Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
Những năm gần đây, các ngân hàng thương mại trong nước đã có những bước tiến mạnh mẽ trong phát triển dịch vụ ngân hàng. Phát triển ngân hàng bán lẻ đang là một xu thế đối với các NHTM hiện nay nhằm tăng cường sự hiện diện, gia tăng
thị phần, nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng. Năm 2010 được đánh giá là năm các ngân hàng thương mại tích cực đẩy mạnh loại hình dịch vụ này, tăng cường tiếp cận với nhóm khách hàng cá nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều nhà băng tích cực mở rộng kênh phân phối bán lẻ qua khai trương các chi nhánh và phòng giao dịch nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu đang tăng cao của dân cư và các doanh nghiệp.
Dưới áp lực cạnh tranh về cung cấp dịch vụ ngân hàng, hướng tới mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ hiện đại, đa năng chiếm lĩnh thị trường nội địa, thì việc khai trương các chi nhánh và phòng giao dịch mới là sự cụ thể hoá của định hướng này. Nhiều ngân hàng thương mại đã đầu tư, xây dựng, thiết kế lại toàn bộ hệ thống nội ngoại thất, thay đổi phương thức giao dịch theo mô hình hiện đại, chuyên nghiệp.
Trong bối cảnh đất nước hội nhập vào kinh tế quốc tế, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam đã nhanh chóng xác định việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ là chiến lược trọng tâm, có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh và vị thế của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam cũng đang dần được khẳng định trong tương quan so sánh với các đối thủ cạnh tranh. Trong phạm vi đề tài này, Vietcombank được so sánh tương quan với ba ngân hàng nhà nước là BIDV, Vietinbank, Agribank và một ngân hàng TMCP lớn là ACB với số liệu tính đến hết năm 2013.
2.2.1 Thực trạng hoạt động dịch vụ NHBL của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Thực hiện theo đề án tái cơ cấu giai đoạn 2003 – 2005, Vietcombank đã hoàn tất đề án mô hình tổ chức mới phân định theo tiêu thức đối tượng khách hàng, kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm và phân cấp quản lý theo khối. Theo đó đã hình thành nên khối ngân hàng bán lẻ với chức năng nghiên cứu, thiết kế các sản phẩm, dịch vụ NHBL đáp ứng nhu cầu của khách hàng đồng thời cũng là đầu mối tham mưu cho Ban lãnh đạo trong quản lý và hỗ trợ bán các sản phẩm, dịch vụ bán lẻ trong hệ thống; tổ chức thực hiện chăm sóc khách hàng thể nhân phù hợp với chiến lược phát triển bán lẻ của Vietcombank.
Sau khi thực hiện cổ phần hoá năm 2008, Vietcombank cũng có những điều kiện thuận lợi đẩy mạnh hoạt động bán lẻ và đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ hiện đại trong các hoạt động bán lẻ.
2.2.1.1 Về hoạt động huy động vốn Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Nguồn tiền gửi đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của mỗi ngân hàng, thể hiện giúp ngân hàng giảm thiểu sự phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài đồng thời nâng cao nguồn dự trữ cho thanh khoản. Do vậy, Vietcombank luôn đặt trọng tâm mục tiêu tăng trưởng huy động vốn và có giải pháp thích hợp để thực hiện kế hoạch. Để ổn định nguồn vốn từ dân cư, Vietcombank đã triển khai nhiều sản phẩm huy động vốn linh hoạt, phù hợp với các nhóm khách hàng khác nhau. Ví dụ, sản phẩm tiết kiệm kỳ hạn linh hoạt sẽ hỗ trợ nhóm khách hàng hay có nhu cầu sử dụng vốn đột xuất; tiền gửi trực tuyến sẽ hỗ trợ khách hàng tiết kiệm thời gian; sản phẩm Bancasuarance dòng huy động vốn khuyến khích khách hàng để dành tiền đều đặn từ nguồn thu nhập hạn chế,… Bên cạnh đó, VCB triển khai chính sách chăm sóc khách hàng doanh nghiệp, tư vấn khách hàng lựa chọn gói sản phẩm, dịch vụ chi phí tối ưu nhất.
Đẩy mạnh hoạt động bán lẻ là mục tiêu trọng tâm của Vietcombank trong giai đoạn hiện nay và huy động vốn đóng một vai trò quan trọng nhằm ổn định nguồn vốn góp phần gia tăng hiệu quả kinh doanh. Nguồn vốn huy động của Vietcombank không chỉ gia tăng về tổng giá trị mà tỷ trọng huy động vốn từ dân cư cũng có sự tăng trưởng khá tốt cho thấy được Vietcombank đã thành công trong việc đưa ra những chiến lược nhằm đẩy mạnh tăng trưởng huy động vốn từ dân cư. Trong giai đoạn 2011-2013, tỷ trọng huy động vốn từ dân cư của Vietcombank có sự chuyển biến rõ rệt cụ thể như sau:
Năm 2010 được xem là năm các ngân hàng trong hệ thống phải đối diện với nhiều khó khăn như: sự biến động mạnh của tỷ giá, lãi suất; chịu áp lực đáp ứng yêu cầu về các tỉ lệ an toàn theo thông tư 13/2010/TT-NHNN, 19/2010/TT-NHNN. Dự báo trước tình hình sẽ xảy ra cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD trong hoạt động huy động vốn, ngay từ đầu năm Vietcombank đã xác định mục tiêu tăng cường huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của năm. Triển khai nhiệm vụ này, trong năm 2010, Vietcombank đã giao chỉ tiêu huy động vốn đến từng chi nhánh, đồng thời tích cực đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn có lãi suất hợp lý, đi kèm các chương trình khuyến mại, đầu tư cho hệ thống công nghệ thích đáng, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh huy động vốn, chủ động trong việc xâm nhập thị trường, tiếp cận và chăm sóc khách hàng chu đáo. Kết quả là nguồn vốn của Vietcombank tăng trưởng rất tốt với mức huy động đạt được cao nhất trong vòng 5 năm. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Năm 2011, công tác huy động vốn đặc biệt khó khăn do tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt và chính sách kiểm soát thị trường ngoại hối nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, hoạt động huy động vốn cá nhân phải đối mặt với nhiều thách thức hơn do sự cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức tín dụng khác. Trước diễn biến phức tạp của thị trường, Ban lãnh đạo Vietcombank xác định công tác huy động vốn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt trong năm. Vietcombank một mặt tuân thủ các quy định của NHNN mặt khác đã linh hoạt đưa ra các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn như là tăng cường chính sách chăm sóc khách hàng, đa dạng hoá sản phẩm huy động … Bên cạnh đó, Vietcombank còn chủ động huy động vốn từ nước ngoài, tham gia tích cực các hoạt động kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng. Tính đến 31/12/2011, huy động vốn từ nền kinh tế đạt 241.700 tỷ quy đồng, tăng cao hơn so với mức tăng trưởng trung bình của toàn ngành. Đặc biệt, huy động vốn từ dân cư đạt 121.587 tỷ đồng, tăng 23,0%, chiếm tỷ trọng 50,3% huy động vốn từ nền kinh tế. Điều này thể hiện sự nhìn nhận của xã hội đối với uy tín và thương hiệu của Vietcombank.
Tiếp tục phát huy lợi thế trong công tác huy động vốn, tính đến 31/12/2012, huy động vốn từ nền kinh tế của Vietcombank đạt 303.942 tỷ đồng, tăng 25,8% so với cuối năm 2011. Trong đó, huy động vốn từ dân cư đạt 162.080 tỷ đồng, tăng 33,3% so với cuối năm 2011, chiếm tỷ trọng 53,33% trong tổng huy động vốn từ nền kinh tế. Huy động vốn từ dân cư tăng trưởng cao thể hiện sự nhìn nhận của xã hội đối với uy tín và thương hiệu của Vietcombank, cũng như khẳng định Vietcombank đã đi đúng định hướng của chiến lược phát triển bán lẻ nhằm duy trì nguồn vốn ổn định. Năm 2013, Vietcombank luôn theo sát biến động của nguồn vốn và sử dụng vốn để có những giải pháp điều chỉnh huy động vốn kịp thời. Phương án dự phòng thanh khoản của năm đã được xây dựng và luôn sẵn sàng nhằm đảm bảo an toàn thanh khoản cho hệ thống. Huy động vốn từ nền kinh tế đạt 334.259 tỷ đồng, tăng 16,3% so với đầu năm, vượt mức kế hoạch 12% đã đề ra từ đầu năm. Trong đó, tỷ trọng huy động vốn từ dân cư vẫn duy trì ổn định, chiếm 51,8%, cho thấy trọng tâm trong mục tiêu huy động vốn vẫn được đảm bảo.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Tài Chính – Ngân Hàng
2.2.1.2 Về hoạt động cho vay
Bảng 2.3: Tỷ trọng dư nợ cho vay bán lẻ của Vietcombank
Vietcombank luôn nỗ lực hết mình đẩy mạnh hoạt động bán lẻ nhất là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Bằng việc liên tục nghiên cứu đưa ra thị trường các sản phẩm đa dạng với đầy đủ các tiện ích, hoạt động cho vy thể nhân đã đạt được những kết quả khả quan.
Đồ thị 2.2: Tỷ trọng dư nợ cho vay bán lẻ
Dư nợ cho vay thể nhân của Vietcombank giai đoạn 2011-2013 có sự tăng trưởng tốt cùng với sự tăng trưởng của tổng dư nợ cho vay. Tính đến 31/12/2011, dư nợ cho vay thể nhân đạt gần 21.000 tỷ đồng, tăng 8,0% so với năm 2010. Năm 2012, dư nợ cho vay thể nhân đạt 28.940 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 12% trong tổng dư nợ, tăng 2,06% so với tỷ trọng năm 2011. Bước sang năm 2013, dư nợ cho vay thể nhân đạt 37.259 tỷ đồng, tăng 13,6% so với năm 2012, chiếm tỷ trọng 13,39% trong tổng dư nợ tín dụng. Có được sự tăng trưởng như vậy là do định hướng kinh doanh của Vietcombank tập trung chủ yếu cho bán lẻ, đưa ra nhiều các sản phẩm cho vay cá nhân đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của khách hàng. Đồng thời, trong năm 2013 Vietcombank cũng nằm trong nhóm các ngân hàng tham gia chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở theo Thông tư số 11/2013/TTNHNN ngày 15/05/2013 của NHNN. tính đến cuối năm 2013, Vietcombank đã cam kết giải ngân cho vay đối với 487 khách hàng cá nhân là đối tượng có thu nhập thấp, cán bộ công chức, viên chức, lực lượng vũ trang với tổng cam kết giải ngân là 190 tỷ đồng, dư nợ tại 31/12/2013 tương ứng là 128 tỷ đồng. Đây cũng là tiên đề cơ sở cho sự tăng trưởng dư nợ cho vay thể nhân trong năm 2014. Mặc dù được đánh giá là có sự tăng trưởng trong hoạt động cho vay thể nhân nhưng Vietcombank cũng cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay bán lẻ, bên cạnh việc đưa ra nhiều sản phẩm cho vay phục vụ cho đa dạng đối tượng khách hàng Vietcombank còn phải có chính sách lãi suất kịp thời với sự biến động của thị trường đồng thời với việc linh hoạt trong quy trình thủ tục cho vay. Định hướng kinh doanh của Vietcombank trong thời gian tới là xác định phát triển tín dụng thể nhân là một trong các hoạt động bán lẻ tạo sự phát triển bền vững của VCB, thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ tín dụng thể nhân đồng thời thiết kế các gói sản phẩm tín dụng phù hợp với chủ trương kích thích tiêu dùng.
2.2.1.3 Về hoạt động phát hành và thanh toán thẻ Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Trên cơ sở nền tảng công nghệ hiện đại, Vietcombank luôn là ngân hàng đi tiên phong trong lĩnh vực thẻ và luôn giữ vững vị trí dẫn đầu trên thị trường thẻ tại Việt Nam cả về hoạt động phát hành, thanh toán, phát triển sản phẩm dịch vụ thẻ mới cũng như phát triển mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ.
Bảng 2.4: Doanh số sử dụng thẻ của Vietcombank
Báo cáo thường niên của Vietcombank”
Doanh số phát hành thẻ Vietcombank không ngừng gia tăng qua từng năm với số lượng thẻ phát hành thêm năm 2011 và 2012 mỗi năm khoảng hơn 1 triệu thẻ, năm 2013 đạt hơn 1,2 triệu thẻ, trong đó thẻ ghi nợ nội địa vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu.
Với mục tiêu tăng trưởng thẻ không phải là số lượng thẻ phát triển mới mà là doanh số thanh toán, lượng người sử dụng thẻ thực tế và đặc biệt là hiệu quả kinh doanh thì doanh số sử dụng và thanh toán thẻ của Vietcombank tăng trưởng nhanh qua các năm. Năm 2012, doanh số sử dụng thẻ đạt 184.672 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2011. Doanh số sử dụng và thanh toán thẻ đều tăng trưởng rất mạnh. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế tăng 26,1% so với cuối năm 2012, đạt 110% kế hoạch năm và dẫn đầu thị trường với 44% thị phần tại thị trường thẻ. Doanh số thanh toán thẻ nội địa tăng 73,5% so với cùng kỳ, đạt 116% kế hoạch năm 2013.
Về thị phần thẻ, năm 2011 và 2012, Vietcombank đứng vị trí số 5 về số lượng phát hành thẻ tín dụng quốc tế, dẫn đầu trong phát hành thẻ ghi nợ quốc tế và giữ vị trí số 4 về phát hành thẻ ghi nợ nội địa. Năm 2013, Vietcombank chiếm vị trí dẫn đầu với 44% thị phần tại thị trường thẻ với doanh số thanh toán thẻ quốc tế đạt 1.494 triệu USD, đạt 110% kế hoạch năm.
Không chỉ nằm trong nhóm dẫn đầu về thị phần phát hành và thanh toán, Vietcombank còn luôn dẫn đầu thị trường về phát triển sản phẩm, dịch vụ thẻ mới. Trong những năm gần đây, Vietcombank đã phát triển một số sản phẩm dịch vụ thẻ hiệu quả thiết thực, gia tăng tiện ích cho khách hàng như: Đề án thanh toán thẻ trên taxi và thanh toán thẻ taxi đồng thương hiệu; Đề án chuyển đổi PIN cho thẻ ghi nợ nội địa; Đề án chuyển đổi thẻ liên kết VCB-MTV thành thẻ ghi nợ quốc tế Vietcombank Master Card; Đề án phát triển thẻ Pre-paid (Thẻ trả trước); Đề án chuyển tiền liên ngân hàng qua thẻ trên kênh giao dịch Internet Banking, các chương trình hợp tác trong lĩnh vực bán lẻ như Metro Big C…, chương trình hợp tác với Công ty Thông tin di động Việt Nam… Vietcombank cũng là ngân hàng đầu tiên triển khai dịch vụ thanh toán thẻ trực tuyến quốc tế và nội địa tại Việt Nam.
Hiện nay, Vietcombank là ngân hàng duy nhất chấp nhận thanh toán cả bảy loại thẻ quốc tế phổ biến: Visa, Mastercard, JCB, CUP, Diners Club, American Express (Vietcombank là đại lý độc quyền thanh toán) và Discover card; là ngân hàng phát hành thẻ tín dụng Visa, Master, Amex, JCB,… và là ngân hàng nội địa đi tiên phong trong việc phát hành hai sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế cao cấp – Amex Platinum và Visa Platinum. Sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa Vietcombank Connect 24 của Vietcombank đã được bình chọn “Thương hiệu quốc gia” và được trao tặng Giải thưởng “Sao Vàng đất Việt”.
2.2.1.4 Về hoạt động ngân hàng điện tử Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Năm 2002, Vietcombank chính thức khai trương dịch vụ ngân hàng điện tử . Mặc dù không phải là ngân hàng đi đầu trong cung ứng dịch vụ ngân hàng điện tử nhưng ngay từ đầu Vietcombank đã mở rộng dịch vụ này cho cả khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Trong bối cảnh nhiều ngân hàng cũng đang đẩy mạnh dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm khai thác xu thế sử dụng internet của khách hàng, đẩy cuộc chiến tranh giành thị phần vào một chiến lược mới đòi hỏi các ngân hàng phải ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, đa dạng và nâng cao các tiện ích nhằm khẳng định thị phần của mình. Các dịch vụ Internet Banking, Home Banking, SMS Banking, Phone Banking và Mobile Banking của Vietcombank đã và đang thu hút ngày càng đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi, nhanh chóng, an toàn, hiệu quả và dần tạo thói quen không dùng tiền mặt trong thanh toán.
2.2.1.5 Về dịch vụ chuyển tiền kiều hối
Nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu chuyển tiền về nước của người Việt xa quê hương, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam (Vietcombank) đã không ngừng nỗ lực hợp tác với các ngân hàng nước ngoài, các tổ chức chuyển tiền quốc tế để phát triển đa dạng dịch vụ chuyển tiền kiều hối như chuyển tiền bằng điện SWIFT, Telex, Séc, dịch vụ chuyển tiền nhanh MoneyGram. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối vẫn luôn là thế mạnh Vietcombank với doanh số chuyển tiền vẫn luôn nằm trong nhóm những ngân hàng có doanh số cao. Doanh số chuyển tiền trong năm 2011 đạt 1,43 tỉ USD, chiếm 15% thị phần trong nước, đến năm 2012 trong bối cảnh kinh tế khó khăn, doanh số chuyển tiền ngoại hối vẫn đạt mức 1,23 tỉ USD. Năm 2013, dịch vụ chuyển tiền kiều hối tiếp tục là thế mạnh của Vietcombank với doanh số đạt gần 1,3 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm 2012.
2.2.1.6 Về mạng lưới hoạt động và ngân hàng đại lý
Là ngân hàng chuyên doanh Việt Nam đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, sau 50 năm hoạt động, Vietcombank đã thiết lập một mạng lưới các ngân hàng đại lý rộng khắp trên toàn thế giới, điều này mang lại lợi thế về mặt quy mô giúp Vietcombank thực hiện các giao dịch trên thị trường thế giới được nhanh chóng, an toàn, hiệu quả. Thương hiệu Vietcombank luôn được cộng đồng tài chính quốc tế đánh giá cao bởi các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, chuyển tiền, kinh doanh ngoại tệ, thị trường tiền tệ… Nhờ vậy, mạng lưới ngân hàng đại lý được đánh giá là một trong những thế mạnh nổi trội của Vietcombank tạo ra lợi thế cạnh tranh đáng kể cho các hoạt động ngân hàng quốc tế so với các ngân hàng trong nước khác. Hiện tại, hoạt động của Vietcombank được hỗ trợ bởi hơn 1.700 ngân hàng đại lý trên 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Trong năm 2013, Vietcombank đã xây dựng Đề án phát triển mạng lưới và được Ngân hàng Nhà nước cho phép thành lập 15 chi nhánh cùng 38 Phòng giao dịch, đây cũng là đợt mở rộng mạng lưới lớn nhất của Vietcombank từ trước đến nay, mở ra nhiều cơ hội cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng ngày một đa dạng, hiện đại và tiện ích đến với mọi thành phần kinh tế và đông đảo các tầng lớp khánh hàng. Đến thời điểm 31/12/2013, hệ thống mạng lưới trong nước của Vietcombank bao gồm hơn 400 chi nhánh và phòng giao dịch hoạt động.
2.2.2 Vị trí và thực trạng của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam trên thị trường dịch vụ NHBL Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
2.2.2.1 Về tổng tài sản
Tổng tài sản tính đến cuối năm 2012 của hệ thống ngân hàng tăng lên hơn 5 triệu tỷ đồng chủ yếu nhờ sự tăng thêm của nhóm các ngân hàng quốc doanh. Là những ngân hàng trong nhóm ngân hàng quốc doanh nên tổng tài sản của Agribank, Vietinbank, BIDV và Vietcombank đều tăng so với năm 2011
Bảng 2.5: Tổng tài sản của các ngân hàng
Ngân hàng Agribank được xem là ngân hàng lớn nhất hệ thống với tổng tài sản tính đến cuối năm 2012 là 617.859 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2011 và vượt xa so với ngân hàng đứng thứ hai là Vietinbank với tổng tài sản là 503.530 tỷ đồng. BIDV là ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản cao nhất là 19%, đứng thứ hai là Vietcombank với tốc độ tăng trưởng là 13% so với cuối năm 2011, đạt 414.475 tỷ đồng, tương đương 95% kế hoạch đã đề ra. Tổng giá trị tài sản của ACB giảm mạnh từ hơn 281.019 tỷ đồng năm 2011 xuống còn 176.307 tỷ đồng cuối năm 2012, giảm 37% chủ yếu là do lỗ từ kinh doanh vàng và ngoại hối kể từ sau thông tư 12/2012/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Năm 2013, các ngân hàng có tốc độ tăng trưởng tổng tài sản khá đồng đều duy trì mức 13-14%. Riêng chỉ có ngân hàng ACB là giảm 6% do vẫn còn ảnh hưởng sau vụ kinh doanh vàng và ngoại hối.
Vietcombank vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định là 13% trong cả năm 2012 và 2013, xếp vị trí thứ hai trong hệ thống và tiếp tục duy trì vị trí thứ tư xét về quy mô tổng tài sản.
2.2.2.2 Về hoạt động huy động vốn Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, huy động vốn của toàn hệ thống năm 2012 tăng khoảng 16%. Còn theo báo cáo tài chính của các ngân hàng lớn, ngoại trừ ở ngân hàng ACB sụt giảm do xảy ra khủng hoảng hồi quý 3, huy động vốn năm qua tăng khá mạnh, có ngân hàng đạt mức tăng trên dưới 100% so với năm 2011. Nhóm các ngân hàng quốc doanh được xem là nhóm có tốc độ tăng trưởng huy động vốn khá cao, cụ thể như sau:
Bảng 2.6: Huy động vốn của các ngân hàng
Đây là năm ngân hàng tốp đầu xét về giá trị huy động vốn. Ngân hàng Agribank dẫn đầu hệ thống ngân hàng với mức huy động đạt 540.000 tỷ đồng; Đứng thứ hai là ngân hàng Vietinbank với 460.082 tỷ đồng; ngân hàng BIDV và Vietcombank đứng thứ ba và thứ tư với giá trị huy động vốn lần lượt là 331.116 và 303.942 tỷ đồng; ngân hàng ACB đứng thứ năm với giá trị huy động là 125.233 tỷ đồng. Ngân hàng ABC là ngân hàng duy nhất bị giảm giá trị huy động vốn so với năm 2011 do bị “khủng hoảng” từ quý III/2012. Mặc dù lượng tiền gửi giảm song xét về tổng huy động vốn thì ACB vẫn duy trì được vị trí thứ năm của mình trong hệ thống.
Đồ thị 2.4: Quy mô huy động vốn của các ngân hàng
Mặc dù xét về giá trị tuyệt đối, ngân hàng Vietcombank đứng thứ tư nhưng xét về tốc độ tăng trưởng so với năm 2011 thì Vietcombank lại đứng vị trí thứ hai với 26%, chỉ sau ngân hàng BIDV với 35%. Mức tăng trưởng này cao hơn mức tăng trưởng của toàn hệ thống ngân hàng là 16%. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Thị trường tài chính ngân hàng luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM trong hệ thống. Các ngân hàng luôn nỗ lực củng cố và mở rộng thị trường thông qua việc xây dựng mạng lưới hoạt động dày đặc, triển khai các sản phẩm ngân hàng đa dạng và linh hoạt đồng thời cung cấp cho khách hàng những tiện ích tốt nhất nhằm duy trì vị thế của mình trên thị trường. Tuy nhiên, với những nỗ lực như vậy các NHTM cũng chỉ duy trì được vị thế hiện tại của mình mà ít tạo ra được những biến đổi lớn như giai đoạn trước đây.
Bảng 2.7: Thị phần huy động vốn của các ngân hàng năm 2013
Nhóm 5 ngân hàng này chiếm thị phần huy động vốn chủ yếu trong hệ thống với số dư huy động chiếm tỷ lệ gần 50% toàn hệ thống. Tính đến cuối năm 2013, thị phần huy động vốn của Vietcombank vẫn duy trì vị trí thứ tư trong toàn hệ thống ngân hàng, xếp sau Agribank, Vietinbank và BIDV vốn là những ngân hàng với vị thế được duy trì trong thời gian dài. Trong giai đoạn hàng loạt ngân hàng xem huy động vốn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đồng thời cũng đưa ra nhiều chính sách khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng thì Vietcombank vẫn duy trì được thị phần của mình càng cho thấy được tiềm lực mạnh mẽ cùng khả năng nắm bắt thị trường và hơn hết là uy tín thương hiệu.
2.2.2.3 Về hoạt động tín dụng
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng toàn hệ thống đạt hơn 3,4 triệu tỷ đồng với tốc độ tăng trưởng toàn ngành là 12,52% trong đó vai trò của nhóm các ngân hàng quốc doanh chiếm vị trí trọng yếu, cụ thể:
Bảng 2.8: Dư nợ cho vay của các ngân hàng
Tính đến cuối năm 2012, ngân hàng Agribank chiếm vị trí đầu bảng, ngân hàng Vietinbank và BIDV xấp xỉ nhau và chiếm vị trí thứ hai và thứ ba, Vietcombank đứng vị trí thứ tư với dư nợ tín dụng năm 2012 là 241.163 tỷ đồng, gấp 2,3 lần so với ngân hàng ACB.
Năm 2013, Vietinbank có tốc độ tăng trưởng giảm mạnh so với năm 2012 mặc dù vẫn cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn ngành. Còn lại các ngân hàng khác duy trì tốc độ tăng trưởng tương đương so với năm 2012 trong đó Vietcombank và BIDV có tốc độ tăng trưởng cao nhất, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành và đứng thứ tư toàn hệ thống về giá trị tuyệt đối.
Bảng 2.9: Thị phần dư nợ cho vay của các ngân hàng năm 2013
Cũng như trong hoạt động huy động vốn, thị phần dư nợ tín dụng của Vietcombank năm 2013 vẫn đứng vị trí thứ tư toàn ngành. Trong bối cảnh khó khăn chung của ngành ngân hàng, không chỉ Vietcombank mà Agribank, Vietinbank, BIDV và ACB đều giảm thị phần dư nợ tín dụng vào tay một số ngân hàng thương mại khác tuy nhiên vị trí nhóm ngân hàng tốp đầu vẫn được duy trì. Thị phần dư nợ tín dụng của Vietcombank đạt 8% năm 2013, tiếp tục duy trì vị trí thứ tư toàn hệ thống.
2.2.2.4 Về dịch vụ thẻ Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Theo báo cáo tại Hội nghị thường niên của Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam năm 2012, tính đến 31/12/2012, toàn thị trường có 52 tổ chức tham gia phát hành thẻ, với tổng số lượng thẻ phát hành đạt gần 57,1 triệu thẻ (tăng 38,5% so với năm 2011).
Trong đó, các ngân hàng Agribank, Vietinbank, BIDV, Vietcombank và ACB được xem là những ngân hàng đi đầu trong dịch vụ phát hành và sử dụng thẻ. Thẻ nội địa vẫn chiếm tỷ trọng lớn 92,31% trong khi thẻ quốc tế chỉ chiếm 7,69%. Điều này cho thấy, thẻ nội địa vẫn là sản phẩm chủ yếu của các ngân hàng. Ngân hàng có số lượng thẻ lớn nhất vẫn là Vietinbank với 12,6 triệu thẻ, chiếm 23,09% thị phần. Agribank đứng vị trí thứ hai với hơn 10,6 triệu thẻ, tăng 27% so với năm 2011, chiếm 20% thị phần. Vietcombank chỉ đứng vị trí thứ ba về lượng thẻ phát hành tuy nhiên đây cũng nằm trong chiến lược kinh doanh thẻ từ năm 2010 của Vietcombank khi xác định mục tiêu tăng trưởng thẻ không phải là số lượng thẻ phát triển mới mà là doanh số thanh toán, lượng người sử dụng thẻ thực tế và đặc biệt là hiệu quả kinh doanh. Cụ thể là năm 2012 hoạt động thanh toán thẻ quốc tế tăng 21% so với năm 2011 và vẫn duy trì vị trí dẫn đầu về thanh toán thẻ quốc tế, chiếm 50% thị trường thẻ.
Tính đến 31/12/2013, tổng số lượng thẻ phát hành của 50 tổ chức phát hành đạt hơn 66,2 triệu thẻ, tăng hơn 20% so với 2012, trong đó thẻ ghi nợ chiếm 92,3%, thẻ tín dụng 3,67% và thẻ trả trước 4,03%. Vietinbank tiếp tục chiếm giữ vị trí đứng đầu thị trường với 23% thị phần thẻ ATM và 35% thị phần thẻ tín dụng quốc tế. Trong khi đó, Vietcombank tiếp tục duy trì vị trí dẫn đầu về doanh số thanh toán thẻ quốc tế với 44% thị phần tại thị trường thẻ. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Về cơ sở hạ tầng phục cho thanh toán, toàn hệ thống có 46 ngân hàng thương mại đã trang bị máy ATM và máy POS với số lượng đạt trên 14.400 máy ATM và hơn 104.400 máy POS. Trong đó, Vietinbank đứng đầu về thị phần máy ATM trong hệ thống chiếm 15% thị phần, đứng thứ hai là Agribank với hơn 14% thị phần. Vietcombank đứng vị trí thứ ba với 12,86% thị phần.
Bảng 2.10: Thị phần máy ATM của các ngân hàng năm 2012
Trong nhiều năm qua, Vietcombank luôn duy trì và giữ vững vị trí ngân hàng có mạng lưới POS lớn nhất nước với số lượng máy POS vượt trội hơn hẳn so với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, tính đến thời điểm 31/12/2012 Vietcombank phải nhường vị trí dẫn đầu này cho Vietinbank khi ngân hàng này vươn lên chiếm 30% thị phần, Vietcombank vẫn theo sát với 32.178 máy chiếm hơn 29% thị phần cả nước.
Bảng 2.11: Thị phần máy POS của các ngân hàng năm 2012
2.2.2.5 Về hoạt động ngân hàng điện tử
Tính đến 31/12/2012, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử của VCB khoảng hơn 1,6 triệu, chiếm trên 25% thị phần.
Tuy nhiên, các mảng kinh doanh truyền thống của ngân hàng như huy động vốn và cho vay đang dần bị thu hẹp vì vậy các ngân hàng buộc phải đẩy mạnh mảng dịch vụ phi truyền thống và ngân hàng điện tử là một trong những mảng dịch vụ nằm trong chiến lược phát triển của các ngân hàng. Mặc dù Vietcombank là một trong những ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử từ rất sớm và đã từng chiếm vị trí dẫn đầu vào năm 2010 với khoảng 895.343 khách hàng, chiếm 35% thị phần nhưng hiện nay Vietinbank đã giành được vị trí dẫn đầu với gần 3 triệu khách hàng. Vietcombank đang mất dần ưu thế của mình khi ngân hàng điện tử trở thành mảng dịch vụ nằm trong chiến lược kinh doanh của các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng TMCP khi hoạt động huy động và cho vay không thể cạnh tranh được với khối ngân hàng quốc doanh.
2.2.2.6 Về dịch vụ chuyển tiền kiều hối
Vietcombank nằm trong nhóm các ngân hàng có dịch vụ chuyển tiền kiều hối tốt nhất Việt Nam với lượng tiền kiều hối thu hút được tính đến cuối năm 2012 đạt 1,23 tỷ USD, chiếm khoảng 12% thị phần. Mặc dù nằm trong nhóm ngân hàng thu hút lượng tiền kiều hối lớn nhưng Vietcombank phải chịu sự cạnh tranh gay gắt về thị phần với các đối thủ chính như Vietinbank (1,2 tỷ USD), ngân hàng Đông Á (1,5 tỷ USD) và Sacombank (1,3 tỷ USD).
2.2.2.7 Về mạng lưới hoạt động
Bảng 2.12: Mạng lưới hoạt động của các ngân hàng năm 2013
Vietcombank không có thế mạnh về mạng lưới hoạt động với số điểm giao dịch tính đến 31/12/2013 là gần 453, đứng thứ tư toàn hệ thống và bằng 1/5 so với Agribank là ngân hàng có số điểm giao dịch đứng đầu toàn hệ thống với hơn 2.300 điểm giao dịch. Đây cũng là đặc điểm hoạt động riêng của Vietcombank khi các điểm giao dịch chủ yếu tập trung ở các tỉnh, thành phố, thị xã… lớn.
2.3 KHẢO SÁT HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NHBL TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM THÔNG QUA Ý KIẾN KHÁCH HÀNG Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
2.3.1 Mục đích khảo sát:
Việc khảo sát được thực hiện nhằm tổng hợp những ý kiến của khách hàng bán lẻ về những vấn đề sau đây:
- Thời gian khách hàng có giao dịch với Vietcombank
- Mức độ gắn bó với Vietcombank
Đánh giá của khách hàng hiện đang có quan hệ giao dịch với Vietcombank về sản phẩm, dịch vụ cũng như chất lượng phục vụ theo những khía cạnh: Sự đa dạng của sản phẩm dịch vụ; Hồ sơ thủ tục của các sản phẩm dịch vụ; Thời gian xử lý hồ sơ; Thái độ phục vụ của nhân viên; Phương tiện, máy móc, thiết bị; Lãi suất hoặc phí của sản phẩm dịch vụ; Mức độ an toàn; Mức độ hài lòng
2.3.2 Đối tượng khảo sát: Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Bao gồm các khách hàng cá nhân đang có quan hệ giao dịch với Vietcombank. Do hạn chế về thời gian thực hiện nên tác giả chỉ chọn đối tượng khảo sát là khách hàng cá nhân.
2.3.3 Phạm vi khảo sát:
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – CN Phú Thọ.
2.3.4 Thời gian khảo sát:
2.3.3. Phương pháp khảo sát:
Xây dựng bảng câu hỏi. 150 phiếu khảo sát được gửi đến cho 150 khách hàng cá nhân tại quầy giao dịch .
2.3.4. Kết quả khảo sát:
Tổng số phiếu phát ra là 150 phiếu. Kết quả thu về 125 phiếu
Tóm tắt kết quả khảo sát:
Ngân hàng khác ngoài Vietcombank mà khách hàng đang giao dịch
Số lượng khách hàng giao dịch tại các ngân hàng TMCP đạt cao nhất, do chất lượng phục vụ của các ngân hàng TMCP luôn được chú trọng nhằm tăng khả năng cạnh tranh lẫn nhau. Theo sau đó là ngân hàng Thương mại quốc doanh với lợi thế về uy tín lâu năm, lãi suất thấp cũng chiếm tỷ trọng không nhỏ.
Sản phẩm dịch vụ đã và đang sử dụng
Đối với các sản phẩm dịch vụ bán lẻ, hoạt động kinh doanh thẻ là mảng kinh doanh phổ biến được đông đảo khách hàng lựa chọn với tỷ lệ chiếm đến 80,8% trong khảo sát. Tiền gửi cá nhân và dịch vụ thẻ cũng là mảng kinh doanh khá phổ biến với tỷ lệ chiếm 67,2% và 52,8%. Hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ 29,6% trong khảo sát, đây cũng là mảng kinh doanh bán lẻ mà Vietcombank cũng cần đẩy mạnh hơn nữa thông qua việc đa dạng hoá sản phẩm tín dụng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Mức độ đa dạng của sản phẩm, dịch vụ của Vietcombank
Các sản phẩm dịch vụ của Vietcombank được đánh giá là khá đa dạng tuy nhiên Vietcombanh cũng cần phát triển thêm sản phẩm dịch vụ cụ thể trong mảng tiền gửi cần có nhiều sản phẩm linh hoạt hơn và mảng tiền vay đa dạng về sản phẩm đáp ứng nhu cầu của khách hàng nhiều hơn. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Hồ sơ thủ tục khi sử dụng dịch vụ của Vietcombank
Theo kết quả khảo sát thì hồ sơ thủ tục của Vietcombank được đánh giá là phức tạp. Vietcombank cần cải thiện hơn về quy trình giải quyết hồ sơ, một mặt đáp ứng nhu cầu nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo sự chặt chẽ trong quy trình nghiệp vụ nhất là trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều rủi ro như hiện nay.
Thời gian chờ đợi thực hiện giao dịch
Có thể thấy mức độ phức tạp của hồ sơ không ảnh hưởng nhiều đến chất lượng phục vụ của ngân hàng. Nhận định này đã được thể hiện thông qua thời gian thực hiện các giao dịch của Vietcombank đối với yêu cầu của khách hàng là nhanh và rất nhanh chiếm tỷ trọng cao. Mặt khác, tuy nhiên đối với một số nghiệp vụ nhất là nghiệp vụ cho vay do yêu cầu chặt chẽ trong khâu thẩm định hồ sơ nên thời gian thực hiện giao dịch vẫn còn chậm với tỷ lệ khảo sát chiếm 18%, Vietcombank cũng cần cải tiến hơn nữa về thời gian giải quyết hồ sơ.
Phong cách, thái độ làm việc của nhân viên
Nhìn chung, phong cách và thái độ làm việc của nhân viên Vietcombank tạo được thiện cảm tốt trong lòng khách hàng với việc đánh giá tốt của khách hàng chiếm tỷ trọng cao nhất. Tuy nhiên, nếu so với một số ngân hàng thương mại khác thì hình ảnh nhân viên của Vietcombank vẫn chưa tạo được ấn tượng với một bộ phận không nhỏ khách hàng. Vietcombank cũng cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đạo tạo nhân lực nhằm xây dựng đội ngũ nhân viên nhanh nhẹn, chuyên nghiệp và thân thiện.
Phương tiện máy móc, thiết bị
Để đảm bảo công tác phục vụ khách hàng tốt nhất, hầu hết các ngân hàng đều trang bị các phương tiện máy móc, thiết bị hiện đại phục vụ công việc nhanh nhất. Vietcombank cũng đã thể hiện tương đối rõ tình hình chung trên với các phương tiện máy móc, thiết bị được đánh giá khá tốt đều chiếm tỷ trọng trung bình và tốt là ưu thế hơn cả.
Phí dịch vụ so với ngân hàng khác
Phí dịch vụ của Vietcombank phân bổ không đồng đều theo từng mảng dịch vụ. Đối với dịch vụ thanh toán trong nước, lãi suất, thẻ thì phí có thể cạnh tranh so với những ngân hàng khác. Tuy nhiên, trong bối cảnh các ngân hàng đẩy mạnh về bán lẻ thì phí dịch vụ của Vietcombank chưa phải là một lợi thế thật sự.
Mức độ an toàn khi giao dịch với Vietcombank
Là ngân hàng lớn nằm trong khối quốc doanh cùng với lịch sử hình thành và hoạt động lâu năm nên niềm tin của khách hàng là khá lớn. Bên cạnh đó, với vị trí luôn nằm trong nhóm dẫn đầu về công nghệ có thể tạo niềm tin cho khách hàng về vấn đề bảo mật.
2.4 PHÂN TÍCH SWOT HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NHBL TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Trên cơ sở thực trạng hoạt động và số liệu thực tế của Vietcombank có thể phân tích vào điểm mạnh (Strengths), điểm yếu (Weaknesses), cơ hội (Opportunities) và thách thức (Threats) trong phát triển hoạt động dịch vụ NHBL:
2.2.4.1 Điểm mạnh
Thứ nhất, năng lực tài chính ngày càng củng cố sau cổ phần hoá.
Năng lực tài chính của Vietcombank ngày càng được củng cố với quy mô vốn và tổng tài sản tăng trưởng đều qua các năm nhất là sau khi thực hiện thành công cổ phần hoá.
Năm 2012, tổng tài sản của Vietcombank đạt 414.670 tỷ đồng, tăng hơn 2 lần so với năm 2007 (197.363 tỷ đồng). Vốn chủ sở hữu cũng gia tăng ấn tượng với năm 2012 đạt 42.337 tỷ đồng, tăng hơn 3 lần so với năm 2007.
Vietcombank là ngân hàng đi tiên phong trong chủ trương cổ phần hoá hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước. Sự thay đổi này đã tạo cho Vietcombank một xung lực mới trong phát triển khi sự phụ thuộc vào những cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước giảm dần.
Thứ hai, có hệ thống quản trị hữu hiệu theo tiêu chuẩn quốc tế
Sau cổ phần hoá, Vietcombank đã ưu tiên củng cố và xây dựng một hệ thống quản trị hữu hiệu theo chuẩn mức quốc tế nhằm huy động tối đa các nguồn lực nội tại cho sự phát triển bền vững của Ngân hàng, tăng cường lợi thế ngân hàng bán buôn và tạo bước đột phá trong lĩnh vực bán lẻ bằng việc triển khai chiến lược bán lẻ xuyên suốt trong toàn hệ thống, tiếp tục đầu tư cho công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh, quản trị, đồng thời củng cố và nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm khẳng định sự khác biệt của thương hiệu Vietcombank.
Thứ ba, Vietcombank ngày càng khẳng định được vị thế
Vị thế của Vietcombank càng được khẳng định hơn khi lựa chọn Mizuho là đối tác chiến lược. Tập đoàn tài chính Mizuho là một trong số những định chế tài chính lớn nhất thế giới, cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng bao gồm: ngân hàng, chứng khoán, uỷ thác và quản lý tài sản, thẻ, ngân hàng dành cho khách hàng đặc biệt, hợp vốn thông qua các công ty của tập đoàn. Các công ty chính của Tập đoàn bao gồm: Mizuho Corporate Bank Ltd., Mizuho Bank, Mizuho Trus & Banking, Mizuho Securities và Mizuho Investors Securities. Với vai trò đối tác chiến lược, Mizuho đã đáp ứng các tiêu chí và yêu cầu mà Vietcombank đòi hỏi: có thế mạnh về những lĩnh vực mà Vietcombank đang cần phát triển; có quy mô và năng lực tài chính tầm cỡ quốc tế; đảm bảo không có xung đột lợi ích với chiến lược phát triển của Vietcombank; có kinh nghiệm đầu tư thành công tại khu vực. Ngoài việc đáp ứng đầy đủ các tiêu chí trên, Mizuho còn là nhà đầu tư có đề xuất tài chính và kỹ thuật tốt nhất đối với các yêu cầu của Vietcombank. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Thứ tư, nguồn nhân lực sẵn có ngày càng được chọn lọc và phát huy
Nguồn nhân lực Vietcombank từ xưa tới nay luôn được đánh giá là nguồn nhân lực được chọn lọc, được đào tạo tốt, trên cơ sở chuyển đổi hình thức sở hữu, lợi thế sẵn có này đã được Vietcombank phát huy mạnh mẽ sau cổ phần hoá. Nguồn nhân lực của Vietcombank đã và đang không ngừng được tăng cường cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng những yêu cầu về nhân sự trong quá trình mở rộng quy mô hoạt động cả về chiều rộng và chiều sâu của ngân hàng. Đến cuối năm 2012, số nhân lực của Vietcombank là 13.637 người, trong đó 76% có bằng đại học, 7% có bằng trên đại học. Hầu hết cán bộ quản lý của Vietcombank đều có trình độ thạc sĩ trở lên, trong đó 70% tốt nghiệp từ các trường đại học uy tín trong nước và nước ngoài. Độ tuổi trung bình của cán bộ Vietcombank là 31, trong đó 56% dưới 30 tuổi, 41% từ trên 30 đến 50 tuổi và chỉ có 3% cán bộ trên 50 tuổi.
Thứ năm, Vietcombank luôn đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh
Vietcombank luôn tiên phong đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động kinh doanh. Dự án “Hệ thống ngân hàng lõi Vietcombank Vision 2010”-sản phẩm mang tính chuẩn mực quốc tế cao và là hệ thống cốt lõi – đã tạo nền tảng cho Vietcombank triển khai các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại như: dịch vụ ngân hàng trực tuyến (VCB – Online), Internet Banking (VCB – iB@nking), Mobile Banking (VCB – Mobile Banking), SMS Bankin (VCB – SMS Banking( e-Commerce (kết hợp với các trung gian thanh toán cung cấp cổng thanh toán Payment Gateway), Phone Banking (thông qua Trung tâm Hỗ trợ khách hàng – Contact Center).
Thứ sáu, Vietcombank luôn duy trì và đẩy mạnh các sản phẩm bán lẻ lợi thế Thanh toán quốc tế là lĩnh vực kinh doanh đối ngoại truyền thống mà Vietcombank luôn duy trì và khẳng định vị thế hàng đầu của mình. Vietcombank luôn là đối tác hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế. Tính đến năm 2012, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu của Vietcombank đạt 38,8 tỷ USD và chiếm 17% thị phần cả nước, đồng thời Vietcombank cũng đã có quan hệ đại lý với hơn 1.800 ngân hàng tại trên 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Vietcombank luôn là cầu nối vững chắc cho các doanh nghiệp, các định chế tài chính trong nước với các đối tác nước ngoài trong các giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế.
Vietcombank là một trong những ngân hàng đi đầu trong kinh doanh thẻ với đa dạng các sản phẩm thẻ và tiện ích cho khách hàng sử dụng. Mặc dù chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt từ các ngân hàng lớn trên thị trường, song phát huy lợi thế là ngân hàng duy nhất tại Việt Nam chấp nhận thanh toán 7 thương hiệu thẻ quốc tế là Visa, MasterCard, Amex, JCB, Diner Club, CUP và DiscoverCard và lợi thế độc quyền thanh toán thẻ Amex trong lãnh thổ Việt Nam.
2.2.4.2 Điểm yếu Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Thứ nhất, còn mang nặng cung cách hoạt động truyền thống theo kiểu nhà nước, cung cấp dịch vụ ngân hàng bán buôn là chủ yếu.
Ngay từ khi mới thành lập, Vietcombank chỉ chuyên phục vụ tín dụng cho các tổ chức kinh tế nhà nước như các tổ chức ngoại thương và một số tổ chức kinh doanh đối ngoại khác như du lịch, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, giao nhận vận tải ngoại thương… Trong một thời gian dài, Vietcombank chỉ cung cấp các sản phẩm bán buôn mà không chú trọng vào thị trường NHBL mặc dù Vietcombank đã có những tiền đề thuận lợi để phát triển thị trường NHBL. Dịch vụ NHBL là một mảng kinh doanh quan trọng mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng mà giảm thiểu rủi ro kinh doanh so với những mảng kinh doanh truyền thống như cho vay và huy động vốn đã không còn mang lại hiệu quả kinh doanh như trước đây. Không phải là ngân hàng đi đầu như Vietcombank cũng đã ý thức được tầm quan quan trọng của mảng dịch vụ NHBL và có những chiến lược phát triển cụ thể về sản phẩm, dịch vụ, chăm sóc khách hàng….mặc dù chưa thể nói là ưu việt hơn các NHTM khác.
Thứ hai, mạng lưới phân phối chưa bao phủ hết cả nước
Mặc dù số điểm giao dịch của Vietcombank đứng thứ tư toàn hệ thống như chủ yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn, thị xã mà chưa bao phủ rộng khắp về các huyện, xã hay các vùng nông thôn do đặc thù lĩnh vực kinh doanh của Vietcombank từ khi mới hình thành. Vì hạn chế này mà một lượng khách hàng phải lựa chọn sử dụng dịch vụ của một số ngân hàng khác nhằm tạo sự thuận tiện cho mình. Để phát triển hơn nữa hoạt động NHBL đòi hỏi Vietcombank phải có những thay đổi trong chính sách hoạt động của mình nhằm mở rộng thị trường NHBL.
Hệ thống máy ATM của Vietcombank tuy phát triển nhanh, nhưng phân bố lại chưa đều. Số lượng máy tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị, nơi phát triển dịch vụ thanh toán, trong khi ở khu vực nông thôn, miền núi còn hạn chế. Một phần nguyên nhân cũng do người dân khu vực này chủ yếu có thu nhập thấp, nên họ thích lưu trữ tiền mặt hơn là sử dụng các dịch vụ ngân hàng
Thứ ba, các sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng
Là ngân hàng hoạt động theo hình thức bán buôn truyền thống nên các sản phẩm dịch vụ bán lẻ của Vietcombank chưa phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng. Kênh phân phối chưa đa dạng, phương thức giao dịch chủ yếu tại quầy.
Thứ tư, chiến lược trong hoạt động NHBL chưa được đầu tư đúng mức
Hoạt động marketing chưa được đầu tư đúng mức, thiếu sự quảng bá cũng như tạo hình ảnh riêng biệt với khách hàng. Đội ngũ nhân viên chưa được đào tạo bài bản, thiếu tính chuyên nghiệp vì vậy gây hạn chế trong tiếp cận khách hàng.
2.2.4.3 Thời cơ Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Trong những năm gần đây, GDP của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng ở mức cao. Dự báo tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa GDP bình quân hàng năm là 12%, trong đó tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 57%. Đây là lợi thế tiềm năng để NHTM phát triển dịch vụ ngân hàng nói chung và ngân hàng bán lẻ nói riêng.
Việt Nam là một nước có dân số trẻ, mức thu nhập ngày càng tăng song tỉ lệ người dân sử dụng sản phẩm ngân hàng vẫn còn hạn chế, chính vì thế Việt Nam luôn được đánh giá là nước có thị trường đầy tiềm năng của NHTM, đặc biệt là thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ.
Sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng công nghệ và thương mại điện tử ở Việt Nam cũng thể hiện rõ tiềm năng và triển vọng phát triển dịch vụ NHBL. Khi thương mại điện tử phát triển, số lượng người tiêu dùng mua hàng thông qua kênh thương mại điện tử cũng sẽ gia tăng, theo đó dịch vụ thanh toán trực tuyến cũng sẽ được đẩy mạnh.
Những khách hàng đang sử dụng các dịch vụ tài chính ngân hàng tại Vietcombank đa phần mới chỉ dừng ở mức sử dụng các dịch vụ cơ bản như: tài khoản, ATM hay các dịch vụ thanh toán cơ bản. Do đó, việc khai thác tiếp những đối tượng khách hàng này, mở rộng các nhu cầu giúp họ có được những tiện ích đa dạng hơn cũng đã là cơ hội rất lớn cho Vietcombank phát triển thị trường bán lẻ ở Việt Nam.
Việc bán cổ phần cho đối tác chiến lược nước ngoài không những mang lại nhiều lợi ích cho bản thân Vietcombank mà còn mang đến những lợi ích cho quốc
gia. Mizuho đầu tư một lượng ngoại tệ lớn vào Việt Nam trong giai đoạn khó khăn không những đã góp phần cải thiện đáng kể các cân thanh toán của Việt Nam, đồng thời tạo sự quan tâm và tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài khác vào thị trường và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
2.2.4.4 Thách thức
Thách thức trước tiên là về nhận thức của người sử dụng dịch vụ ngân hàng. Hiện thói quen sử dụng tiền mặt trong người dân còn khá phổ biến.
Đối với các sản phẩm tín dụng phục vụ cho thị trường bán giá trị cho vay thường nhỏ, chi phí cao, thủ tục vay đòi hỏi linh hoạt hơn, đối tượng khách hàng vay đa dạng, dễ rủi ro cho ngân hàng.
Các ngân hàng nước ngoài khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam đã nhìn thấy được tiềm năng trong việc phát triển hoạt động NHBL. Tiếp cận thị trường NHBL bằng những chiến lược kinh doanh bài bản, luôn đón đầu nhu cầu của khách hàng, sản phẩm dịch vụ đa dạng cùng với dịch vụ chăm sóc khách hàng chuyên nghiệp đang là thách thức lớn đối với các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, với mạng lưới khách hàng lớn, chi nhánh ngân hàng rộng khắp cùng với việc am hiểu văn hoá và phong tục tập quán của người dân bản địa sẽ giúp cho các NHTM Việt Nam, nhất là những ngân hàng lớn như Vietcombank thành công trong hoạt động NHBL.
2.5 ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG NHBL TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
2.5.1 Kết quả đạt được
Từ vị thế một ngân hàng bán buôn là chủ yếu, Vietcombank từng bước thể hiện được tiềm lực của mình trong việc cung cấp dịch vụ NHBL và khẳng định thị phần trong hệ thống ngân hàng.
Một trong những mảng kinh doanh bán lẻ lợi thế của Vietcombank là hoạt động kinh doanh thẻ với doanh số phát hành cũng như doanh số thanh toán thẻ tăng trưởng nhanh qua các năm và luôn nằm trong top những ngân hàng chiếm thị phần lớn nhất. Ngoài các sản phẩm thẻ thông dụng, Vietcombank còn là đại lý độc quyền thanh toán thẻ American Express trên thị trường Việt Nam.
Vietcombank luôn là ngân hàng có mạng lưới POS và ATM trong nhóm lớn nhất cả nước với 1.917 ATM và 42.238 đơn vị chấp nhận thẻ (POS) tính đến hết năm 2013.
Tỷ trọng huy động và cho vay bán lẻ trong tổng huy động và cho vay ngày càng gia tăng cho thấy được định hướng kinh doanh của Vietcombank tập trung chủ yếu vào hoạt động NHBL.
Để đẩy mạnh tín dụng bán lẻ, Vietcombank đã đưa ra nhiều gói sản phẩm tín dụng phù hợp với đa dạng nhu cầu của khách hàng như sản phẩm cho vay mua nhà, xây sửa nhà, cho vay du học, cho vay mua xe ô tô… với mức lãi suất ưu đãi, thủ tục linh hoạt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng với mức lãi suất biến động theo kỳ hạn, các chương trình khuyến mãi, quà tặng nhân dịp các ngày lễ lớn cũng là yếu tố nhằm thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, Vietcombank còn linh hoạt cho khách hàng gửi tiền tại một chi nhánh và có thể rút tại bất kỳ chi nhánh nào trong cả nước.
Vietcombank đã không ngừng đổi mới hệ thống công nghệ nhằm nâng cao khả năng cung cấp dịch vụ cũng như chất lượng dịch vụ, tăng cường đầu tư vào công nghệ với định hướng chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu để đón đầu các cơ hội kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh nhất là trong lĩnh vực NHBL. Các sản phẩm, dịch vụ NHBL dựa trên nền tảng công nghệ cao phải kể đến các dịch vụ như Internet Banking, Home Banking, SMS Banking, Phone Banking, Mobile Banking… đã và đang thu hút đông đảo khách hàng bằng sự tiện lợi, nhanh chóng, an toàn, hiệu quả, dần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt.
Tỷ trọng đóng góp trong tổng lợi nhuận ngân hàng của hoạt động NHBL ngày càng tăng.
2.5.2 Các mặt hạn chế và nguyên nhân Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
2.5.2.1 Các mặt hạn chế
Các sản phẩm,dịch vụ của Vietcombank còn mang tính truyền thống, không đa dạng, các sản phẩm dịch vụ không cụ thể mà chỉ là những sản phẩm chung chung, chưa đáp ứng được nhu cầu của đại bộ phận khách hàng. Mảng tiền gửi cũng như mảng tiền vay chưa có nhiều sản phẩm đa dạng dạng đáp ứng được nhu cầu của nhiều khách hàng.
Thủ tục, quy trình giải quyết hồ sơ còn phức tạp đòi hỏi phải cải thiện hơn về quy trình nghiệp vụ, một mặt đáp ứng được nhu cầu nhanh chóng, thuận tiện cho khách hàng nhưng vẫn cần đảm bảo sự chặt chẽ trong quy trình nghiệp vụ nhất là trong bối cảnh kinh tế có nhiều rủi ro như hiện nay.
Một số nghiệp vụ cũng cần quan tâm đến thời gian giải quyết hồ sơ vì đây cũng là yếu tống mang tính cạnh tranh cao.
- Vietcombank cũng cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nhàm xây dựng đội ngũ nhân viên, nhanh nhẹn, chuyên nghiệp và thân thiện.
- Là một ngân hàng bán buôn truyền thống nên vấn đề về phí dịch vụ cho các sản phẩm bán lẻ của Vietcombank chưa được chú trọng để tạo lợi thế nhằm tăng tính cạnh tranh trong hệ thống.
- Mạng lưới điểm giao dịch của Vietcombank chủ yếu tập trung tại các thành phố, thị xã mà chưa bao phủ khắp cả nước.
- Chất lượng dịch vụ khách hàng của Vietcombank chưa đáp ứng được những yêu cầu về sự thuận tiện, giản đơn và đáp ứng được các nhu cầu đa dạng của mỗi khách hàng. Vietcombank cũng cần nỗ lực phát huy những ưu thế hiện có tốt hơn và không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ một cách tốt nhất.
- Ngoài việc là đại lý độc quyền cho thẻ Amex, Vietcombank vẫn chưa có nhiều sản phẩm “lõi” để tạo tính khác biệt trong thương hiệu của mình.
- Vietcombank vẫn chưa tạo được sự đồng bộ trong toàn hệ thống của mình.
2.5.2.2 Nguyên nhân của những hạn chế Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
Nguyên nhân khách quan
Chiến lược phát triển của các NHTM có nhiều điểm tương đồng, như phát triển dịch vụ bán lẻ, dịch vụ doanh nghiệp hoặc trên thị trường tiền tệ, mở rộng quy mô mạng lưới và phát triển nguồn nhân lực, công nghệ, quản trị điều hành… Điều này phản ánh mặt bằng phát triển chung, song cũng là điểm khó trong xây dựng chiến lược riêng của mỗi NHTM khi muốn tạo dựng cái riêng của mình trước công chúng.
Sự phối kết hợp giữa các NHTM trong thực hiện các DVNH mới còn kém: Mỗi hệ thống ngân hàng phát triển một chiến lược hiện đại hoá khác nhau, ít có sự gắn kết với nhau, chính điều này gây ra sự lãng phí vốn và thời gian, sự cạnh tranh không đáng có giữa các ngân hàng, sự khó khăn cho lựa chọn của các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ ngân hàng vì vậy hiệu quả sử dụng còn thấp.
Khả năng tài chính của các ngân hàng còn thấp, mặc dù phần lớn các NHTM Việt Nam đều đạt yêu cầu vốn điều lệ tối thiểu tuy nhiên so với quy mô tài chính của các NHTM trong khu vực thì mức vốn này vẫn ở mức khiêm tốn. Trong bối cảnh hiện nay, năng lực tài chính của các ngân hàng hạn chế đã gây khó khăn trong việc triển khai về công nghệ đối với các DVNH mới như Home banking, Internet banking…
Thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn ở mức thấp, tâm lý dùng tiền mặt và sự hiểu biết về dịch vụ NHBL của đa số người dân Việt Nam thấp, cũng là một nguyên nhân để cho việc mở rộng các dịch vụ NHBL gặp nhiều khó khăn.
Nguyên nhân chủ quan
Năng lực tài chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chưa thực sự mạnh: là ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống NHTM Việt Nam nhưng cũng chỉ mới đạt mức hơn 23.000 tỷ đồng tương đương khoảng hơn 1 triệu đôla Mỹ, tuy nhiên so với các ngân hàng nước ngoài thì đây vẫn là một con số thấp.
Các sản phẩm bán lẻ tại Vietcombank do Hội sở chính thiết kế nhưng chưa thực sự phù hợp với thực tế gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Việc triển khai thường chậm trễ và đôi khi thực hiện không đồng nhất giữa các chi nhánh.
Đội ngũ nhân viên thực hiện công tác tiếp thị, giới thiệu sản phẩm và chăm sóc khách hàng chưa được đào tạo bài bản, thiếu tính chuyên nghiệp.
Các điểm giao dịch của Vietcombank phân bổ chưa hợp lý, chủ yếu tập trung tại các thành phố, thị xã mà chưa bao phủ khắp cả nước gây khó khăn cho khách hàng khi giao dịch.
Vietcombank đã từng là ngân hàng đi đầu trong ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động ngân hàng tuy nhiên vị thế đó hiện đang bị cạnh tranh khi các NHTM khác tích cực đầu tư vào công nghệ và đã đưa ra được một số sản phẩm vượt trội.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công nghệ hiện đại, vấn đề bảo mật và an toàn cần phải được đầu tư đúng mức để hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro.
Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngân hàng gây ra sự lãng phí không đáng có.
Vấn đề đặt ra cho Vietcombank hiện nay là phải khắc phục những hạn chế nhằm đẩy mạnh hoạt động NHBL thông qua việc: Đa dạng hơn các sản phẩm này không chỉ danh mục chung mà còn là các sản phẩm cụ thể; Ứng dụng công nghệ thông tin rộng rãi không chỉ trong một hệ thống NHTM mà còn phải kết nối giữa các NHTM trong những dịch vụ ngân hàng đòi hỏi có sự liên kết; Lựa chọn các sản phẩm “lõi” của từng NHTM để tạo ra tính khác biệt trong thương hiệu và hấp dẫn riêng; Chú trọng thị trường cũ và quan tâm thực sự tới thị trường mới trong bối cảnh cạnh tranh mạnh với khối ngân hàng nước ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong phạm vi chương hai, tác giả đã đánh giá hiệu quả hoạt động NHBL tại Vietcombank một cách toàn diện thông qua:
So sánh tương quan giữa Vietcombank và một số ngân hàng đối thủ để đánh giá hoạt động của Vietcombank được khách quan.
- Phân tích SWOT hoạt động dịch vụ NHBL tại Vietcombank
- Khảo sát ý kiến khách hàng
- Đánh giá kết quả đạt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân trong từng mảng dịch vụ để có thể đưa ra giải pháp trong chương ba. Luận văn: Thực trạng hoạt động ngân hàng bán lẻ tại VCB
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Giải pháp phát triển ngân hàng bán lẻ tại VCB