Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Khởi nghiệp thành công ở Việt Nam: Các yếu tố của môi trường kinh doanh và hàm ý với các doanh nghiệp khởi sự dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
2.2 Thực tiễn hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
2.2.1 Thực trạng khởi nghiệp Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
Tại Việt Nam hiện nay, khởi nghiệp được hiểu là hoạt động nhằm tạo ra giá trị có lợi cho người hoặc nhóm người khởi nghiệp, cho cổ đông của công ty, cho người lao động, cho cộng đồng và cho Nhà nước. Có nhiều hình thức của khởi nghiệp như khởi nghiệp qua thành lập doanh nghiệp, khởi nghiệp bằng việc phối hợp với các doanh nghiệp khác để cùng nhau phát triển ý tưởng sáng tạo của mình, khởi nghiệp bằng cách tự bắt đầu sự nghiệp của mình để tạo ra các giá trị cho bản thân, doanh nghiệp và cộng đồng.
Theo báo cáo đánh giá chỉ số khởi nghiệp của Việt Nam năm 2015-2016 do phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện đã làm rõ thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam thời gian qua và chỉ ra sự cần thiết phải đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ khởi nghiệp, cụ thể:
Nhận thức về cơ hội khởi nghiệp đối với người trưởng thành năm 2015 đã tăng mạnh so với năm 2014 và 2013. Có 56,8% người trưởng thành ở Việt Nam nhận thức cơ hội khởi sự kinh doanh năm 2015, xếp thứ 9/60 nước cũng tiến hành đánh giá chỉ số khởi nghiệp quốc gia, so với 39,4% năm 2014 và 36,8% năm 2013. Tỷ lệ này trung bình ở các nước có cùng trình độ với Việt Nam là 53,8%. Điều này cho thấy sự cần thiết của giáo dục về kinh doanh và khởi nghiệp kinh doanh ở Việt Nam cần được chú trọng và phát triển để tạo ra nguồn nhân lực đảm bảo.
Xét về khả năng kinh doanh, năm 2015 có 56,8% số người trưởng thành được hỏi ở Việt Nam tự đánh giá có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để bắt đầu kinh doanh, thấp hơn mức 58,2% của năm 2014 nhưng cao hơn mức 48,7% của năm 2013. Việc tỷ lệ này giảm đi trong năm 2015 trong khi tỷ lệ người nhận thấy cơ hội kinh doanh tăng lên cho thấy những lo ngại về sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong kinh doanh trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.
Chỉ số lo sợ thất bại khi kinh doanh ở Việt Nam năm 2015 là 45,6%, giảm so với 50,1% năm 2014 và 56,7% năm 2013. Tuy giảm nhưng chỉ số này của Việt Nam vẫn ở mức cao, xếp thứ 8/60 nước tham gia điều tra năm 2015. Lo sợ thất bại là một trong những rào cản quan trọng khiến nhiều người chưa bắt tay vào khởi sự kinh doanh dù có thể nhận thức được cơ hội kinh doanh. Điều này cho thấy Việt Nam phải có các giải pháp để nâng cao khả năng kinh doanh của người dân.
Tỷ lệ người có ý định khởi sự kinh doanh ở Việt Nam trong năm 2015 là 22,3% xếp thứ 23/60, cao hơn mức 18,2% năm 2014 và gần bằng mức 24,1% năm 2013. Tuy vậy, tỷ lệ này vẫn kém xa so với mức trung bình của các nước cùng trình độ với Việt Nam (36,5%). Điều này cho thấy tỷ lệ người có ý định khởi nghiệp ở Việt Nam còn thấp và cần có các chính sách khuyến khích khởi nghiệp, đặc biệt là cải thiện môi trường kinh doanh, hệ sinh thái khởi nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho người khởi sự kinh doanh.
Ở Việt Nam và các nước trên thế giới, sự tự tin về năng lực kinh doanh thường tỷ lệ thuận với độ tuổi. Tỷ lệ thanh niên (18-34 tuổi) nhận thức có khả năng kinh doanh ở Việt Nam là 55% trong khi tỷ lệ này ở trung niên (35-64%) là 68,6%. Trong khi đó dường như thanh niên lại là nhóm nhạy bén và nhìn nhận cơ hội kinh doanh tốt hơn, khi mà 58,7% thanh niên nhận thấy có cơ hội kinh doanh trong khi ở trung niên tỷ lệ này là 54,9%. Đây là điểm khác biệt đầu tiên so với kết quả khảo sát năm 2014 khi không có sự khác biệt về nhận thức cơ hội kinh doanh giữa trung niên và thanh niên. Điểm khác biệt thứ hai là về tỷ lệ người lo sợ thất bại trong kinh doanh. Nếu năm 2014 tỷ lệ thanh niên lo sợ thất bại trong kinh doanh cao hơn so với trung niên thì năm 2015 lại hoàn toàn ngược lại. Tỷ lệ thanh niên lo sợ thất bại trong kinh doanh là 43,8% thấp hơn mức 47,4% của trung niên. Điều này cho thấy Việt Nam cần chú trọng hơn đến đối tượng thanh niên để xây dựng các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp. Họ là những người nhạy bén trong nhìn nhận và nắm bắt cơ hội kinh doanh, dám chấp nhận rủi ro để khởi nghiệp. Điều duy nhất còn hạn chế của thanh niên so với trung niên là khả năng kinh doanh. Chính vì vậy, ngoài việc tiếp tục tăng cường trang bị các kiến thức cơ bản về kinh doanh trong các hệ thống giáo dục, cần có các chương trình đào tạo về các nghiệp vụ và kỹ năng khởi sự kinh doanh và hỗ trợ khởi nghiệp để trang bị năng lực kinh doanh cho đối tượng thanh niên.
Trong năm 2015 ở Việt Nam, tỷ lệ các hoạt động kinh doanh đang khởi sự là 1% và tỷ lệ kinh doanh mới khởi sự thành công là 12,7%. Điều này có thể hiểu rằng trong năm 2015, cứ 100 người trưởng thành thì có 14 người đang trong giai đoạn khởi sự kinh doanh, thấp hơn so với 15 người trong năm 2013 và 2014. Việt Nam xếp thứ 20 trong tổng số 60 nền kinh tế và tỷ lệ người trong giai đoạn khởi sự kinh doanh năm 2015. Trong khu vực ASEAN, Việt Nam chỉ hơn Malaysia (xếp hạng 60/60) về tỷ lệ người tham gia khởi sự kinh doanh năm 2015, còn lại kém hơn Philippines (16/60) và Indonesia (13/60). Kết quả này cho thấy cần phải tiếp tục thúc đẩy tinh thần doanh nhân khởi nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn tới. Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
Năm 2015 tỷ lệ thanh niên tham gia vào các hoạt động khởi sự kinh doanh là 15,5%, trong khi tỷ lệ này ở người trung niên là 11,9%. Cụ thể hơn, những người trong độ tuổi 25-34 là nhóm có tỷ lệ khởi nghiệp cao nhất, chiếm gần 18%, tiếp đến là nhóm người có độ tuổi từ 35-44 chiếm 16% và đứng thứ ba là nhóm 18-25 trong giai đoạn đại học chiếm 13%.
Ở Việt Nam, tỷ lệ các hoạt động khởi nghiệp kinh doanh hướng tới phục vụ người tiêu dùng chiếm tới 74,5%, cao hơn nhiều so với mức trung bình của các nước thuộc cùng giai đoạn phát triển hoạt động khởi sự trên thế giới. Tỷ trọng các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại đều thấp hơn mức trung bình của các nước có cùng trình độ phát triển: lĩnh vực chế biến 14,4% (so với 22,4%), lĩnh vực phục vụ doanh nghiệp 3,3% (so với 5,8%).
Theo phân chia theo các ngành kinh tế, tỷ lệ khởi nghiệp trong ngành bán buôn bán lẻ ở Việt Nam chiếm đến 71,2%, trong khi tỷ lệ này ở các ngành dịch vụ là 9,6% so với mức trung bình 15% của các nước cùng trình độ phát triển với Việt Nam.
Tỷ lệ người từ bỏ kinh doanh ở Việt Nam năm 2015 là 3,7%, trong đó 2,7% hoạt động kinh doanh phải chấm dứt. Nhìn chung, tỷ lệ từ bỏ kinh doanh ở Việt Nam trong giai đoạn 2013-2015 là tương đối ổn định và thấp hơn nhiều mặt bằng chung của các nước có cùng trình độ phát triển, tuy nhiên so với các nước tham gia khảo sát thì tỷ lệ này của Việt Nam được xếp vào mức trung bình, vị trí 27/60. So sánh tỷ lệ từ bỏ kinh doanh với tỷ lệ khởi nghiệp, tỷ lệ từ bỏ kinh doanh ở Việt Nam vẫn ở mức khá cao là 27%, tăng lên so với mức 24% trong năm 2014.
Lý do chính được nêu ra là gặp vấn đề về tài chính (29,2%), kinh doanh không có lợi nhuận (22,2%), có cơ hội việc làm hay cơ hội kinh doanh khác (19,4%), lý do cá nhân (11,1%) và việc từ bỏ kinh doanh đã được lên kế hoạch trước (9,7%). Đáng chú ý là những năm trước tỷ lệ người từ bỏ kinh doanh vì có cơ hội bán doanh nghiệp hầu như không có thì năm 2015 đã có 4,2%. Điều này cho thấy những tín hiệu tích cực về thị trường khởi nghiệp ở Việt Nam, nhất là sự tham gia của các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ khởi nghiệp trong nước và nước ngoài trong thời gian gần đây.
Theo thống kê của Việt Nam, các công ty khởi nghiệp thành công ở Việt Nam đều học hỏi và xây dựng những mô hình tương tự đã thành công ở nước ngoài. Điều này dẫn đến hiện tượng nhầm lẫn phổ biến giữa công ty khởi nghiệp và cá nhân lập nghiệp
- Tỷ lệ công ty khởi nghiệp thấp do nhận thức cơ hội khởi nghiệp ở người trưởng thành của Việt Nam thấp. Bên cạnh đó, kiến thức và kinh nghiệm tìm kiếm các ý tưởng kinh doanhh độc đáo, khác biệt của nhà khởi nghiệp còn hạn chế.
- Những điểm mạnh của công ty khởi nghiệp tại Việt Nam: số lượng công ty khởi nghiệp tăng nhanh; tâm lý hăng hái và khao khát vượt qua gian khổ, nghèo đói; có được cơ hội từ toàn cầu mạnh mẽ; khởi nghiệp là xu hướng được giới trẻ Việt Nam lựa chọn trong hiện tại và tương lai.
- Điểm yếu của nhà khởi nghiệp tại Việt Nam: có quá nhiều ý tưởng; thiếu và yếu các kiến thức nền tảng; tiếng anh giao tiếp kém.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh
2.2.2 Ý nghĩa của khởi nghiệp đối với phát triển kinh tế – xã hội
Tầm quan trọng của KNKD trong phát triển kinh tế và thay đổi công nghệ được tranh cãi qua nhiều thế kỷ trên các diễn đàn học thuật. Sau chiến trang thế giới thứ Hai, các học giả cho rằng phát triển các doanh nghiệp quy mô lớn có lợi cho nền kinh tế quốc dân do các doanh nghiệp lớn có lợi thế nhờ tính kinh tế do quy mô, có năng lực cạnh tranh quốc tế và khả năng tồn tại trong cạnh tranh tốt hơn. Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu chứng minh rằng các doanh nghiệp nhỏ đóng vai trò rát quan trọng trong phát triển kinh tế và hoạt động KNKD mới trong nền kinh tế tạo động lực cho phát triển kinh tế xã hội của nhiều nền kinh tế trên thế giới. Tương tự nhiều nước phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc…doanh nhân là một nghề được xã hội tôn trọng ở Việt Nam. Theo khảo sát từ Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) năm 2016, có 76% người trưởng thành đồng ý với quan điểm này, 74% người trưởng thành có mong muốn trở thành doanh nhân và cứ 5 người trường thành có 1 người có kế hoạch sẽ khởi nghiệp trong ba năm tới. Từ có số liệu này, Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tinh thần khởi nghiệp cao trên thế giới. Điều này đáng chú ý bởi vì những ý nghĩa của khởi nghiệp kinh doanh đối với phát triển kinh tế – xã hội như dưới đây: Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
- KNKD thúc đẩy quá trình truyền bá, khai thác, phát triển các tri thức mới: thành lập doanh nghiệp mới là cơ sở cho gia tăng việc khai thác, vận dụng các tri thức mới một cách hiệu quả hơn. Tri thức mới ra đời sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường để khai thác các vùng thị trường mới hình thành mà cầu chưa được đáp ứng hoặc chưa được đáp ứng tốt. đặc biệt việc một nguồn tri thức mới có được thương mại hóa, khai thác hiệu quả hay không phụ thuộc vào khả năng khai thác của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường chứ không phải từ các doanh nghiệp đang hoạt động. các doanh nghiệp mới hoạt động có thể gia tăng việc khai thác, vận dụng các tri thức mới một cách hiệu quả hơn khi các công ty hiện tại có khả năng sáng tạo ra tri thức nhưng không khai thác hiệu quả tri thức đó. Sự gia tăng chia sẻ và trao đổi tri thức giữa các doanh nghiệp và các ngành kinh doanh là cơ sở cho các hoạt động đổi mới và phát triển công nghệ, nhân tố hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế.
- KNKD đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và thúc đẩy tự do thương mại do làm gia tăng cạnh tranh trong ngành: do việc gia nhập mới của các doanh nghiệp trong ngành phải chịu sức ép lớn từ rào cản ra nhập ngành. Rào cản nhập cuộc sẽ gây khó khăn, tốn kém cho các đối thủ muốn thâm nhập ngành. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp mới chịu sức ép phải tạo ra các ý tưởng, sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu riêng của một nhóm khách hàng hoặc thị trường ngách. Các thị trường mới mang tính chuyên biệt được hình thành lại tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp mới gia nhập. Điều này tác động cải thiện sự phát triển vùng và thúc đẩy tự do thương mại.
- KNKD tạo ra doanh nghiệp mới có tác động tích cực tới năng suất: nhận diện các đối thủ mới có thể gia nhập ngành là một điều quan trọng bởi họ có thể đe dọa đến thị phần của các công ty hiện có trong ngành. Một trong những nguyên nhân để có thể coi các đối thủ muốn nhập ngành như một đe dọa đó là họ sẽ đem vào ngành các năng lực sản xuất mới. thông thường các đối thủ mới thâm nhập thị trường đặc biệt quan tâm đến việc giành được thị phần. Kết quả là các đối thủ cạnh tranh mới có thể thúc ép các công ty hiện có trong ngành phải trở nên hữu hiệu hơn, hiệu quả hơn và phải biết cách cạnh tranh với các thuộc tính mới. Những ngành nào có nhiều doanh nghiệp mới gia nhập thường có sự tăng lên trong năng suất lao động và đổi mới trong dài hạn, đặc biệt đúng trong ngành dịch vụ. Doanh nghiệp mới ra nhập không nhất thiết là doanh nghiệp dẫn đầu hoạt động đổi mới và có năng suất lao động cao hơn mà việc gia nhập của các doanh nghiệp mới có tác động đến kết quả hoạt động của ngành nói chung. Tăng số lượng doanh nghiệp mới thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường và tính chất đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng năng suất, hiệu quả của chính các doanh nghiệp trong nỗ lực cải thiện vị thế thị trường; thúc đẩy đổi mới đặc biệt tạo ra những thị trường mới với đa dạng hàng hóa và dịch vụ.
- KNKD tạo ra nhiều cơ hội việc làm: người chủ doanh nghiệp không thể đi trên con đường đưa doanh nghiệp mình đi tới thành công một mình. Họ luôn cần một “nhóm làm việc” giúp việc trong việc thực hiện các ý tưởng, triển khai các kế hoạch để đưa doanh nghiệp ngày một mở rộng, phát triển. Và khi doanh nghiệp mở rộng quy mô hay lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhu cầu tăng nhân sự là tất yếu. Nó sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho mọi người và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
2.3 Đánh giá tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
2.3.1 Hành lang pháp lý Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
Sự ra đời của đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” đã đặt mục tiêu, đến năm 2025, hỗ trợ phát triển 2.000 dự án khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và hỗ trợ 600 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, cho thấy Chính phủ đang rất tập trung đầu tư và khuyến khích các doanh nhân khởi nghiệp. Tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên gia, bên cạnh các chính sách hỗ trợ được đưa ra, rất cần thêm những hành lang pháp lý cụ thể để hướng dẫn, tạo đà cho doanh nghiệp khởi nghiệp. Mặc dù thừa nhận, Việt Nam hiện đã có hành lang pháp lý cơ bản để doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển, có hệ thống các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp và cũng đã bắt đầu hình thành các quỹ cá nhân đầu tư cho khởi nghiệp… Tuy nhiên, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, nước ta cần thêm những quy định cụ thể, rõ ràng về pháp lý để DN khởi nghiệp yên tâm hoạt động. Lấy ví dụ, theo ông Trịnh Minh Giang, Chủ tịch Nhóm công tác khởi nghiệp Sáng tạo của Diễn đàn Kinh tế tư nhân (VPSF) thì: Đã đến lúc cần phải chính thức hóa việc dịch chuyển Quỹ đầu tư khởi nghiệp – đổi mới sáng tạo lên các phương tiện thông tin chính thống, giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp có thể tìm hiểu và tìm kiếm những trợ giúp cần thiết và phù hợp. Ông Giang cho rằng, hiện có nhiều công ty vừa là các công ty khởi nghiệp, vừa là nhà đầu tư cho các công ty khởi nghiệp nhưng chưa có hành lang pháp lý để các công ty thuộc diện này hoạt động. Hành lang pháp lý cho các công ty, doanh nghiệp thông thường thì đã có, nhưng pháp lý riêng cho doanh nghiệp khởi sự thì chưa có. Nếu áp dụng quy tắc thông thường thì khó áp dụng.
Cũng theo ông Giang, Chính phủ cố gắng hỗ trợ để xây dựng được Nghị định riêng cho lĩnh vực khởi nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Ông Nguyễn Trung Chính – Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Tập đoàn Công nghệ CMC lại cho rằng Chính phủ nên khuyến khích phát triển khởi nghiệp sáng tạo, sớm có khung pháp lý cho khởi nghiệp sáng tạo đặc biệt là Nghị định về quỹ khởi nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó có thể ban hành các chính sách đẩy mạnh các hoạt động thu hút đầu tư, tao lập môi trường hỗ trợ, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo…cũng như ban hành nguyên tắc chỉ đạo: Hỗ trợ tối đa và tức thì cho các vấn đề mới, phát sinh trong quá trình phát triển Startup. Cũng theo ông Chính, việc thí điểm mô hình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo nên xây dựng theo chuẩn thế giới, theo các tiêu chuẩn ISO cho những thành phố tại Việt Nam để giải quyết vấn đề nguồn nhân lực trong ngành công nghệ thông tin. Chính phủ cũng cần thúc đẩy sớm các chương trình đào tạo nguồn nhân lực để đạt mục tiêu có 100.000 kỹ sư công nghệ thông tin vào năm 2020, vì đây chính là lực lượng cốt cán để tạo được khởi nghiệp thành công. Bên cạnh đó, Chủ tịch CMC cũng kiến nghị Chính phủ xem xét, rà soát các văn bản luật và nghị định; dỡ bỏ mọi rào cản với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân; tránh bất bình đẳng và tạo ra các giấy phép con mới, tạo cơ chế xin- cho, gây nhiều bất cập và tăng phí phí cho DN. Như vậy, tuy khởi nghiệp nhận được sự quan tâm lớn từ xã hội và nhà nước, không ít hành lang pháp lý đã được xây dựng, triển khai để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp. Tuy nhiên, nhà nước và Chính phủ vẫn cần cụ thể hơn nữa các hành lang pháp lý giành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp khởi nghiệp. Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
2.3.2 Mức độ tạo thuận lợi khởi nghiệp
Theo kết quả khảo sát doanh nghiệp do VCCI thực hiện đối với nhóm giải pháp “tạo dựng môi trường thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo” cho thấy, doanh nghiệp đánh giá nhóm giải pháp này có tác động tương đối tích cực, tích cực, và rất tích cực với tỷ lệ cao (khoảng 80%). Điều này nói lên rằng, doanh nghiệp rất quan tâm đến những giải pháp giúp doanh nghiệp khởi nghiệp thuận lợi. Nhà nước ta đã và đang có những quy định, chính sách, quỹ hỗ trợ để giúp hạn chế và dần đi đến xóa bỏ các khó khăn trong khởi nghiệp cho doanh nghiệp. Các chương trình, chính sách tiêu biểu như Đề án Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025, Luật doanh nghiệp vừa và nhỏ, các quy định mới được ban hành về thủ tục đăng ký doanh nghiệp mới…đã góp phần làm giảm sự cạnh tranh, tăng sự thuận lợi cho các doanh nghiệp. Một số đại biểu quốc hội (ĐBQH) đề nghị làm rõ khái niệm, nội dung, tính chất, loại hình, quy mô… của DNNVV khởi nghiệp sáng tạo để hỗ trợ đúng đối tượng và tránh lãng phí đồng thời công nhận và khuyến khích khu vực tư nhân góp vốn hợp pháp thành lập quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo để đầu tư, tài trợ nhằm cổ vũ, khuyến khích cho hoạt động đổi mới sáng tạo, thực hiện các ý tưởng. Với quy định vốn đầu tư từ nguồn ngân sách địa phương không quá 30% tổng vốn đầu tư vào doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, ĐBQH Trần Anh Tuấn (TP Hồ Chí Minh) phân tích sự tham gia có thể thành công hay thất bại, nên cần làm rõ cơ chế chịu trách nhiệm chia sẻ rủi ro và có thêm sự đóng góp từ quỹ trung ương nhằm đa dạng hóa kênh tiếp cận vốn. Tóm lại, khởi nghiệp hiện nay nhận được sự quan tâm của Chính phủ, Nhà nước và toàn xã hội
2.3.3 Nhân lực Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
Với các doanh nghiệp khởi sự, nhân lực là yếu tố đóng vai trò rất quan trọng. Người khởi nghiệp khi bắt đầu khởi nghiệp thường là những người có năng lực. Tuy nhiên, năng lực đó chưa đạt tới độ chín mà chỉ ở dạng tiềm năng, còn cần vượt qua nhiều khó khăn mới thành người tài thực sự. Thêm vào đó, sự liên kết giữa những người giỏi nhìn chung là yếu. Do ít vốn nên doanh nghiệp khởi nghiệp càng có ít cơ hội sở hữu những người nhân viên có năng lực, trong khi nhân sự tốt hiếm hoi lại dễ bị các doanh nghiệp lớn câu kéo. Đa số doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lĩnh vực đòi hỏi nhân lực có trình độ cao để có thể hiện thực hóa ý tưởng của họ vào đời sống thực tế. Hơn thế nữa, nguyên nhân chính dẫn đến việc khởi nghiệp thất bại là do thiếu kiến thức về quản trị điều hành doanh nghiệp, thiếu kinh nghiệm thực tế trong môi trường kinh doanh và thiếu hiểu biết về khoa học và công nghệ, nói tóm lại là sự yếu kém trong nhân sự của doanh nghiệp. Hơn nữa, hệ thống giáo dục chưa chú trọng khơi dậy tinh thần khởi nghiệp cho thế hệ trẻ; học sinh, sinh viên chưa được trang bị nguyên lý cơ bản về kinh tế học, ít được tiếp cận thực tiễn về kinh doanh. Trong khi đó, tinh thần làm chủ, khởi nghiệp lại được bắt đầu từ những người lăn lộn với thực tiễn, ít có cơ hội học hành, dẫn đến những người có trình độ chuyên môn, có nhiều cơ hội khởi nghiệp thành công lại hướng đến việc đi làm thuê. Ðặc điểm đó đã tạo ra rào cản lớn cho quá trình hình thành tinh thần khởi nghiệp trong đời sống hiện đại.
2.3.4 Quỹ đầu tư/nguồn vốn
Vốn là yếu tố cần đầu tiên quyết định sự thành công cho một dự án khởi nghiệp, “Làm sao để huy động được vốn” luôn là câu hỏi trăn trở đối với những DN mới tham gia khởi nghiệp. Thách thức chung đối với các công ty khởi nghiệp tại Việt Nam đó là việc huy động vốn, khi mà trong tay người khởi nghiệp hoàn toàn chưa có gì ngoài ý tưởng và niềm đam mê kinh doanh. Hiểu được tầm quan trọng của nguồn vốn đối với khởi nghiệp, nhiều nguồn quỹ được thành lập như Quỹ đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm…được hình thành với mục đích giúp doanh nghiệp khởi sự thuận lợi hơn trong giai đoạn khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp. Theo định hướng của Chính phủ và chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về việc tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển sản xuất, vừa qua, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã điều chỉnh giảm lãi suất vay ngắn hạn đối với 5 lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ bao gồm phát triển nông nghiệp, nông thôn; thực hiện phương án, dự án sản xuất – kinh doanh hàng xuất khẩu; phục vụ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa; phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ; phục vụ sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các doanh nghiệp khởi nghiệp. Từ những phân tích trên có thể thấy nguồn vốn giành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp luôn sẵn và dồi dào, tuy nhiên thực tế cho thấy, những vấn đề chính doanh nghiệp khởi nghiệp gặp phải khi tìm kiếm nguồn vốn thường là khó khăn trong tiếp cận và thiếu sự chuẩn bị cho dự án. Khi một doanh nghiệp muốn kêu gọi vốn thì phải giới thiệu dự án thật hấp dẫn để thuyết phục nhà đầu tư, để nhà đầu tư cảm thấy yên tâm khi bỏ tiền vào công ty khởi nghiệp. Sai lầm lớn của nhà khởi nghiệp khi thuyết phục nhà đầu tư là chỉ nói những gì mình muốn hơn là nói điều nhà đầu tư muốn nghe, chú trọng đến sự tâm huyết hơn là đưa ra những đề nghị cho nhà đầu tư lựa chọn. Đây cũng là căn bệnh thường thấy ở một số bạn trẻ khởi nghiệp: tự tin thái quá. Điều này dễ gây “mất điểm”, vì nhà đầu tư chính là những doanh nhân lão luyện và đầy kiến thức, họ rất giỏi trong các lĩnh vực. Mặt khác, các bạn thường không mạnh dạn đề nghị một mức vốn cụ thể. Nhà đầu tư khi rót vốn là muốn đồng hành cùng dự án chứ không phải để hướng dẫn, hay để được “cầm tay chỉ việc”.
Đó là vốn tài chính, nhưng trong một số dự án khởi nghiệp, đôi lúc vốn xã hội còn quan trọng hơn cả vốn tài chính. Chính vì thế, trong khởi nghiệp người ta nhận ra rằng vai trò của các Mentor- người dẫn dắt là rất quan trọng. Nó quyết định đường đi nước bước cũng như sự thành bại của một Startup. Mentor là những người có dư kinh nghiệm, tiền bạc nhưng lại thiếu thời gian, họ sẽ và luôn là người định hướng, điều chỉnh ý tưởng kinh doanh và rót tiền vào các dự án; Thiết lập và kết nối mối quan hệ giúp Startup phát triển nhanh hơn, mạnh hơn. Chính vì thế có nhiều ý kiến đánh giá, vốn xã hội là yếu tố đầu tiên còn tiền bạc chỉ là yếu tố thứ hai, thiếu một trong hai hoặc cả hai yếu tố đó thì đều là thách thức lớn đối với các công ty khởi sự.
Chương 2 đã nêu được thực trạng tổng quan về môi trường kinh doanh bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị – pháp luật, văn hóa đoanh nghiệp, công nghệ, nhân sự và hệ sinh thái khởi nghiệp tại Việt Nam, một số số liệu về thực tiễn hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2017 và tác động của môi trường kinh doanh đến khởi nghiệp thành công tại Việt Nam ở các khía cạnh: hành lang pháp lý, mức độ tạo thuận lợi khởi nghiệp, nguồn nhân lực và quỹ đầu tư/ nguồn vốn. Từ những thực tiễn đó, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm cải tạo môi trường kinh doanh, giúp cho các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam đi đến thành công như những trình bày trong chương 3. Luận văn: Thực trạng hoạt động khởi nghiệp tại Việt Nam
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Giải pháp tạo thuận lợi kinh doanh cho khởi nghiệp