCT ở nước ta hiện nay.
Về Ban Kiểm soát: Hình thức cơ cấu quản lý nội bộ của BKS trong các CTNY là hợp lý và cân bằng, chủ yếu là 3 người và chiếm đến 95% các CTNY được khảo sát, số còn lại là 5 người.
Về lý thuyết, BKS thực hiện việc giám sát và kiểm soát nội bộ, trực tiếp giám sát HĐQT và BGĐ; BKS có vị trí và vai trò độc lập, có địa vị ngang bằng HĐQT; cùng chịu trách nhiệm trước cổ đông trong việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy: thành viên BKS chủ yếu là người lao động trong công ty. Họ chỉ là kiểm soát viên kiêm nhiệm và nhiệm vụ chính của họ có lẽ không phải là thực hiện giám sát giám sát quản lý nội bộ công ty mà là thực hiện công việc với vai trò là người lao động trong công ty. Như vậy, các thành viên BKS không độc lập, họ là những người cấp dưới và hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên HĐQT và TGĐ. Họ cũng không phải là người chuyên trách, có chuyên môn cao và giàu kinh nghiệm nghề nghiệp, không chuyên trách kiểm soát nội bộ công ty. Có thể nói, trong công ty, các thành viên BKS có vị thế, trình độ chuyên môn và có thể cả uy tín thấp hơn so với các thành viên HĐQT và TGĐ” [28, tr.323].
Với các đặc điểm nói trên, BKS trên thực tế khó hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ luật định và trở nên hình thức, thường chỉ là người “đóng dấu” cho HĐQT và TGĐ khi cần thiết. Vì vậy, thực trạng về BKS ở nước ta có lẽ cũng không khác nhiều so với Trung Quốc: chỉ tồn tại dưới hình thức “là người khách danh dự”, “người giám sát bị kiểm duyệt” chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập, có chuyên môn và có tính chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của HĐQT và BGĐ nhằm phục vụ cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông công ty [28, tr.324]. Có thể nói là trong tất cả các vấn đề xảy ra tại các CTCP bị phát hiện muộn màng hay bị “bịt miệng” đều do BKS bị vô hiệu hóa.
Về tình hình quản trị tại các CTNY: Khung pháp lý về QTCT ở Việt Nam được quy định trong LDN, LCK và các văn bản hướng dẫn thi hành. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Quy chế QTCT cho các CTNY tại Việt Nam. Tuy nhiên, với khuôn khổ pháp lý chưa thật đầy đủ đã khiến cho việc thực hiện các quy định về quản trị doanh nghiệp tại các CTNY hiện nay chưa cụ thể, thiếu đồng bộ và áp dụng quy chế quản trị chỉ là hình thức [37],[61].
Một trong những yêu cầu hàng đầu đối với CTNY là tính công khai và minh bạch. Nhưng theo bà Trần Anh Đào, Giám đốc Phòng Quản lý và thẩm định niêm yết của HOSE: hiện có tới 42% doanh nghiệp niêm yết trên HOSE không nộp báo cáo tài chính đúng hạn. Các vi phạm công bố thông tin khác cũng chiếm tỷ lệ khá cao, từ 8 – 31% [45].
Theo bà Hồ Thị Phương Tú – Phó giám đốc Phòng Quản lý niêm yết của HNX, việc vi phạm quy định về công bố thông tin là khá nhiều và phổ biến, ví dụ: theo quy định các công ty phải tổ chức ĐHĐCĐ trong vòng 4 tháng, chậm nhất là 6 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, thế nhưng chỉ còn 1 tháng nữa là hết hạn chót, vẫn còn khoảng 20% công ty nữa vẫn chưa tiến hành ĐHĐCĐ; nhiều ĐHĐCĐ trao quyền cho HĐQT quyết định những nội dung quan trọng như sửa điều lệ, bổ nhiểm kiểm toán độc lập, phát hành tăng vốn… Nhiều công ty chưa có chính sách, chương trình quan hệ với cổ đông hay các công ty không có cán bộ chuyên trách công bố thông tin theo quy định mà đa số đều là kiêm nhiệm. Báo cáo thường niên của nhiều công ty còn sơ sài, bỏ sót nội dung, như mức thù lao, thưởng của HĐQT cùng với đánh giá mối tương quan giữa thù lao và hiệu quả hoạt động của DN, tỷ lệ sở hữu cổ phần của HĐQT, Ban kiểm soát, Ban Giám đốc, cổ đông lớn… Có tới 42% CTNY trên HOSE không nộp báo cáo tài chính đúng hạn. Các vi phạm công bố thông tin khác cũng chiếm tỷ lệ khá cao, từ 8 – 31%. Chênh lệch báo cáo tài chính trước và sau khi kiểm toán của nhiều CTNY là rất lớn, thậm chí có trường hợp “chênh” tới 60%. Đặc biệt, trong báo cáo tài chính còn chưa chủ động giải trình về lỗ lãi, các khoản ngoại trừ của kiểm toán, chênh lệch giữa báo cáo tự lập và báo cáo đã được kiểm toán; báo cáo còn sai sót, sơ sài, không cập nhật trên website kịp thời và đăng báo theo quy định [45]. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Dự án “Thẻ điểm QTCT” (Corporate Governance Scorecard) do Tổ chức Tài chính quốc tế (IFC), Diễn đàn QTCT toàn cầu (GCGF) và UBCKNN tiến hành đối với 100 CTNY có giá trị vốn hóa chiếm 90% TTCK vào thời điểm 01/01/2009 (78 CTNY trên HOSE và 22 CTNY trên HNX) nhằm đánh giá thí điểm tình hình QTCT sau một năm thực hiện đã công bố kết quả nghiên cứu: Kết quả đánh giá của dự án cho thấy, so với chuẩn mực quốc tế về QTCT, điểm QTCT trung bình của các doanh nghiệp Việt Nam trong mẫu khảo sát là 43,9% (trên thang điểm 100%), trong đó cao nhất là 60,93% và thấp nhất là 20,5%. Trong số 100 công ty được khảo sát, có 80/100 công ty có mức điểm dưới trung bình. Qua đó cho thấy tình hình QTCT ở Việt Nam hiện nay đang ở mức thấp so với chuẩn mực quốc tế.
Điểm QTCT chưa tốt do các công ty có điểm thấp ở hai khía cạnh D (công bố thông tin và tính minh bạch) và E (trách nhiệm của HĐQT). Hai khía cạnh này có mức điểm trung bình tương ứng là 39,4% và 35,3%. Mặc dù có tích cực trong việc công bố thông tin, tuy nhiên mức độ công khai minh bạch chưa đảm bảo yêu cầu của cả luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Khía cạnh có điểm trung bình thấp nhất là C – vai trò các bên có quyền lợi liên quan – với mức điểm 29,2%. Nhận thức về quyền và vai trò các bên liên quan còn thấp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước đang phát triển khác. Về QTCT, các bên liên quan có vai trò trong việc cảnh báo sớm các tiêu cực, các vi phạm về QTCT. Hầu hết các công ty chưa có cơ chế để trao đổi và cảnh báo với HĐQT, BKS về các hành vi sai phạm của doanh nghiệp, cũng như chưa có các quy định bảo vệ bí mật và an toàn cho các bên liên quan khi thực hiện vai trò này.
Trong năm khía cạnh, khía cạnh B – đối xử bình đẳng với cổ đông – có mức điểm cao nhất là 65,1%. Mặc dù điểm trung bình cao, nhưng có khoảng cách khá lớn giữa công ty tốt nhất (86,1%) và công ty kém nhất (25%).
Khía cạnh A – quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản có mức điểm trung bình là 46,8%. Cổ đông có các quyền cơ bản được quy định rõ trong LDN, LCK, ĐLM và quy chế QTCT. Tuy nhiên, chuẩn mực của Việt Nam vẫn chưa đạt mức yêu cầu của các nguyên tắc QTCT quốc tế. Chúng ta có những bước tiến trong việc tạo điều kiện cho các hình thức bầu cử dồn phiếu, đề cử người dự thay. Tuy nhiên các cơ chế để cổ đông thực thi quyền của mình thì vẫn còn hạn chế, đặc biệt là điều kiện về thời gian tham gia phát biểu và bình luận trong ĐHĐCĐ, quyền bầu cử từ xa. Hầu hết các công ty đều không công bố biên bản họp HĐQT và ĐHĐCĐ. Do đó các công ty không được đánh giá cao về việc thực thi các quyền của cổ đông [33].
Nhìn chung, tất cả doanh nghiệp được khảo sát đều quan tâm đến QTCT nhưng chưa đặt trọng tâm vào các vấn đề của QTCT. Việc thực hiện chưa thực chất, chủ yếu còn ở mức cố gắng đảm bảo các yêu cầu của luật. Trong khi việc nâng cao chất lượng QTCT không chỉ đem lại lợi ích dài hạn cho công ty trong việc nâng cao hình ảnh, uy tín, mà còn mang lại sự thuận lợi trong việc huy động nguồn vốn. Nhiều quy định trong Điều lệ chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ: Từ năm 2008 đến đến 2011, tác giả đã có mặt trên 15 cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên của các CTNY hoặc với tư cách cổ đông hoặc với tư cách người lao động trong Công ty tổ chức cuộc họp song chưa thấy một công ty nào giới thiệu kiểm toán viên độc lập trong cuộc họp.
Theo nhận xét của Ông Nguyễn Thế Thọ, Vụ trưởng Vụ Quản lý phát hành thuộc UBCKNN thì QTCT đã bộc lộ rất nhiều hạn chế: Việc áp dụng ĐLM của các doanh nghiệp chỉ là hình thức, bởi đa phần là chép lại nguyên xi mà không có bất kỳ sự cụ thể hóa hoặc không căn cứ theo đặc điểm đặc thù của từng công ty, rất nhiều doanh nghiệp có Điều lệ giống nhau. Ngoài ra, nhà nước cũng chưa có cơ chế giám sát việc thực hiện giữa Điều lệ công ty và hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
QTCT là vấn đề mới với các công ty ở Việt Nam nói chung, CTNY nói riêng. Tuy nhiên, nếu chậm trễ trong việc thiết lập và tuân thủ một cơ chế quản trị hiện đại thì các CTNY hẳn còn lâu mới thực hiện được mục tiêu thu hút đầu tư và gia tăng giá trị.
3.2. Một số so sánh về pháp luật áp dụng cho các CTNY trên TTCK Việt Nam với một số nước trên thế giới Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Thị trường vốn, nơi trao đổi các lượng giá trị trung và dài hạn, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là cơ sở để tạo ra tiền đề vật chất cho quá trình sản xuất – kinh doanh. TTCK là kênh huy động nguồn lực tài chính trực tiếp. Huy động vốn thông qua TTCK tạo điều kiện cho người đầu tư trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm đối với nguồn vốn của mình, chia nhỏ các rủi ro của quá trình đầu tư, đạt hiệu quả tối ưu trong sử dụng vốn do có sự giám sát của nhà đầu tư. Nhận thức được tầm quan trọng của TTCK đối với quá trình tăng trưởng kinh tế, Nhà nước Việt Nam đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy thị trường này từ những năm 1990. Ở các nước phát triển, TTCK đã định hình và phát triển hơn 100 năm qua. Việc nghiên cứu, học hỏi về quản lý, điều hành TTCK là điều cần thiết vì đó là cơ sở pháp lý tạo dựng một TTCK hiện đại, lành mạnh.
3.2.1. So sánh với pháp luật Nhật Bản
Nghiên cứu pháp luật về chứng khoán của Nhật Bản, nơi có TTCK phát triển ở Châu Á với lượng hàng hóa đa dạng, có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về điều kiện địa lý, văn hóa hay tập quán mang đậm nét Á Đông. Là quốc gia có nền kinh tế đứng đầu châu lục và đứng vào hàng những nước phát triển nhất thế giới, Nhật Bản có TTCK ra đời sớm nhất so với các nước ở Châu Á, theo nguyên mẫu của TTCK London vào năm 1874. Cũng từ đây chỉ số chứng khoán Nikkei nổi tiếng đã hình thành. Điều này cho phép Nhật tập hợp được nguồn lực tài chính hùng mạnh để phát triển thị trường hàng hóa, tạo cơ sở cho sự lớn mạnh của toàn bộ nền kinh tế.
Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau, pháp luật về chứng khoán và TTCK Nhật Bản đã có những thay đổi, sửa đổi và bổ sung như hiện tại.
Nhật Bản, không có sự khác nhau rạch ròi về mặt pháp lý giữa Điều lệ của CTNY và CTCP thông thường như Việt Nam. Tất cả các vấn đề về việc thành lập, tổ chức và hoạt động, trách nhiệm của các cơ quan, chức danh chủ chốt trong công ty đến mua bán, sáp nhập… đều được quy định cụ thể và khá chặt chẽ trong Luật Công ty. Pháp luật chỉ đưa ra các quy định chung, các quy định cụ thể do từng SGDCK quyết định. CTNY không phải tuân thủ theo một văn bản như Quyết định 15 về ĐLM. Các CTCP, khi đáp ứng đủ các điều kiện quy định của từng sàn GDCK nếu muốn niêm yết thì làm hồ sơ gia nhập. Tất nhiên, để được niêm yết, các CTCP có thể cũng sẽ có những điều chỉnh nhất định trong tổ chức, hoạt động nhằm phù hợp và tuân thủ các quy định của Sàn GDCK. Tại Nhật, trước khi thành lập CTCP, người muốn thành lập phải chuẩn bị Hợp đồng thành lập Công ty (Preparation of Articles of Incorporation) [69, Điều 26], cụ thể: Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
- Để thành lập một CTCP, người tham gia thành lập sẽ chuẩn bị bản hợp đồng thành lập công ty và tất cả những người thành lập sẽ ký tên, đóng dấu vào bản hợp đồng đó (In order to corporate a stock Company, incorporators (s) shall prepare articles of incorporation, and all incorporators shaal or affix the name (s) and seal (s) to it.)
- Hoặc Hợp đồng thành lập công ty có thể được thực hiện theo hình thức sổ điện tự theo Pháp lệnh của Bộ tư pháp (Articles of incorporation set forth in the preceding paragraph may be prepared by Electromangetic Record (meaning records produced by electronic forms, mangetic forms, or any others forms unrecongizable by human senses, which are for Ministry of Justice. The same shall apply hereinafter). In cases, actions prescribed by the applicable Ordinance of the Ministry of Justice shall be taken in lieu of the singing or the affixing of the names and seals, with respect to tha data recorded in such Electromangetic Record).
Điều 27 Luật Công ty Nhật Bản quy định những vấn đề phải có trong Hợp đồng thành lập công ty hoặc Sổ điện tử bao gồm: Mục đích thành lập, tên thương mại, địa điểm trụ sở chính, vốn góp và mức vốn thấp nhất, tên và địa chỉ của từng người tham gia thành lập. Bên cạnh đó, nhiều nội dung cụ thể khác như cũng được đề cập trong Hợp đồng như: Góp vốn và thực hiện góp vốn, bầu thanh tra để kiểm tra nội dung của Hợp đồng, việc chuyển nhượng cổ phần để trở thành cổ đông của công ty, quy định về tổng số cổ phần được quyền phát hành, các quy định về bổ nhiệm và bãi nhiệm các vị trí quản lý trong công ty như GĐ/BGĐ, cố vấn kiểm toán, quyền và trách nhiệm bắt buộc của các vị trí, cơ quan …tạo thành và thúc đẩy sự phát triển của Công ty. Luật Công ty Nhật Bản với 979 điều quy định chi tiết về tổ chức, hoạt động của Công ty: quyền và nghĩa vụ của các chức danh, vị trí trong công ty, cái gì phải làm như thế nào và ai được làm những gì, phải làm những gì, làm khác hoặc sai những điều đó mà gây thiệt hại đều có thể bị truy cứu trách nhiệm. Luật nêu rõ quyền khác biệt của những người sáng lập công ty với các cổ đông thông thường khác (những người trả tiền mua cổ phiếu đã được phát hành từ những người sáng lập). Tất nhiên, Luật cũng có những quy định mở, quy định tùy nghi để doanh nghiệp lựa chọn cách xử sự được cho là phù hợp với mình nhất. Tất cả các vấn đề liên quan đến điều hành, tổ chức, hoạt động cần được đưa và chỉ rõ trong Hợp đồng thành lập doanh nghiệp. Nếu thiếu các quy định cụ thể trong Hợp đồng, đương nhiên được hiểu là doanh nghiệp đã chấp nhận lựa chọn phương án do Luật Công ty đưa ra. Hợp đồng thành lập công ty theo pháp luật của Nhật Bản phải được sự xác nhận của công chứng nhà nước và có nội dung tương tự như Điều lệ công ty của Việt Nam.
Hiện ở Nhật có 8 sở GDCK. Chủ thể phát hành chứng khoán được quyền niêm yết chứng khoán tại sở GDCK khi hội đủ điều kiện của từng sở giao dịch. Sở GDCK có thẩm quyền giám sát các CTNY để bảo đảm thông tin về giá và giao dịch được phù hợp, cụ thể: xem xét, kiểm tra bản cáo bạch do các công ty cung cấp theo quy định của LCK, nhằm bảo đảm rằng bản cáo bạch về tài chính đầy đủ thông tin và chính xác. Tính đến đầu năm 2004, có 2.432 CTNY ở Nhật. Ngoài ra, còn có hơn 858 công ty phát hành cổ phiếu được giao dịch qua OTC. Điều kiện để niêm yết chứng khoán tuân theo các quy định SGDCK ban hành, không do luật khung quy định như ở Việt Nam. Chẳng hạn, để được niêm yết ở Sở GDCK Tokyo, chủ thể phát hành phải hội đủ điều kiện:
- Số cổ phiếu niêm yết phải lớn hơn 6.000.000 (20.000.000 cổ phiếu đối với trường hợp có nơi hoạt động kinh doanh chính ở ngoài Tokyo);
- Số cổ đông không ít hơn 1.000 và số cổ đông đặc biệt không nắm giữ nhiều hơn 70% số cổ phiếu của công ty;
- Tổng vốn huy động từ 1 tỉ Yên trở lên và mệnh giá mỗi cổ phiếu là Yên;
- Lợi nhuận ròng trong 3 năm trước đó phải đạt đến mức ổn định;
- Đã trả cổ tức của 3 năm trước đó và có khả năng duy trì mức cổ tức tối thiểu là 5 Yên [48].
Các quy định trong Luật Công ty của Nhật Bản nhìn chung khá chặt chẽ. Ví dụ như: Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
- Về quyền của cổ đông: Tương tự như ở Việt Nam, quyền của cổ đông Nhật đối với mỗi loại cổ phần là khác nhau: Điều 104(1) quy định cổ đông có quyền (i)nhận cổ tức, (ii) nhận phần tài sản còn lại, (iii) quyền bỏ phiếu tại cuộc họp ĐHĐCĐ và Điều 104(2) quyền (i) và (ii) sẽ không có hiệu lực đối với những cổ đông cụ thể. Thậm chí ở một khía cạnh nào đó, việc bảo vệ cổ đô thiểu số ở Nhật Bản còn hữu hiệu hơn ở Việt Nam trên phương diện lý thuyết pháp luật khi mà cổ đông có một cổ phần vẫn có quyền yêu cầu công ty khởi kiện truy cứu trách nhiệm thành viên HĐQT. Và trong vòng 60 ngày, nếu công ty không khởi kiện thì cổ đông đó có quyền khởi kiện nhân danh công ty. Riêng cổ đông có 1% số cổ phiếu sẽ có các quyền: bổ sung nội dung chương trình cuộc họp ĐHĐCĐ; yêu cầu tòa án chỉ định kiểm soát viên điều tra về thực trạng tài sản, nếu có nghi ngờ về vi phạm pháp luật, trái điều lệ hoặc các sai trái khác trong hoạt động kinh doanh hoặc quản lý công ty. Cổ đông nắm trên 3% số vốn trong 06 tháng có quyền yêu cầu tòa án bãi miễn thành viên HĐQT có sai lầm hoặc vi phạm Điều lệ Công ty. Ngoài ra, chỉ cần nắm một tỷ lệ nhất định (3%), với những chứng cứ đưa ra hợp lý, cổ đông/nhóm cổ đông có thể bãi miễn được thành viên HĐQT tư lợi hoặc có hành vi sai trái. Cổ đông với 10% sở hữu có quyền tiếp cận đến hầu như toàn bộ thông tin của Công ty. Đây là những điều mà cổ đông Việt Nam nằm mơ cũng không có được, nhất là khi cơ cấu quyền lực của HĐQT thuộc về cổ đông lớn. Đặc biệt, việc bầu dồn phiếu là tự nguyện, được quy định trong Hợp đồng thành lập công ty, không mang tính chất bắt buộc như ở Việt Nam [28]. Song, trên thực tế, với cơ cấu vốn chủ yếu thuộc về số ít cổ đông là các đại gia, các tổ chức tài chính lớn, các bạn hàng, chủ nợ lớn (thường chiếm đến trên 60% phần vốn của CTNY) và đồng thời các cổ đông lớn này cũng là những người giữ vị trí quản lý trong công ty nên quyền lực cũng như mọi tổ chức và điều hành về hoạt động của công ty đều trong vòng phong tỏa của họ. Cổ đông nhỏ tuy số lượng nhiều nhưng vốn lại ít nên hầu như không có khả năng và điều kiện để thực hiện quyền gì và cũng xem như không có quyền. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền của cổ đông Nhật trong thực tế, đặc biệt là cổ đông thiểu số, cũng không dễ dàng. Thêm vào đó, với văn hóa sống và làm việc của người Nhật, thông tin của công ty ít khi được tiết lộ ra ngoài bất kể xấu tốt. Các phiên họp hàng năm của cổ đông chỉ là hình thức hay chiếu lệ. Các công ty thi đua với nhau xem ai họp ĐHĐCĐ ngắn nhất. Khoảng 90% công ty của Nhật họp ĐHĐCĐ trong cùng 01 ngày. Vì tài liệu về phiên họp chỉ được phân phát trước hai tuần, và giấy ủy quyền của cổ đông lại phải gửi đến công ty trước ngày họp, nên chỉ di chuyển không thôi, các cổ đông khó lòng tham dự được quá hai ba nơi. Kết quả là cuộc họp của ĐHĐCĐ cũng chỉ là chiếu lệ, kéo dài khoảng 30 – 40 phút. Ngay cả khi các GĐ phạm lỗi hay điều hành yếu kém thì các cổ đông cũng thường không phải là người đòi hay thay đổi mà chỉ có chủ nợ lớn mới làm được vì các chủ nợ lớn nắm thông tin nhiều hơn cá nhân. Việc thay đổi diễn ra cũng kín đáo và không làm cho công ty mang tai tiếng. [28, tr.368].
- Về cổ phần bị hạn chế chuyển nhượng: Luật Việt Nam hạn chế chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần của CĐSL. Ngoài ra, tại Điều lệ của một số công ty còn áp dụng việc hạn chế chuyển nhượng CPPT của cán bộ chủ chốt trong công ty, cổ phần mà người lao động mua theo giá ưu đãi, mua trả chậm, cổ phần của cổ đông chiến lược… trong một thời hạn nhất định, thường là từ hai đến ba năm [32][60]. Tại Nhật Bản, hạn chế chuyển nhượng cổ phần nhằm nhiều mục đích khác nhau và được chia thành ba loại:
Loại thứ nhất: Hạn chế chuyển nhượng cổ phần theo quy định pháp luật. Đây là những hạn chế mang tính tuyệt đối, chủ yếu nhằm hạn chế việc sở hữu cổ phần gây cản trở đến trật tự cạnh tranh tự do công bằng, tạo tiền đề để nhiều đối tượng có thể sở hữu cổ phần của công ty và tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành và hoạt động của công ty.
Loại thứ hai: Hạn chế chuyển nhượng cổ phần theo Điều lệ. Công ty có thể hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần của mình cho nhiều đối tượng bằng việc quy định trong Điều lệ rằng “chuyển nhượng cổ phần phải có sự chấp thuận của HĐQT” và khi cổ đông muốn chuyển nhượng cổ phần bị hạn chế chuyển nhượng phải tuân thủ một số trình tự nhất định [66, Điều 204.1] .
Loại thứ ba: Hạn chế chuyển nhượng cổ phần theo hợp đồng. Do các bên thỏa thuận trong hợp đồng về việc cổ đông nắm giữ cổ phần không được tự do chuyển nhượng cho người khác.
Có thể nói, do truyền thống kinh doanh ở Nhật với những tập đoàn gia đình thống trị, với nền văn hóa chú trọng quan hệ hợp tác nhóm khiến cho mối ràng buộc nội bộ chặt chẽ, nên việc công khai hóa những thông tin dường như chưa đầy đủ và rất dễ có sự liên thông trong cùng tập đoàn cho nên TTCK Nhật Bản dù lâu đời song vẫn chưa được xem là thị trường hấp dẫn với nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
3.2.2. So sánh với pháp luật Mỹ Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Các Công ty ở Mỹ được coi là cỗ máy phải tạo ra tiền bạc trong khuôn khổ của một thị trường tài chính và mang một trách nhiệm lớn với cổ đông của họ. Ở Mỹ, cổ đông được bảo vệ và có tiếng nói khá mạnh trong việc quản lý công ty. Quyền lực của cổ đông Mỹ được thể hiện qua giá cả chứng khoán. Công ty làm ăn mà có dấu hiệu thua lỗ là giá chứng khoán xuống ngay. Về mặt lý thuyết HĐQT trong các công ty Mỹ đại diện cho quyền lợi của cổ đông nhưng thực tế, công việc của HĐQT cũng không thoát khỏi chức năng điều hành vì Chủ tịch HĐQT cũng thường là Giám đốc. Điều này khá giống với vai trò của HĐQT trong luật Việt Nam.
Vai trò của BKS trong các công ty của Mỹ khác với ở Việt Nam. Ban này hoạt động giống như một “cầu nối” hay “người liên lạc” giữa HĐQT với kiểm toán viên độc lập bên ngoài, và công tác đó được coi là quan trọng đối với sự hoạt động hữu hiệu của HĐQT. Tất cả thành viên HĐQT đều muốn biết khi công ty được kiểm toán thì có những vấn đề gì xảy ra, và họ sợ rằng có thể có một thành viên kiêm nhiệm nào đó đầy quyền lực, như GĐ tài chính hay TGĐ, thân thiện với kiểm toán viên và giải quyết mọi vấn đề trước khi chúng được đặt lên bàn của hội đồng. BKS sẽ giúp ngăn chặn việc này. BKS do HĐQT thành lập ra từ đa số hoặc toàn bộ các thành viên không kiêm nhiệm. Thông thường, BKS họp từ ba đến 4 lần một năm để thảo luận chi tiết về các về các vấn đề được kiểm toán, xem xét các tranh cãi đã xảy ra về các tài khoản, bút lục và nhận những kiến nghị của kiểm toán viên về các vấn đề đã được kiểm toán. Với tư cách là cơ quan thuộc HĐQT – cơ quan quản lý của cổ đông, BKS tại Mỹ có những quyền năng thực sự, họ được tham gia và quuyết định về việc lực chọn kiểm toán hay mặc cả chi phí kiểm toán. Pháp luật về Thị trường chứng khoán New York đòi hỏi các công ty phải có BKS gồm toàn những thành viên không kiêm nhiệm như là các điều kiện để được đăng ký. Sau khi xảy ra các vụ Enron, WorldCom thì ở Mỹ đã có những lời yêu cầu phải gia tăng vai trò của BKS, bắt họ phải chịu trách nhiệm về việc đề cử kiểm toán viên và làm tròn các chức năng của việc chỉ đạo công ty về việc giám sát BGĐ [28,tr.297].
Văn bản hướng dẫn LDN 2005 gần đây nhất, Nghị định 102 đã bổ sung quyền của cổ đông như sau, theo đó cổ đông/nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền yêu cầu BKS khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ khi những người này đã thực hiện nhiệm vụ một cách bất hợp pháp làm thiệt hại đến lợi ích cổ đông. Quy định trên là cần thiết, nhằm đảm bảo quyền của cổ đông cũng như tính minh bạch trong hoạt động công ty của Việt Nam. Đặc biệt vào thời điểm TTCK Việt Nam đang trải qua giai đoạn trầm lắng kéo dài, chúng ta đang nỗ lực để phục hồi thị trường nhằm thu hút đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam đồng thời đưa pháp luật và TTCK Việt Nam tiến gần với quốc tế.
Với tư cách và góc đứng của một thị trường quốc tế, nơi đón tiếp và sản sinh cho thế giới những doanh nghiệp hàng đầu, TTCK Mỹ là một thị trường mang tính quốc tế nhất mà ở đó những thủ tục mang tính hành chính địa phương bị loại bỏ, thay vào đó là những quy định, những điều kiện để lựa chọn niêm yết cho những công ty mạnh nhất, tiềm năng nhất từ khắp nơi trên thế giới. Vì vậy, việc niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ không phải là một điều khó khăn: chỉ cần một Bản Cáo bạch có luật sư chuyên về chứng khoán và một kiểm toán gia có tên trong danh sách của PCAOB ký nhận là SEC (Cơ quan Chứng khoán Mỹ) sẽ chấp nhận đơn xin niêm yết. Không một đòi hỏi nào khác về doanh thu, lợi nhuận, lịch sử của doanh nghiệp, giấy phép đặc biệt hay những gì khác.
Trong môi trường chứng khoán Mỹ, để trở thành những công ty tài năng, các CTNY của Mỹ phải tuân thủ những chuẩn mực nghiêm khắc nhất trong tổ chức và điều hành hoạt động để đảm bảo mọi thông tin của công ty đến được cổ đông và các công ty chịu trách nhiệm to lớn trước cổ đông. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Mỹ, luật Công ty là luật của tiểu bang. Luật liên bang có hai đạo luật là Luật Chứng khoán ra đời năm 1933 (Securities Act), Luật Mua bán Chứng khoán được ban hành năm 1934 và chúng đều điều chỉnh một số quan hệ nội bộ của công ty. Do nhu cầu thống nhất hóa luật lệ nên có hơn 30 bang áp dụng Luật mẫu về Công ty do Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ soạn vào năm 1950. Đến năm 1948, văn bản này được sửa đổi và có tên mới là Luật mẫu về Công ty hiệu chỉnh (Revised Model Business Corrporation Act). Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả chủ yếu sử dụng các thông tin của Luật mẫu về Công ty hiệu chỉnh. Cũng như pháp luật Việt Nam, Điều lệ về tổ chức và hoạt động của các công ty là văn bản bắt buộc phải có khi thành lập công ty, trong đó xác định những vấn đề mấu chốt về cổ đông sáng lập, quyền và trách nhiệm các cổ đông. Luật Công ty đưa ra các vấn đề cơ bản về tổ chức, hoạt động của công ty nhưng lại không can thiệp vào tổ chức nội bộ của công ty, công việc đó được giao cho HĐQT.
Công ty được tạo lập từ ba thành phần: cổ đông là người bỏ tiền, HĐQT là người được giao giữ tiền và TGĐ là người dùng tiền để kinh doanh. Mục tiêu của cổ đông khi đầu tư vào công ty sẽ quyết định giới hạn mà họ đặt ra cho người giữ tiền, người sử dụng tiền. Mục tiêu cuả công ty luôn luôn là lợi nhuận cho chính công ty và gia tăng vốn đầu tư của cổ đông. Hai mục tiêu này không tách rời nhau mà luôn thúc đẩy lẫn nhau. Người quản lý và người điều hành phải lấy mục tiêu này làm mục tiêu của mình khi tham gia vào công ty.
Khác với Mỹ, gần như 100% các CTNY ở Việt Nam đều có cổ đông là thành viên HĐQT và Ban điều hành hoặc là người lao động của công ty. Trong khi đó ở Mỹ, xuất phát từ sự phát triển của thị trường và nền văn hóa, điều kiện lịch sử địa lý mà cổ đông Mỹ phần lớn chỉ là những NĐT. Cổ đông Mỹ giao quyền quản lý và điều hành cho những cá nhân khác, coi những người này là đại diện kinh doanh cùng với những chia sẻ lợi ích, họ chỉ giữ lại một số quyền tối thiểu để tự bảo vệ mình, đồng thời ràng buộc trách nhiệm vào người đại diện của mình. NĐT Mỹ hướng tới là sự phát triển của công ty hay chính là giá trị gia tăng của tiền đầu tư chứ không phải là cổ tức hay quyền quản lý. Vì thế, quyền của cổ đông Mỹ không nhiều nhưng thiết thực. Thông thường, quyền của cổ đông gồm: (1) quyền bán cổ phiếu, (2) quyền bầu người đại diện, (3) quyền kiện đòi bồi thường khi người đại diện không hoàn thành nghĩa vụ, (4) quyền xem xét một số thông tin và (5) quyền được chia phần tài sản còn lại khi công ty đã thanh toán hết nợ nần trong trường hợp giải thể hay phá sản. Việc chọn, bầu và bãi nhiệm thành viên HĐQT của công ty là quyền lớn nhất của cổ đông để lựa chọn ra người đại diện tin tưởng bảo vệ và phát triển được lợi ích của mình đồng thời có quyền bãi nhiệm thành viên HĐQT hay cả HĐQT bất cứ lúc nào mà không cần lý do. Luật pháp của Mỹ cho phép làm như vậy trừ khi Điều lệ công ty quy định khác. Như vậy, tất cả các vấn đề trong tổ chức, điều hành của công ty hoặc được quy định chi tiết trong Luật để Công ty tự động áp dụng nếu Điều lệ Công ty không quy định khác hoặc mang tính gợi mở để cổ đông hoặc HĐQT (nếu được ủy thác) lựa chọn.
Như đã đề cập, TTCK Mỹ vốn là một thị trường mở nên khi các công ty muốn niêm yết và có đủ điều kiện (vì các loại chi phí để tồn tại được trên các Sở GDCK của Mỹ không hề rẻ) là có thể tham gia. Đương nhiên, Mỹ cũng không có một văn bản như Quyết định 15 đối với CTNY như chúng ta đang làm. Khi đã thực hiện niêm yết, các công ty của Mỹ bắt buộc phải tuân thủ các chuẩn mực chung về trách nhiệm của công ty, trách nhiệm của người quản lý, người điều hành, quyền của cổ đông, các thủ tục cần thiết… (ngoại trừ một số quy định mang tính tùy nghi) bất kể việc công ty có đưa vào Điều lệ hay không. Luật pháp của Mỹ đặc biệt lưu ý bảo vệ quyền của các cổ đông có vốn ít để họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình: họ có quyền bầu dồn phiếu để cử đại diện của mình trong HĐQT, có quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần với giá công bằng trong các trường hợp cụ thể. Cuối cùng, để cưỡng chế việc thực hiện quyền của mình, cổ đông có thể kiện ra tòa. Điều này, mãi gần đây mới được thể chế trong văn bản hướng dẫn của LDN Việt Nam.
Mỹ, tính hiệu lực và khả năng cưỡng chế thi hành của các hạn chế về chuyển giao cổ phiếu được thừa nhận rộng rãi trên thực tế và quy định công khai trong Luật công ty Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chúng chỉ được áp đặt đối với các cổ đông tán thành các quy định đó, dưới hình thức những hạn chế đặt ra khi phát hành cổ phiếu lần đầu hoặc các thỏa thuận hay quy định trong điều khoản thành lập công ty được các cổ đông có cổ phiếu bị hạn chế tán thành, chúng cũng chỉ có hiệu lực thi hành đối với những người chuyển giao tương lai khi thông báo về hạn chế chuyển giao được nêu rõ trong chứng nhận cổ phiếu [27, tr.533].
Tổ chức của các thư ký công ty tại Mỹ có vị trí quan trọng. Nơi này đề nghị rằng vai trò của thư ký công ty là tổ chức các phiên họp của HĐQT, của cổ đông, lưu giữ sổ sách của công ty, sổ sách liên quan đến cổ đông và phụ trách việc công ty phát hành chứng khoán ra công chứng. Tổ chức đó còn cho rằng thư ký công ty sẽ là người liên lạc chính giữa HĐQT và Ban GĐ/TGĐ. Thư ký Công ty không cần phải là một nhân viên của công ty mà có thể là một người ngoài vào, người này thường là cố vấn pháp luật của công ty.
3.2.3. So sánh với pháp luật Singapore. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
Cũng như Mỹ, Singapore là một nền kinh tế mở. Với đất đai hạn hẹp và tài nguyên nghèo nàn, Singapore giàu lên từ việc thu hút các nguồn tài nguyên, dịch vụ phi vật chất từ khắp nơi trên thế giới đổ về bằng cơ sở vật chất và lao động hiện đại nhất, những ưu đãi và điều kiện thuận lợi nhất của chính quyền Singapore dành cho NĐT. Giống như London, New York, Singapore có thị trường tài chính dành cho các công ty lớn và một thị trường thứ cấp dành cho các công ty mới thành lập nhưng có tốc độ phát triển nhanh và mạnh mẽ. Tổng quy mô vốn hóa toàn thị trường Singapore từ năm 2000 đến thời điểm tháng 06 năm 2007 đã tăng gấp 9 lần, tức là từ 600 triệu USD lên 5,5 tỷ USD. Có 718 công ty đang niêm yết cổ phiếu tại thị trường này, trong đó 66% là công ty trong nước [53].
Là một TTCK mang tính quốc tế, thủ tục pháp lý để niêm yết tại SGDCK Singapore (SGX) không quá phức tạp nhưng để niêm yết tại đây, doanh nghiệp nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện:
- Phải có mức vốn hóa khoảng 15 triệu USD, lợi nhuận cộng dồn trước thuế cho 3 năm gần nhất là 7,5 triệu đô la Singapore (S$)
- Có ít nhất 1.000 cổ đông (ít nhất 2.000 cổ đông với doanh nghiệp niêm yết “thứ cấp” – đã giao dịch ở trong nước sang SGX);
- Tình trạng tài chính lành mạnh với các hoạt động tạo ra luồng lưu chuyển tiền tệ dương;
- Theo các chuẩn mực kế toán Singapore, Mỹ, hoặc quốc tế;
- Có hai ủy viên HĐQT độc lập là người cư trú tại Singapore (có thể xem xét một số trường hợp linh hoạt) của DN niêm yết Việt Nam đại diện tại đó để xử lý những vấn đề về quan hệ cổ đông và công bố thông tin.
- Các nghĩa vụ có tính liên tục, tuân thủ theo các quy định niêm yết của cả Việt Nam và Singapore;
- Về QTCT, áp dụng theo Bộ tiêu chuẩn QTCT của Singapore;
- Chi phí niêm yết: Mức phí thấp nhất là 50.000 S$ và cao nhất là 200.000S$. Phí nộp hồ sơ xin niêm yết trên sàn giao dịch chính (GDBC) hoặc trên Catalist là 20.000 S$ và không hoàn lại. Ngoài ra, mỗi năm DN phải nộp tối thiểu 50.000 S$ và cao nhất 200.000 S$ [62].
Năm 2007, Sở GDCK Singapore đưa sàn Catalist (được chuyển đổi từ sàn Giao dịch SESDAQ – Sàn Giao dịch thứ 2 của SGX) vào hoạt động với các điều kiện thông thoáng hơn: Không đặt ra tiêu chuẩn về tài chính, không hạn chế về quy mô công ty nhưng yêu cầu các công ty phải niêm yết qua nhà bảo lãnh, phạm vi phát hành thông thoáng hơn khi chỉ yêu cầu công chúng nắm giữ trên 15% vốn cổ phần sau khi phát hành hoặc 500.000 cổ phiếu, phải có ít nhất phải có 200 cổ đông tại thời điểm IPO ( initial public offer), công chúng phải nắm giữ 10% vốn cổ phần sau IPO, Ban lãnh đạo có ít nhất 02 nhà điều hành độc lập. Đối với công ty nước ngoài, phải có ít nhất một trong số những nhà điều hành độc lập, cư trú tại Singapore. CĐSL không được bán cổ phiếu nếu số cổ phiếu họ có ít hơn 50% số vốn phát hành tại thời điểm IPO; hoặc sau khi bán cổ phiếu, số cổ phiếu họ nắm giữ sẽ chỉ còn dưới 50% số vốn phát hành tại thời điểm niêm yết…
Luật Công ty Singapore có những nét tương đồng với Luật các nước Anh, Mỹ trong đó đề cao tính chịu trách nhiệm của HĐQT, CEO, vai trò của BKS nhằm thực hiện sự ủy quyền của cổ đông một cách trung thực, mẫn cán vì lợi ích của cổ đông. Các quy định trong Luật Công ty Singapore khá rõ ràng, cụ thể và có cơ chế kiểm soát tương đối chặt chẽ. Vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp tại Singapore diễn ra khá minh bạch. Bản ghi nhớ (Memorandum) và Điều lệ hoạt động của Công ty (Article Association) được coi là những tài liệu pháp lý mang tính “hiến pháp” của Công ty.
Kết luận chương 3:
Tại chương 3, tác giả tập trung vào khảo sát Điều lệ của 39 CTNY trên TTCK Việt Nam trên 2 phương diện: việc “nội luật hóa” – chuyển hóa các văn bản pháp luật của Nhà nước để trở thành “luật” của chính công ty; việc chấp hành các quy định pháp luật của Nhà nước, Điều lệ của các CTNY trên thực tế nhằm đưa ra cái nhìn sâu và toàn diện hơn về việc tuân thủ, áp dụng pháp luật của CTNY trên TTCK Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc tìm hiểu và so sánh với pháp luật áp dụng cho các CTNY với một số nước trên thế giới cũng nhằm góp phần hướng đến việc xây dựng một hệ thống luật Việt nói chung, luật kinh doanh nói riêng hoàn thiện hơn. Luận văn: Thực trạng khảo sát điều lệ của các Cty chứng khoán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp đề xuất các ý kiến điều lệ cho Cty CK