Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.2 Phân tích hiện trạng hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến

2.2.1 Hiện trạng về thị trường

2.2.1.1 Thị trường nhựa gia dụng trong nước

Ngành sản xuất sản phẩm nhựa là một trong những ngành công nghiệp đang phát triển nhanh nhất tại Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trung bình trong 10 năm trở lại đây là 15–20%. Hiện tại trên thị trường có rất nhiều chủng loại sản phẩm nhựa bao gồm sản phẩm đóng gói, đồ gia dụng, vật liệu xây dựng, thiết bị điện và điện tử, linh kiện xe máy và ô tô và các linh kiện phục vụ cho ngành viễn thông và giao thông vận tải. Cho đến nay, hiện có khoảng gần 2.000 doanh nghiệp, chủ yếu tập trung nhiều nhất tại miền nam, và được phân chia như sau: Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

  • Miền bắc khoảng 15% – tương đương khoảng 300 doanh nghiệp.
  • Miền trung khoảng 5% – tương đương khoảng 100 doanh nghiệp.
  • Miền nam khoảng 80% – tương đương khoảng 1.600 doanh nghiệp.

Các công ty sản xuất đều tập trung tại Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Bình Dương, Đồng Nai, Long An. Mô hình hoạt động của hầu hết doanh nghiệp ngành nhựa, hầu hết, là các công ty có quy mô vừa và nhỏ, doanh nghiệp tư nhân (chiếm 90%).

Việt Nam là nước nhập khẩu ròng nguyên liệu nhựa, các chất phụ gia, máy móc và thiết bị phục vụ cho ngành sản xuất nhựa. Trung bình hàng năm, Việt Nam nhập khẩu từ 70 đến 80% nguyên liệu nhựa, trong đó có hơn 40 loại nguyên liệu khác nhau và hàng trăm loại chất phụ gia. Việt Nam nhập khẩu hầu như tất cả các thiết bị và máy móc cần thiết cho ngành sản xuất nhựa, chủ yếu là từ các nước châu Á và châu Âu.

Nhu cầu thị trường

Kể từ năm 2000 trở lại đây, ngành công nghiệp sản xuất nhựa của Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng cao nhờ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu tăng mạnh. Tiêu thụ nhựa bình quân theo đầu người tại Việt Nam năm 1975 chỉ ở mức 1kg/năm và không có dấu hiệu tăng trưởng cho đến năm 1990. Tuy nhiên, kể từ năm 2000 trở đi, tiêu thụ bình quân đầu người đã tăng trưởng đều đặn, Hiệp hội nhựa Việt Nam ước tính tiêu thụ bình quân đầu người sẽ tăng từ 30 kg/người trong năm 2012 lên 55 kg năm 2015. Đây là so với mức bình quân 37kg/người trong năm 2012 trên thế giới và mức 120 kg/người tại Hoa Kỳ hay châu Âu5. Tiêu thụ sản phẩm nhựa tăng đã tạo ra một làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành xây dựng, giao thông vận tải và các ngành sản xuất khác phát triển.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing

2.2.1.2 Thị trường nhựa xuất khẩu Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Ngoài việc đáp ứng nhu cầu trong nước thì sản phẩm nhựa Việt Nam có tiềm năng phát triển rất lớn để tạo được vị thế vững chắc trên thị trường quốc tế. Sản phẩm nhựa Việt Nam có vị thế khá cạnh tranh trên trường quốc tế nhờ vào (1) việc áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến; (2) được hưởng những ưu đãi về thuế quan và (3) có khả năng thâm nhập thị trường tốt.

Trong khi đó, xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng cũng kích thích sự tăng trưởng của ngành sản xuất nhựa tại Việt Nam. Nhựa là một trong những mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất tại Việt Nam trong 5 năm trở lại đây.

Sản phẩm nhựa Việt Nam hiện có mặt tại hơn 55 nước trên thế giới, bao gồm các nước ở Châu Á, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Âu và Trung Đông. 10 thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Campuchia, Đức, Anh, Hà Lan, Pháp, Đài Loan, Malaysia và Philippines.

Xuất khẩu các sản phẩm nhựa của Việt Nam trong năm 2012 tiếp tục tăng trưởng khả quan so với năm 2011. Tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm mặt hàng này trong cả năm 2012 đạt khá cao xấp xỉ 1,6 tỷ USD, tăng 16,8% so với năm 2011. Xuất khẩu sang một số thị trường lớn như: Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Indonesia, Thái Lan và Malaysia… đều đã có sự tăng trưởng đáng kể về tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm nhựa của Việt Nam.

Hình 2.2: Cơ cấu các thị trường xuất khẩu sản phẩm nhựa trong 6 tháng đầu năm 2013 (% tính theo trị giá)6

Theo báo cáo của Hiệp hội Nhựa Việt Nam, trong năm 2013, ngành nhựa đã xuất khẩu đạt tổng kim ngạch 2,215 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm nhựa đạt 1,808 tỷ USD, tăng 13,3% so với 20127.

Hình 2.3: Cơ cấu các sản phẩm nhựa xuất khẩu năm 2013 (% tính theo trị giá)8

Tuy nhiên, vẫn có khá nhiều doanh nghiệp sản xuất của ngành gặp nhiều khó khăn mà đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ do nhu cầu tiêu dùng nội địa giảm các nhóm sản phẩm nhựa trong khi đó những chi phí đầu vào như: điện, xăng, nguyên vật liệu là gánh nặng với các doanh nghiệp ngành nhựa, chi phí điện chiếm 10-15% tổng chi phí sản xuất; việc tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp nhựa vừa và nhỏ không thuận lợi như những đơn vị lớn… Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Để đáp ứng thị trường nội địa và xuất khẩu, trung bình mỗi năm ngành nhựa cần khoảng 2,2 triệu tấn nguyên liệu để sản xuất nhưng trong nước chỉ mới đáp ứng được 450.000 tấn (tương đương 20% nhu cầu) mà chi phí nguyên vật liệu lại chiếm hơn 70% giá thành sản phẩm. Do đó, tuy kim ngạch xuất khẩu có cao nhưng trên thực tế lợi nhuận thu về không nhiều và gây ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Trong năm 2012, đã có khoảng 20% trong tổng số hơn 2.000 doanh nghiệp ngành nhựa đã phải đóng cửa mà nguyên nhân một phần là do giá nguyên liệu tăng cao trong khi nguồn vốn để hoạt động sản xuất hạn hẹp. Nếu không chủ động được nguồn nguyên liệu, ngành nhựa Việt Nam chủ yếu vẫn chỉ được biết đến là một ngành kỹ thuật gia công chất dẻo.

Dù vậy, các doanh nghiệp ngành nhựa vẫn có tiềm năng phát triển tốt, sản phẩm nhựa Việt Nam ngày càng có triển vọng xuất khẩu. Trong đó những doanh nghiệp xuất khẩu uy tín vẫn có nhiều đơn hàng, một số thị trường xuất khẩu của nhựa Việt Nam vẫn ổn định như: Nhật Bản, Mỹ, Đức, Campuchia, Hà Lan… Sản phẩm nhựa của Việt Nam ngày càng có triển vọng về xuất khẩu.

Hiện nay, nhu cầu sản phẩm nhựa trên thị trường thế giới vẫn rất lớn, sản phẩm nhựa của Việt Nam đặc biệt là sản phẩm nhựa gia dụng hiện đang được các nhà nhập khẩu đánh giá cao về chất lượng. Do đó dự báo kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nhựa của nước ta sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Ngành nhựa Việt Nam đang hướng tới trở thành ngành công nghiệp tiên tiến, sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, có tính cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước, có khả năng xuất khẩu những sản phẩm có giá trị gia tăng cao với sản lượng ngày càng lớn. Trong quy hoạch đến năm 2020, ngành nhựa đã tính đến việc chuyển dịch cơ cấu nhóm sản phẩm nhựa theo hướng giảm tỷ trọng các nhóm sản phẩm nhựa bao bì và nhựa gia dụng, tăng dần tỷ trọng nhóm nhựa vật liệu xây dựng và kỹ thuật.

2.2.2 Công tác nghiên cứu, phân khúc thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu

Với bề dày nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất và phân phối sản phẩm nhựa, Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến đã sớm ý thức về tầm quan trọng của Marketing, ngay từ lúc chuyển đổi thành Công ty TNHH Đại Đồng Tiến vào năm 1997, công ty đã cho thành lập bộ phận Marketing. Ở thời kỳ đầu, hoạt động Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Marketing của công ty còn sơ khai, chưa mang tính hệ thống và thiếu tính chuyên nghiệp, phòng Marketing chỉ là một bộ phận của phòng kinh doanh. Thời điểm đó việc nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện nên việc phân khúc và lựa chọn thị trường mục tiêu không được xem trọng, công ty sản xuất sản phẩm theo xu hướng đại trà.

Sau một thời gian phát triển, công ty đã tách riêng phòng Marketing ra khỏi phòng kinh doanh, kể từ đó hoạt động Marketing đã có nhiều cải thiện, cho đến thời điểm hiện tại, công ty đã phân loại các dòng sản phẩm để thuận tiện trong quản lý, nhưng hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty vẫn chưa được thực hiện thường xuyên, dẫn đến việc chậm chân trong nắm bắt thị trường và không có những hoạt động Marketing phù hợp với các biến động trên thị trường.

Đại Đồng Tiến là một trong số rất ít các doanh nghiệp nhựa ở Việt Nam có sản phẩm tham gia trong phân ngành nhựa gia dụng cao cấp với nhóm sản phẩm SINA, tuy nhiên đây cũng chỉ mới là những sản phẩm mang tính sơ khai, chưa được công ty xem là dòng sản phẩm chiến lược của mình ở phân khúc cao cấp để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài như: Lock&Lock, Biokips (Công ty Komax Việt Nam), Biozone (Công ty TNHH HomeTech), Incense,…Công ty chủ yếu tập trung khai thác thị trường ở phân khúc sản phẩm cấp trung và cấp thấp.

Nhằm đánh giá thực trạng của dòng sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến một cách rõ nét, tác giả đã tiến hành khảo sát người tiêu dùng về sản phẩm nhựa gia dụng Đại Đồng Tiến, việc khảo sát được thực hiện thông qua 320 khách hàng.

Kết quả khảo sát người tiêu dùng về sản phẩm nhựa gia dụng Đại Đồng Tiến như sau:

Mô tả thống kê mẫu khảo sát: số Bảng khảo sát NTD sản phẩm nhựa gia dụng phát ra là 320 bảng, số bảng thu về hợp lệ là 286 bảng (loại các bảng điền thiếu hoặc sai các thông tin quan trọng).

Qua thống kê mẫu khảo sát cho thấy:

Đa phần người mua sản phẩm nhựa gia dụng là nữ, chiếm 93,4%, nam chỉ chiếm 6,6%. Điều này là hợp lý vì đa số người đi mua các vật dụng thông thường trong gia đình thường là phụ nữ.

Bảng 2.2: Kết quả khảo sát người tiêu dùng sản phẩm nhựa gia dụng

Về độ tuổi của NTD mua sản phẩm nhựa gia dụng chủ yếu là từ 25 tuổi trở lên, trong đó độ tuổi từ 25-40 chiếm 44,8%, từ 40 tuổi trở lên chiếm 40,6% và còn lại là trong độ tuổi 18-25 chiếm 14,7%.

Đối với người mua sản phẩm nhựa gia dụng Đại Đồng Tiến chủ yếu có mức thu nhập từ trung bình trở lên, chiếm trên 80%, nhóm có mức thu nhập hộ gia đình từ 10-20 triệu đồng/tháng, chiếm 61,5%, nhóm có thu nhập hộ gia đình trên 20 triệu đồng/tháng chiếm 19,9%, còn lại là nhóm dưới 10 triệu đồng/ tháng, chiếm 18,5%.

Tiêu chí khi chọn mua sản phẩm nhựa gia dụng của NTD theo kết quả khảo sát tập trung ở yếu tố chất lượng, chiếm 41,3% và giá cả, chiếm 39,2%, yếu tố thuận tiện khi mua (dễ mua) chiếm 14,3%, còn lại là do sự ảnh hưởng của hoạt động khuyến mãi, chiếm 5,2%.

2.2.3 Hiện trạng các hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

2.2.3.1 Hoạt động về sản phẩm

Với hơn 30 năm trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm nhựa gia dụng, Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến đã hình thành cho mình một hệ thống sản phẩm khá đa dạng, từ các sản phẩm cấp thấp cho đến cao cấp, phục vụ cho nhu cầu của nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Sản phẩm mang thương hiệu Đại Đồng Tiến đã khẳng định được chất lượng đối với thị trường trong nước cũng như quốc tế. Công ty luôn sản xuất và kiểm soát chất lượng sản phẩm theo phương châm “Hướng đến chất lượng toàn diện”.

Hiện nay công ty Đại Đồng Tiến đang tập trung vào các dòng sản phẩm chính như SINA, NICE, DDT-HOME, FoodPAK, G.I.P… Trong đó, các sản phẩm thuộc dòng sản phẩm gia dụng DDT-Home đã có từ rất lâu, phục vụ chủ yếu cho thị trường cấp thấp và trung cấp, mặc dù công ty đã cải tiến và loại bỏ bớt một số mặt hàng nhưng vẫn còn những sản phẩm mẫu mã đã quá cũ không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại. Trong khi đó ở những dòng sản phẩm được công ty xếp vào dòng sản phẩm cao cấp như dòng sản phẩm SINA, NICE thì số lượng mặt hàng còn hạn chế, mẫu mã chưa đa dạng.

Chất lượng sản phẩm của công ty được khách hàng đánh giá khá cao, theo kết quả khảo sát chất lượng sản phẩm được người tiêu dùng đánh giá ở mức độ rất tốt chiếm 28.3%, mức độ tốt chiếm 52.1%, mức độ trung bình chiếm 18.2% còn lại ở mức độ không tốt chiếm 1.4%. Công ty đã không ngừng nghiên cứu để sản xuất các sản phẩm với chất lượng cao, hướng đến bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng. Năm 2008, công ty đã ứng dụng thành công công nghệ Nano-Silver (công nghệ kháng khuẩn) vào sản xuất và cho ra đời các sản phẩm mang nhãn hiệu SINA.

Mặc dù công ty đã rất nỗ lực trong việc tung ra những sản phẩm mới nhưng do công tác nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện đầy đủ, việc quyết định phát triển các mặt hàng mới còn mang nặng cảm tính, nên hiệu quả của một số sản phẩm mới đem lại chưa được như mong đợi. Năm 2009, công ty đã tung ra thị trường các mặt hàng ghế thuộc dòng sản phẩm NICE, tuy nhiên do chưa nghiên cứu kỹ thị trường, đồng thời các chương trình Marketing tiếp theo không tạo được sự chú ý của khách hàng nên sức tiêu thụ của mặt hàng này rất kém, tới thời điểm hiện tại hầu như không còn sản xuất.

Việc quản lý sản phẩm theo chu kỳ sống sản phẩm cũng chưa được xem trọng, công ty chưa có hoạt động khảo sát đánh giá xem sản phẩm của mình đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống sản phẩm và có biện pháp xử lý thích hợp. Dẫn đến có trường hợp nhiều sản phẩm đã ở giai đoạn suy thoái nhưng không có biện pháp cải tiến hoặc xử lý gây nên tình trạng tồn kho sản phẩm, lãng phí nguồn lực của công ty.

Bảng 2.3: Kết quả khảo sát người tiêu dùng về yếu tố sản phẩm

Qua thống kê mẫu khảo sát cho thấy:

  • Mức độ NTD nhận biết sản phẩm nhựa gia dụng của ĐĐT là tương đối cao, mức độ rất dễ nhận biết và dễ nhận biết là gần 70%, mức độ bình thường chiếm 18.5%, khó nhận biết chiếm 11.5%.
  • Về chất lượng sản phẩm của ĐĐT được người tiêu dùng đánh giá ở mức cao: mức độ rất tốt chiếm 28.3%, mức độ tốt chiếm 52.1%, mức độ trung bình chiếm 18.2% còn lại ở mức độ không tốt chiếm 1.4%. Điều này cũng phù hợp với định hướng của công ty là chỉ sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, cố gắng kiểm soát tốt chất lượng của sản phẩm.
  • Khi so sánh chất lượng sản phẩm nhựa gia dụng ĐĐT so với sản phẩm cùng loại của các công ty đối thủ cũng cho thấy rằng chất lượng sản phẩm của ĐĐT cũng được đánh giá cao với 25.9% đánh giá ở mức rất tốt, 47.9% đánh giá ở mức tốt, 23.4% đánh giá ở mức trung bình và 2.8% đánh giá ở mức không tốt. Hiện tượng sản phẩm kém chất lượng thường xảy ra ở những sản phẩm cấp thấp, mẫu mã đã cũ, khuôn mẫu bị xuống cấp.

2.2.3.2 Hoạt động về giá Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Phương pháp định giá

Việc xây dựng được một chính sách định giá sản phẩm hợp lý, phù hợp với sản phẩm sẽ giúp cho công ty có nhiều lợi thế trong việc cạnh tranh với đối thủ. Phương pháp định giá được công ty áp dụng hiện nay là phương pháp định giá dựa vào chi phí, chất lượng và thương hiệu sản phẩm, phương pháp này còn mang tính chủ quan và không đảm bảo tính cạnh tranh vì đã bỏ qua các yếu tố cung cầu, tiềm năng thị trường và đối thủ cạnh tranh, cũng như không tính đến chu kỳ sống của sản phẩm. Khi sử dụng phương pháp định giá này công ty đã không khai thác hiệu quả các thông tin Marketing.

Chính sách giá sản phẩm

Do sự biến động liên tục và khó dự đoán của giá nguyên vật liệu nên công ty cũng rất thận trọng trong việc điều chỉnh giá bán sản phẩm. Công ty chủ trương xây dựng chính sách duy trì giá cả ổn định. Công ty không đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng giá mà xác định lợi thế cạnh tranh của công ty phải được xây dựng dựa trên việc nâng cao chất lượng của sản phẩm và uy tín của thương hiệu.

Hiện nay, đối với phần lớn sản phẩm, giá bán của công ty luôn cao hơn hoặc ngang bằng các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.

Hoạt động về giá

Giá xâm nhập thị trường

Đối với các sản phẩm mới tung ra thị trường, công ty lựa chọn phương thức định giá thấp nhằm đạt mục tiêu doanh thu và sản lượng đề ra, đẩy mạnh việc mở rộng thị trường tiêu thụ và thị phần, ngăn cản các đối thủ tung ra sản phẩm cạnh tranh. Sau một thời gian khi việc tiêu thụ sản phẩm đã đi vào ổn định, công ty sẽ điều chỉnh giá về mức thích hợp, bảo đảm mục tiêu lợi nhuận mong muốn.

Điều chỉnh giá

Công ty điều chỉnh giá thông qua các hình thức như:

  • Chiết khấu tiền mặt: đối với các đại lý lấy hàng và thanh toán ngay bằng tiền mặt, công ty sẽ áp dụng chế độ chiết khấu tiền mặt với tỷ lệ cao hơn (2%) so với mức bình thường.
  • Chiết khấu số lượng: công ty sẽ giảm giá cho những khách hàng mua với số lượng lớn.

Tất cả các hoạt động điều chỉnh giá này được công ty thực hiện với cam kết vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm ổn định.

Trên thực tế, khi được khảo sát về giá cả sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến đối với người tiêu dùng, kết quả khảo sát như sau:

Bảng 2.4: Kết quả khảo sát người tiêu dùng về yếu tố giá sản phẩm

Kết quả khảo sát:

  • Hơn 54% khách hàng được khảo sát cho rằng giá các sản phẩm nhựa của công ty là cao và 65% khách hàng được khảo sát nhận định là giá cả các sản phẩm nhựa gia dụng của Đại Đồng Tiến được định giá cao hơn chất lượng sản phẩm.
  • Đồng thời, khi khảo sát nhận định của khách hàng về giá sản phẩm Đại Đồng Tiến so với các đối thủ khác thì 66,1% khách hàng cho rằng các sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến có giá cao hơn đối thủ.

2.2.3.3 Hoạt động phân phối

Hệ thống phân phối của công ty có mặt trên cả ba miền Bắc – Trung – Nam với 192 điểm bán hàng và 03 chi nhánh, 01 VPĐD ở Campuchia. Các điểm bán hàng của công ty chủ yếu tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam và các trung tâm đô thị lớn ở miền Trung và miền Bắc. (Phụ lục 2: Số điểm bán hàng trên toàn quốc của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến).

Năm 2011, công ty đã thay đổi chính sách đối với kênh phân phối của mình. Trước đây, công ty bán hàng cho các đại lý theo kiểu gối đầu, đại lý bán được hàng mới trả tiền về cho nhà sản xuất. Nhưng với chính sách mới, công ty đã chuyển sang tìm kiếm các nhà phân phối có nguồn tài chính và kho bãi tốt làm đại lý cho công ty. Công ty bán hàng cho những đại lý này với mức chiết khấu cao, đổi lại, các đại lý phải trả hết tiền để lấy hàng và tự bán để thu hồi vốn. Với chính sách mới này, công ty đã giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng để cung hàng cho các đại lý gối đầu như cách làm trước kia. Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến

Hình 2.14: Hệ thống phân phối của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến

Hiện tại sản phẩm của công ty được tiêu thụ chủ yếu thông qua các kênh phân phối sau:

  • Phân phối qua hệ thống bán sỉ: đối với các khách hàng lớn, các khách hàng công nghiệp; các cơ sở, công ty sử dụng sản phẩm của Đại Đồng Tiến làm bao bì, đóng gói…
  • Phân phối qua hệ thống chi nhánh ở 3 miền Bắc, Trung, Nam, kênh đại lý/cửa hàng, hệ thống các điểm bán chuẩn, chuyên kinh doanh sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến
  • Phân phối qua kênh hiện đại: thông qua hệ thống các trung tâm thương mại, siêu thị, Big C, Maximark, Co.opmart, Vinatex…
  • Kênh xuất  khẩu: Xuất khẩu qua các nước như: Nhật, Úc, Hà Lan,
  • Ngoài ra công ty cũng sử dụng kênh bán lẻ trực tiếp cho các đối tượng khách hàng là các hộ cá thể kinh doanh ở chợ, cũng như qua các kỳ hội chợ, triển lãm thương mại mà công ty tham gia.

Bảng 2.5: Tỷ lệ doanh thu theo từng kênh bán hàng

Để đẩy mạnh phân phối đến từng khu vực thị trường trong cả nước, công ty ưu tiên cho mục tiêu phát triển kênh phân phối qua các đại lý/cửa hàng.

Bảng 2.6: Kết quả khảo sát người tiêu dùng về yếu tố phân phối

2.2.3.4 Hoạt động chiêu thị

Hình thức chiêu thị thường được công ty áp dụng nhiều nhất là khuyến mãi áp dụng cho kênh khách hàng nhà phân phối, đại lý; được thực hiện với những biện pháp khác nhau tùy vào mặt hàng, mùa vụ, đối tượng khách hàng như: hoa hồng, chiết khấu cuối mùa vụ, tặng kèm hàng…

Thương hiệu Đại Đồng Tiến ngày càng được củng cố vững chắc dựa trên cơ sở chất lượng sản phẩm và uy tín trong quá trình hoạt động của công ty. Ngoài việc tự giới thiệu sản phẩm thông qua nắm bắt nhu cầu khách hàng, công ty còn được các khách hàng và đối tác truyền thống giới thiệu thêm các khách hàng mới nhờ uy tín tốt trong quan hệ với đối tác và bạn hàng cũ. Đây là một lợi thế quan trọng của Công ty trong tình hình thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay.

Bảng 2.7: Kết quả khảo sát người tiêu dùng về hoạt động chiêu thị

Công ty thường xuyên tham gia các hội chợ và triển lãm trong nước cũng như quốc tế để quảng bá thương hiệu như: Hội chợ Hàng Việt Nam chất lượng cao được tổ chức hằng năm ở các tỉnh trên cả nước, hội chợ ” Hongkong Houseware 2013″ tại Hongkong, Hội chợ Triển lãm Thương mại – Dịch vụ Việt Nam – Campuchia – HOCHIMINH CITY EXPO do Trung Tâm Xúc Tiến Thương Mại và Đầu Tư TP.HCM (ITPC) tổ chức,…

Công ty cũng sử dụng những hình thức và phương pháp quảng bá khác như: brochures, trang vàng, bảng hiệu, các bài viết trên các báo, tạp chí, thông qua quan hệ trong Hiệp hội Nhựa Việt Nam và Hiệp hội Nhựa TPHCM, tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và một số hoạt động tài trợ từ thiện.

2.3 Đánh giá chung về hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

2.3.1 Ưu điểm

Hoạt động nghiên cứu thị trường

Mặc dù trong một thời gian dài công ty Đại Đồng Tiến không chú trọng nhiều vào công tác nghiên cứu thị trường, nhưng cho đến hiện nay công ty đã bước đầu chú trọng và tập trung công tác nghiên cứu thị trường, tìm hiểu nhu cầu khách hàng với mong muốn ngày càng hiểu rõ nhu cầu khách hàng về các sản phẩm nhựa gia dụng nói chung và sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến nói riêng để phát triển và hoàn thiện hơn việc đáp ứng được nhu cầu thật sự của khách hàng. Bên cạnh đó, việc tập trung vào công tác khảo sát và nghiên cứu thị trường cũng góp phần thúc đẩy công tác R&D cũng như dịch vụ hậu mãi nhằm sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng mong muốn thực tế của khách hàng, đồng thời luôn có những chính sách đúng đắn và kịp thời trong công tác hậu mãi để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng.

Thị trường mục tiêu

Thị trường tiêu thụ lớn nhất hiện nay vẫn là thị trường thành phố Hồ Chí Minh, chiếm 50% số lượng điểm bán hàng trên toàn quốc. Với một thành phố đông dân, mật độ dân số cao thì hiển nhiên nhu cầu sử dụng sản phẩm nhựa gia dụng là rất tiềm năng, vì thế việc tập trung vào thị trường thành phố Hồ Chí Minh làm thị trường trọng điểm là một chiến lược đúng đắn của công ty. Việc tập trung vào phân khúc các gia đình có thu nhập trung bình và trung bình khá trong thời điểm kinh tế còn khó khăn như hiện nay cũng là một hướng đi phù hợp của công ty Đại Đồng Tiến. Việc lựa chọn và duy trì thị trường mục tiêu như trên đã và đang đảm bảo cho công ty có vị thế trên thị trường nhựa gia dụng, đồng thời tạo tiền đề cho việc mở rộng và phát triển thị trường trên toàn quốc.

Về sản phẩm

Với quá trình hình thành và phát triển dài lâu, cho đến hiện nay hệ thống sản phẩm nhựa của Đại Đồng Tiến khá đa dạng phù hợp nhu cầu của nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Với phương châm “Hướng đến chất lượng toàn diện”, thương hiệu Đại Đồng Tiến đã khẳng định được chất lượng đối với thị trường trong và ngoài nước. Bên cạnh việc đa dạng hóa sản phẩm, công ty Đại Đồng Tiến cũng được xem là đơn vị đi đầu trong việc ứng dụng thành công công nghệ cao cho các sản phẩm của mình, chẳng hạn như việc cho ra đời các sản phẩm của dòng sản phẩm SINA với việc ứng dụng công nghệ kháng khuẩn Nano-Silver.

Về chính sách giá

Với mục tiêu duy trì giá cả ổn định, công ty Đại Đồng Tiến xác định lợi thế cạnh tranh của công ty phải được xây dựng dựa trên việc nâng cao chất lượng của sản phẩm và uy tín của thương hiệu chứ không qua việc cạnh tranh bằng giá cả.

Còn với các sản phẩm mới, chính sách định giá thấp được áp dụng nhằm tập trung việc mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.

Ngoài ra, chính sách giá của Đại Đồng Tiến cũng khá linh hoạt trong chính sách điều chỉnh giá, cụ thể là các chính sách chiết khấu tiền mặt, chiết khấu số lượng và chiết khấu theo mùa.

Về hệ thống phân phối

Hệ thống phân phối của công ty có mặt trên cả ba miền Bắc – Trung – Nam. Với chính sách phân phối mới, công ty đã giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn vay ngân hàng, tiết giảm chi phí tài chính so với lúc trước.

Về các hoạt động truyền thông

Với thâm niên hơn 30 năm hình thành và phát triển, là một trong những doanh nghiệp ngành nhựa đầu tiên của Việt Nam, Đại Đồng Tiến đã hình thành thương hiệu từ khá sớm. Đây là một lợi thế không phải doanh nghiệp nào cũng có được. Bên cạnh đó với việc tham gia tài trợ khá nhiều chương trình cho cộng đồng như tài trợ người nghèo, tài trợ các chương trình mổ mắt… Đại Đồng Tiến đã khẳng định được thương hiệu dù hoạt động truyền thông diễn ra không thường xuyên. Bên cạnh đó, với việc đạt các bằng khen của Thủ tướng chính phủ về Huân chương lao động hạng 2, hạng 3, Đại Đồng Tiến đã có quan hệ khá tốt đẹp với các đơn vị nhà nước…

2.3.2 Hạn chế

Hoạt động nghiên cứu thị trường

Với việc yếu kém của công tác nghiên cứu thị trường, công ty Đại Đồng Tiến đã không đánh giá đúng và đủ về nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, cũng như chưa phân định rõ ràng từng phân khúc để có chiến lược phát triển hợp lý sản phẩm nhựa gia dụng. Đó cũng là một trong những lý do dẫn đến các hoạt động Marketing của công ty Đại Đồng Tiến thời gian qua vẫn mang tính đại trà, chỉ tập trung việc đa dạng hóa sản phẩm mà không phân tích và đánh giá các dòng sản phẩm nhựa gia dụng chủ đạo mang lại lợi nhuận cao để tập trung phát triển. Bên cạnh đó, công ty cũng chưa chú trọng công tác phân tích điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp, cũng như phân tích về đối thủ cạnh tranh, vị thế của công ty trên thị trường nhựa gia dụng nên các chiến lược phát triển sản phẩm mới của công ty thực sự chưa đạt hiệu quả như mong đợi. Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

Thị trường mục tiêu

Việc chỉ tập trung vào thị trường thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời tổng số điểm bán hàng trên thị trường toàn quốc của Đại Đồng Tiến, không kể thành phố Hồ Chí Minh là 96 điểm trên tất cả các tỉnh thành là một con số quá thấp. Do đó, việc mở rộng, chọn lọc và phát triển thị trường trọng điểm là một chính sách cần được Đại Đồng Tiến xem xét và ra quyết định nhanh chóng. Tuy nhiên, để có thể mở rộng và phát triển thị trường như mong muốn, đòi hỏi công ty Đại Đồng Tiến cần có đánh giá, nghiên cứu thị trường một cách đúng đắn nhằm đưa ra các sách lược phù hợp cho hoạt động Marketing của công ty.

Về sản phẩm

Mặc dù có được những đánh giá khá cao từ khách hàng về chất lượng sản phẩm, mức độ nhận biết của các sản phẩm nhựa Đại Đồng Tiến, nhưng các sản phẩm của công ty lại gặp phải những hạn chế như:

  • Việc quyết định phát triển các mặt hàng mới còn mang nặng cảm tính. Mặc khác, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng so với các công ty khác, thời gian để có thể tạo ra mẫu sản phẩm mới thường là rất lâu. So với các đối thủ nước ngoài và sản phẩm ngoại nhập, kiểu dáng sản phẩm của công ty chưa thật sự bắt mắt, chưa tạo được sự khác biệt. việc quyết định phát triển các mặt hàng mới còn mang nặng cảm tính.
  • Dòng sản phẩm gia dụng DDT-Home đánh vào phân khúc thị trường cấp thấp và trung chưa được đầu tư về công tác cải tiến mẫu mã, thiết kế sản phẩm đối với dòng sản phẩm này vẫn có nhiều sản phẩm với mẫu mã lỗi thời, không còn phù hợp với nhu cầu hiện tại.
  • Đối với những dòng sản phẩm nhựa gia dụng cao cấp như SINA, NICE thì số lượng mặt hàng còn hạn chế, mẫu mã chưa đa dạng.
  • Thời gian qua thực trạng tại công ty Đại Đồng Tiến cho thấy một số sản phẩm mới chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Điển hình mặt hàng ghế thuộc dòng sản phẩm NICE, vì yếu kém trong công tác nghiên cứu kỹ thị trường, cũng như các hoạt động Marketing cho mặt hàng này không tạo được sự chú ý của khách hàng nên sức tiêu thụ của mặt hàng gần như không có.
  • Ngoài ra, vì chưa tập trung nghiêm túc vào hoạt động Marketing nên bộ phận Marketing vẫn chưa thực hiện đúng và đầy đủ, như công tác quản lý chu kỳ sống của sản phẩm chưa được xem trọng dẫn đến hậu quả nhiều sản phẩm ở giai đoạn suy thoái nhưng bộ phận Marketing không nhận ra để có những chiến thuật kịp thời.

Về chính sách giá

Với phương pháp định giá dựa vào chi phí, chất lượng và thương hiệu sản phẩm, góp phần làm chính sách giá của Đại Đồng Tiến còn mang tính chủ quan và không đảm bảo tính cạnh tranh. Trong quá trình định giá, công ty Đại Đồng Tiến đã không chú trọng các công tác như nghiên cứu thị trường, yếu tố cung cầu, tiềm năng thị trường, đối thủ cạnh tranh, cũng như không tính đến chu kỳ sống của sản phẩm.

Về hệ thống phân phối

  • Hệ thống phân phối của Đại Đồng tiến vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu như độ bao phủ chưa mang tính rộng khắp, còn yếu ở khu vực miền Bắc, miền Trung, các điểm bán hàng chỉ có mặt trên 33 tỉnh thành trên 63 tỉnh thành toàn quốc, với 192 điểm bán hàng, trong đó phần lớn lại tập trung tại thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đã làm cho sản lượng và doanh thu của công ty suy giảm khi thị trường bị suy thoái và có sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các doanh nghiệp khác.
  • Công ty chưa có phương án xử lý thích hợp cho các đơn hàng nhỏ.
  • Việc thay đổi chính sách phân phối của công ty làm giảm sự trung thành của các đại lý và cửa hàng bán lẻ, dễ bị các công ty đối thủ lợi dụng để lôi kéo khách hàng.

Về các hoạt động truyền thông

Như đã phân tích ở trên, thương hiệu Đại Đồng Tiến tạo ấn tượng nhờ lợi thế người đi đầu, nhưng thật sự các hoạt động truyền thông của công ty chưa nhiều, chưa gây được ấn tượng với người tiêu dùng, nhất là các hoạt động về quảng cáo trên báo chí, tạp chí, Internet… Ngoài ra, các hoạt động đánh giá hiệu quả công tác truyền thông vẫn chưa được thực hiện.

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Phần đầu chương 2 tác giả giới thiệu tổng quan về Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến với các thông tin về quá trình hình thành và phát triển, cơ cấu tổ chức và cơ cấu sản phẩm của công ty.

Phần tiếp theo của chương 2, tác giả phân tích hiện trạng hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến.

Thông qua việc triển khai phân tích các nội dung trên, tác giả đã đánh giá rõ thực trạng hoạt động Marketing mà Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến đang thực hiện. Các hạn chế còn tồn tại của hoạt động Marketing được chỉ ra là cơ sở rất quan trọng để tác giả đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty cổ phần Đại Đồng Tiến trong chương 3. Luận văn: Thực trạng HĐ Marketing của Cty Đại Đồng Tiến

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Biện pháp hoàn thiện marketing của Cty Đại Đồng Tiến

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x