Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Kiểm định ảnh hưởng của tín hiệu gian lận và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến lãi cơ bản trên cổ phiếu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

2.1 Lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS)

2.1.1 Khái niệm

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS 30), EPS hay lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu là số lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang lưu hành trên thị trường.

Theo thông tư 200/2014/TT-BTC, lãi cơ bản trên cổ phiếu, chưa tính đến các công cụ được phát hành trong tương lai có khả năng pha loãng giá trị cổ phiếu. Chỉ tiêu này được trình bày trên Báo cáo tài chính của công ty cổ phần là doanh nghiệp độc lập. Đối với công ty mẹ là công ty cổ phần, chỉ tiêu này chỉ được trình bày trên Báo cáo tài chính hợp nhất, không trình bày trên Báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ.

2.1.2 Phân loại lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

2.1.2.1 Lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS hay Basic EPS)

Lãi cơ bản trên cổ phiếu là chỉ số đánh giá trực tiếp, phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận ròng (lợi nhuận có thể dùng chi trả cho cổ đông) trên một cổ phần mà cổ đông đóng góp.

Theo hướng dẫn của chuẩn mực kế toán Việt Nam số 30 và hướng dẫn chi tiết theo Thông tư 21/2006/TTBTC, công thức tính EPS cơ bản như sau:

Theo thông tư 200/2014/TT-BTC, trường hợp Quỹ khen thưởng, phúc lợi được trích từ lợi nhuận sau thuế, lãi cơ bản trên cổ phiếu được xác định theo công thức sau:

Tính lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ phiếu phổ thông được thực hiện bằng cách lấy chỉ tiêu lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ trừ (-) các khoản điều chỉnh giảm và cộng (+) thêm các khoản điều chỉnh tăng lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Trường hợp công ty trình bày lãi cơ bản trên cổ phiếu trên báo cáo tài chính hợp nhất thì lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ là lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp được tính trên cơ sở thông tin hợp nhất. Trường hợp công ty trình bày trên báo cáo tài chính riêng thì lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ là lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế của riêng công ty.

Lợi nhuận hoặc lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu CP phổ thông = Lợi nhuận hoặc lỗ sau thuế thu nhập doanh nghiệp +/– Các khoản điều chỉnh

Số lượng cổ phiếu phổ thông được sử dụng để tính lãi cơ bản trên cổ phiếu là số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ. Việc sử dụng số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ là do giá trị vốn cổ đông thay đổi trong kỳ khi số lượng cổ phiếu phổ thông lưu hành tăng hoặc giảm. Số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ thông lưu hành trong kỳ là số lượng cổ phiếu phổ thông lưu hành đầu kỳ được điều chỉnh theo số cổ phiếu phổ thông được mua lại hoặc được phát hành thêm nhân với hệ số thời gian. Hệ số thời gian là tỷ số giữa số lượng ngày mà cổ phiếu được lưu hành trong kỳ chia cho tổng số ngày trong kỳ.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2.1.2.2 Lãi cơ bản trên cổ phiếu pha loãng (Diluted EPS) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

EPS pha loãng (diluted EPS) để tính toán thu nhập mỗi cổ phần có xét đến yếu tố khối lượng cổ phiếu lưu hành của doanh nghiệp sẽ tăng thêm trong tương lai do việc chuyển đổi các loại chứng khoán nợ chuyển đổi (trái phiếu chuyển đổi), thực hiện quyền chọn, chứng quyền…

Theo thông tư 200/2014/TT-BTC, lãi cơ bản trên cổ phiếu được xác định như sau:

EPS pha loãng được tính tương tự EPS cơ bản nhưng trên cở sở điều chỉnh lãi thuần và số CP lưu hành bình quân trong kỳ.

Lãi hay lỗ phân bổ cho cổ đông sở hữu CP phổ thông: Lãi dùng để tính EPS cơ bản sẽ được điều chỉnh bởi các ảnh hưởng sau thuế của các khỏan:

  • Các khoản lãi suất tiền vay trong kỳ của các trái phiếu chuyển đổi tiềm năng
  • Các khoản cổ tức của các CP ưu đãi chuyển đổi tương lai mà chúng đã được trừ ra khỏi khi tính lãi cho EPS cơ bản.
  • Các khoản thay đổi khác trong thu nhập và chi phí (phí, chiết khấu, tiền thưởng) là kết quả của việc chuyển đổi các trái phiếu chuyển đổi hay quyền chọn thành CP phổ thông.

Số CP phổ thông bình quân lưu hành trong kỳ:

Bằng số bình quân gia quyền của số CP phổ thông dùng để tính EPS cơ bản cộng với bình quân gia quyền của các CP phổ thông mà chúng sẽ được phát hành từ việc chuyển đổi tất cả các trái phiếu chuyển đổi, quyền chọn, chứng quyền, quyền mua CP thành các CP phổ thông. Chúng ta giả định các CP tiềm năng này sẽ được chuyển đổi thành các CP phổ thông vào ngày đầu tiên của kỳ báo cáo.

2.2 Tín hiệu gian lận (Red flags) và hành vi điều chỉnh lợi nhuận (Earnings management) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

2.2.1 Các tín hiệu  gian lận

Theo Gerard M. Zack (2013), tín hiệu gian lận là những rủi ro quan trọng, tiềm tàng cần xem xét khi đánh giá các báo cáo tài chính của một doanh nghiệp. Việc phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp tìm ra những nơi có rủi ro cao và tạo thành danh sách những tín hiệu gian lận để phục vụ cho việc kiểm tra, rà soát kĩ cãng. Một trong các tín hiệu gian lận sử dụng phổ biến là các tỷ số tài chính hoặc các xu hướng hoặc các đặc điểm cho người đọc BCTC biết khả năng các BCTC có hàm chứa các sai sót và gian lận. Tỷ số tài chính giúp nhà phân tích báo cáo tài chính tìm ra được xu hướng phát triển của doanh nghiệp cũng như giúp nhà đầu tư, các chủ nợ kiểm tra được tình hình sức khỏe tài chính của doanh nghiệp.

Biết tính toán và sử dụng các chỉ số tài chính không chỉ có ý nghĩa với nhà phân tích tài chính, mà còn rất quan trọng với nhà đầu tư cũng như với chính bản thân doanh nghiệp và các chủ nợ. Các tỷ số tài chính cho phép chúng ta so sánh các mặt khác nhau của các báo cáo tài chính trong một doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác trong toàn ngành để xem xét khả năng chi trả cổ tức cũng như khả năng chi trả nợ vay.

Theo Gerard M. Zack (2013) có 4 loại tỷ số tài chính thường được dùng để phát hiện gian lận báo cáo tài chính được phân loại như sau: tỷ số thanh khoản, tỷ số hoạt động, tỷ số thanh toán, tỷ số lợi nhuận.

2.2.1.1 Tỷ số thanh khoản (Liquidity ratios) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Các tỷ số trong loại này được tính toán và sử dụng để quyết định xem liệu một doanh nghiệp nào đó có khả năng thanh toán các nghĩa vụ phải trả ngắn hạn hay không?

Tỷ số thanh toán hiện hành (Current Ratio)

Đây là chỉ số đo lường khả năng doanh nghiệp đáp ứng các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn. Nói chung thì chỉ số này ở mức 2-3 được xem là tốt. Chỉ số này càng thấp ám chỉ doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn đối với việc thực hiện các nghĩa vụ của mình nhưng một chỉ số thanh toán hiện hành quá cao cũng không luôn là dấu hiệu tốt, bởi vì nó cho thấy tài sản của doanh nghiệp bị cột chặt vào “tài sản lưu động” quá nhiều và như vậy thì hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là không cao.

Công thức tính:

Chỉ số thanh toán hiện hành = Tài sản lưu động/ Nợ ngắn hạn

Chỉ số thanh toán nhanh (Quick Ratio/Acid test)

Tỷ số thanh toán nhanh đo lường mức thanh khoản cao hơn. Chỉ những tài sản có tính thanh khoản cao mới được đưa vào để tính toán. Hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác được bỏ ra vì khi cần tiền để trả nợ, tính thanh khoản của chúng rất thấp.

Công thức tính:

Chỉ số thanh toán nhanh = (Tiền và tương đương tiền + Khoản phải thu + Khoản đầu tư tài chính ngắn hạn) / Nợ ngắn hạn

Đánh giá tính thanh khoản có thể hữu ích khi đánh giá nguy cơ gian lận. Các khoản đầu tư ngắn hạn, có thể bị biến động trong giá trị hợp lý và được sử dụng đển gian lận.

2.2.1.2 Tỷ số hoạt động (Activity ratios) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Các tỷ số hoạt động cho thấy doanh nghiệp hoạt động tốt như thế nào và đôi khi được gọi là tỷ số về hiệu quả hoạt động, cho thấy doanh nghiệp đã sử dụng tài sản hiệu quả đến mức nào.

Vòng quay các khoản phải thu (Accounts Receivable Turnover)

Đây là một chỉ số cho thấy tính hiệu quả của chính sách tín dụng mà doanh nghiệp áp dụng đối với các bạn hàng. Chỉ số vòng quay càng cao sẽ cho thấy doanh nghiệp được khách hàng trả nợ càng nhanh. Nhưng nếu so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành mà chỉ số này vẫn quá cao thì có thể doanh nghiệp sẽ có thể bị mất khách hàng vì các khách hàng sẽ chuyển sang tiêu thụ sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh cung cấp thời gian tín dụng dài hơn. Và như vậy thì doanh nghiệp chúng ta sẽ bị sụp giảm doanh số. Khi so sánh chỉ số này qua từng năm, nhận thấy sự sụt giảm thì rất có thể là doanh nghiệp đang gặp khó khăn với việc thu nợ từ khách hàng và cũng có thể là dấu hiệu cho thấy doanh số đã vượt quá mức.

Vòng quay các khoản phải thu = Doanh số thuần hàng năm/ Các khoản phải thu trung bình

Trong đó: Các khoản phải thu trung bình = (Các khoản phải thu còn lại trong báo cáo của năm trước và các khoản phải thu năm nay)/2

Số ngày bình quân vòng quay khoản phải thu

Cũng tương tự như vòng quay các khoản phải thu, có điều chỉ số này cho chúng ta biết về số ngày trung bình mà doanh nghiệp thu được tiền của khách hàng

Số ngày trung bình = 365/ Vòng quay các khoản phải thu

Vòng quay hàng tồn kho

Tỷ số này thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho hiệu quả như thế nào. Chỉ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều trong doanh nghiệp. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu nhìn thấy trong báo cáo tài chính, khoản mục hàng tồn kho có giá trị giảm qua các năm. Tuy nhiên, tỷ số này quá cao cũng không tốt vì như thế có nghĩa là lượng hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Thêm nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến cho dây chuyền bị ngưng trệ. Vì vậy tỷ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất đáp ứng được nhu cầu khách hàng. Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Vòng quay hàng tồn kho = giá vốn hàng bán/ Hàng tồn kho bình quân

Trong đó: Hàng tồn kho bình quân = (Hàng tồn kho trong báo cáo năm trước + hàng tồn kho năm nay)/2

Số ngày bình quân vòng quay hàng tồn kho

Tương tự như vòng quay hàng tồn kho có điều chỉ số này quan tâm đến số ngày.

Số ngày bình quân vòng quay hàng tồn kho = 365/ Vòng quay hàng tồn kho

Số ngày bình quân vòng quay các khoản phải trả (Day payables outstanding)

Số ngày bình quân vòng quay các khoản phải trả = 365/ (GVHB/Khoản phải trả bình quân)

Số ngày bình quân vòng quay các khoản phải trả có thể tương đối ổn định như bán hàng và chi phí bán hàng khi tăng hoặc giảm. Các sự cải thiện không giải thích được (giảm) số ngày các khoản phải trả sẽ là một dấu hiệu của khai thiếu các khoản phải trả.

Vòng quay tổng tài sản

Tỷ số này đo lường khả năng doanh nghiệp tạo ra doanh thu từ việc đầu tư vào tổng tài sản. Chỉ số này bằng 3 có nghĩa là : với mỗi đồng được đầu tư vào trong tổng tài sản, thì công ty sẽ tạo ra được 3 đồng doanh thu. Các doanh nghiệp trong ngành thâm dụng vốn thường có chỉ số vòng quay tổng tài sản thấp hơn so với các doanh nghiệp khác.

Vòng quay tổng tài sản = Doanh thu thuần/ Tổng tài sản bình quân

Vòng quay tài sản cố định hữu hình

Cũng tương tự như chỉ số vòng quay tổng tài sản chỉ khác nhau và với tỷ số này thì chỉ tính cho tài sản cố định hữu hình

Vòng quay tài sản cố định hữu hình = Doanh thu thuần/ Tài sản cố định hữu hình bình quân

Vòng quay tài sản cố định vô hình

Cũng tương tự như chỉ số vòng quay tổng tài sản chỉ khác nhau và với tỷ số này thì chỉ tính cho tài sản cố định vô hình

Vòng quay tài sản cố định vô hình = Doanh thu thuần/ Tài sản cố định vô hình bình quân

Tỷ số doanh thu bán hàng cho các bên liên quan (Related party sales ratio)

Tỷ số doanh thu bán hàng cho các bên liên quan = Doanh thu bán hàng cho các bên liên quan/ Tổng doanh thu

2.2.1.3 Tỷ số thanh toán (Leverage ratios) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Những sự đánh giá của toán học về các thành phần khác nhau về báo cáo tài chính của một doanh nghiệp cụ thể để xác định khả năng thanh toán của công ty đó. Rủi ro tài chính là rủi ro liên quan đến cấu trúc tài chính của công ty, ví dụ như việc sử dụng nợ.

Tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu

Tỷ số này cho thấy tỷ lệ nợ được sử dụng trong tổng cấu trúc vốn của công ty. Tỷ số nợ trên vốn lớn ám chỉ rằng các cổ đông đang thực hiện chính sách thâm dụng nợ và và do đó làm cho công ty trở nên rủi ro hơn.

Tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu = Nợ phải trả/ Vốn chủ sở hữu

Tỷ số nợ phải trả dài hạn trên vốn chủ sở hữu

Tỷ số nợ phải trả dài hạn trên vốn chủ sở hữu = Nợ phải trả dài hạn/ Vốn chủ sở hữu

Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản

Tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản = Nợ phải trả/ tổng tài sản

Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản = Vốn chủ sở hữu/ tổng tài sản

Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay

Chỉ số này cho biết với mỗi đồng chi phí lãi vay thì có bao nhiêu đồng EBIT đảm bảo thanh toán và được đo lường:

Khả năng thanh toán lãi vay = Thu nhập trước thuế và lãi vay (EBIT)/ Lãi vay

Tỷ lệ thanh toán là những công cụ rất hữu ích cho các nhà phân tích, như một công cụ phát hiện gian lận báo cáo tài chính. Được sử dụng chủ yếu để phát hiện các gian lận của nghĩa vụ nợ.

Tuy nhiên, hai trong số các chỉ số này đã được chứng minh là có một mối tương quan để gian lận báo cáo tài chính là tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu và tỷ số nợ phải trả trên tổng tài sản

Khác với một số các tỷ lệ đã được giải thích , không có tác động trực tiếp đến việc dự đoán một loại hình cụ thể của gian lận. Tuy nhiên, dựa quá nhiều vào nợ rõ ràng cho thấy một công ty có áp lực tài chính, tạo ra một kỳ vọng cao của thu nhập vững chắc và sức khỏe tài chính, dẫn đến gian lận báo cáo tài chính.

2.2.1.4 Tỷ số lợi nhuận (Profitability ratios) Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Các tỷ số về lợi nhuận cho biết tổng thể khả năng sinh lợi của công ty.

Tỷ suất lợi nhuận gộp (Gross Profit Margin)

Tỷ suất lợi nhuận gộp còn gọi là hệ số tổng lợi nhuận hoặc tỷ lệ lãi gộp được tính bằng cách lấy tổng lợi nhuận gộp chia cho doanh thu. Công thức tính tỷ suất lợi nhuận gộp như sau:

Tỷ suất lợi nhuận gộp (%) = Lợi nhuận gộp / Doanh thu

Trong đó:

Lợi nhuận gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán

Tỷ số này cho biết mỗi đồng doanh thu thu về tạo ra được bao nhiêu đồng thu nhập. Tỷ suất lợi nhuận gộp là một tỷ số rất hữu ích khi tiến hành so sánh các doanh nghiệp trong cùng một ngành. Doanh nghiệp nào có tỷ suất lợi nhuận gộp cao hơn chứng tỏ doanh nghiệp đó có lãi hơn và kiểm soát chi phí hiệu quả hơn so với đối thủ cạnh tranh.

Tỷ suất lợi nhuận hoạt động (Operating Profit Margin)

Tỷ suất lợi nhuận hoạt động cho biết lãnh đạo doanh nghiệp đã thành công đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận hoạt động được tính bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) chia cho doanh thu:

Tỷ suất lợi nhuận hoạt động = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay / Doanh thu

Tỷ suất lợi nhuận hoạt động được tính cho các giai đoạn khác nhau, chẳng hạn cho 4 quý gần nhất hoặc 3 năm gần nhất.

Tỷ số lợi nhuận sau thuế trên doanh thu (Net income ratio)

Tỷ số lợi nhuận sau thuế trên doanh thu = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu

Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE – Return on Equity) là chỉ số lợi nhuận, được tính bằng cách lấy lợi nhuận ròng chia cho bình quân vốn chủ sở hữu trong kỳ.

Đo lường khả năng sinh lơị đối với cổ phần nói chung, bao gồm cả cổ phần ưu đãi.

ROE = Thu nhập ròng/ vốn chủ sở hữu bình quân

Trong đó: vốn chủ sở hữu bình quân= (vốn chủ sở hữu năm trước+ vốn chủ sở hữu hiện tại) / 2

Tỷ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết định mua cổ phiếu của công ty nào.

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Tỷ số lợi nhuận ròng trên tài sản (Return on assets)

ROA đo lường khả năng sinh lợi trên mỗi đồng tài sản của công ty.

ROA = Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường/ Tổng tài sản

ROA cung cấp cho nhà đầu tư thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty cổ phần có sự khác biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.

Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.

Tỷ lệ hoàn vốn đầu tư (Return On Investment) Return On Investment (hay còn gọi là ROIC và ROTC) định nghĩa đơn giản thì nó là một công cụ tài chính để tính hiệu quả đầu tư. ROI sử dụng để so sánh hiệu quả đầu từ khi lựa chọn đầu tư. Như đã đề cập ở trên, khi đầu tư chỉ nhìn vào chỉ số ROE, ROA và thấy ROE cao là tốt thì mức độ nguy hiểm sẽ cao.

ROI = (Lãi ròng + Lãi vay x ( 1- Thuế suất)) / Tổng tài sản

Giống như nhiều tỷ lệ khác giải thích trong chương này, tỷ suất sinh lời có thể còn có giá trị hơn, như là một kỹ thuật phát hiện gian lận nếu được tính toán trên cơ sở các dòng sản phẩm, bộ phận, vùng hoặc chi nhánh công ty.

Theo tổng kết nghiên cứu Spathis (2002), các tỷ số tài chính nhằm dự đoán gian lận báo cáo tài chính được thu thập từ nhiều nghiên cứu trước đây như Green và Choi (1997), Hoffman (1997), Hollman và Patton (1997), Zimbelman (1997), Beasley (1996), Bologna và cộng sự (1996), Arens và Loebbecke (1994), Bell và cộng sự (1993), Schilit (1993), Davia và cộng sự (1992), Green (1991), Stice (1991), Loebbecke và cộng sự (1989), Palmrose (1987), Albrecht và Romney (1986) đã có những nghiên cứu chi tiết về các tỷ số liên quan đến gian lận báo cáo tài chính. Ban đầu có 17 tỷ số tài chính được chấp nhận. Tuy nhiên, để tránh việc cung cấp những thông tin giống nhau và dẫn đến mối tương quan cao giữa các tỷ số. Sự kết hợp của phân tích tương quan và kiểm định thống kê t-test dẫn đến việc đưa ra mười tỷ số tài chính. Các tỷ số còn lại đã đáp ứng được việc đo lường các khía cạnh của kết quả hoạt động của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận, tính thanh khoản, và hiệu quả quản trị (Courtis, 1978). Tỷ số tài chính mô tả tất cả các khía cạnh của hoạt động tài chính, bao gồm cả khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản và hiệu quả quản lý, là chỉ số cho biết tính hình sức khỏe của công ty. Tỷ số tài chính là một cách hữu hiệu và dễ dàng để giải thích các số được tìm thấy trong báo cáo tài chính. Và có thể giúp trả lời những câu hỏi quan trọng chẳng hạn như việc kinh doanh đang bị dư nợ phải trả, hàng tồn kho; khách hàng thanh toán đúng hạn, tài sản công ty có được sử dụng hiệu quả nhằm tạo ra lợi nhuận hay không.

Vì vậy, chín tỷ số tài chính dự đoán gian lận báo cáo tài chính bao gồm:

  • Tỷ số nợ phải trả / vốn chủ sở hữu (DEBT/EQ)
  • Tỷ số doanh thu / tổng tài sản (SALES/TA)
  • Tỷ số lợi nhuận sau thuế / doanh thu (NP/SALES)
  • Tỷ số khoản phải thu / doanh thu (REC/SALES)
  • Tỷ số lợi nhuận sau thuế/ tổng tài sản (NP/TA)
  • Tỷ số vốn lưu động/ tổng tài sản (WC/TA)
  • Tỷ số lợi nhuân trước thuế/ tổng tài sản (GP/TA)
  • Tỷ số hàng tồn kho/ doanh thu (INV/SALES)
  • Tỷ số nợ phải trả/ tổng tài sản (TD/TA)

Theo Panagiotis E. Dimitropoulos và Dimitrios Asteriou (2009), tác giả sử dụng 9 tỷ số tài chính được nghiên cứu trước đây nhằm đại diện cho tín hiệu rủi ro, gian lận cho mục đích xem xét tác động đến lãi cơ bản trên cổ phiếu .

Để hiểu rõ về khái niệm hành vi điều chỉnh lợi nhuận, trước hết chúng ta tìm hiểu về cơ sở ghi nhận các bút toán trong kế toán. Trong kế toán hiện tồn tại hai cơ sở ghi nhận các bút toán kế toán bao gồm: Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

  • Cơ sở dồn tích (Accrual basis): theo cơ sở này thì các bút toán kế toán được ghi nhận khi thời điểm phát sinh không kể đã thực thu, chi bằng tiền hay không. Ví dụ; ngày 15/12/2014 phát sinh một khoản doanh thu nhưng khách hàng chưa trả tiền và khoản tiền thực nhận từ khách hàng này sẽ tiến hành vào ngày 15/01/2015. Theo cơ sở dồn tích thì khoản doanh thu này vẫn được ghi nhận trên báo cáo tài chính năm 2014.
  • Cơ sở tiền (Cash basis): theo cơ sở này thì các bút toán kế toán chỉ được ghi nhận khi đã thực thu, chi bằng tiền. Ví dụ: theo ví dụ trên thì khoản doanh thu chỉ được ghi nhận khi thực thu bằng tiền nên khoản doanh thu này không được ghi nhận trên báo cáo tàĐối với các doanh nghiệp, việc ghi nhận các giao dịch kế toán đều dựa trên cơ sở dồn tích và do đó sẽ dẫn đến lợi nhuận bằng tiền (dòng tiền từ hoạt động kinh doanh) và lợi nhuận ghi nhận trên cơ sở dồn tích sẽ có sự khác biệt. Sự khác biệt này chính là được tạo ra bởi các khoản dồn tích (Ví dụ: doanh thu nhận trước, khấu hao, dự phòng, trích trước …). Do đó, phương trình kế toán sau được thiết lập:

Lợi nhuận sau thuế – Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh = Các khoản dồn tích

Từ đó suy ra:

Lợi nhuận sau thuế = Các khoản dồn tích + Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh

Như vậy, việc ghi nhận các bút toán kế toán trên cơ sở dồn tích sẽ tạo điều kiện cho các nhà quản lý của doanh nghiệp điều chỉnh tăng, giảm lợi nhuận sau thuế tùy theo mục tiêu công bố thông tin của mình bằng cách sử dụng các khoản dồn tích.

Từ phân tích trên cho thấy, khái niệm hành vi điều chỉnh lợi nhuận là hành vi của nhà quản lý sử dụng việc ghi nhận trên cơ sở dồn tích thông qua một số tài khoản để làm thay đổi lợi nhuận sau thuế theo các mục tiêu công bố thông tin của họ. Tuy nhiên, hiện tại cũng có nhiều khái niệm khác nhau về hành vi điều chỉnh lợi nhuận được sử dụng trong nghiên cứu.

Thông qua việc tổng hợp các khái niệm về hành vi điều chỉnh lợi nhuận trước đây, Ronen và Yaari (2008) cũng trình bày một khái niệm tổng quát bao gồm tất cả các khía cạnh của hành vi điều chỉnh lợi nhuận như sau: “Hành vi điều chỉnh lợi nhuận là một tập hợp các quyết định quản lý dẫn đến việc không báo cáo hiện trạng trong ngắn hạn, tối đa hóa giá trị thu nhập theo dự tính của nhà quản lý. Hành vi điều chỉnh lợi nhuận có thể: Có lợi, Có hại hoặc Trung tính. Nếu có lợi là tín hiệu cho thấy giá trị ở dài hạn, có hại thì che dấu giá trị ngắn, dài hạn và trung tính sẽ phát hiện kết quả thực hiện đúng trong ngắn hạn.

Tóm lại, từ các khái niệm về hành vi điều chỉnh lợi nhuận đã trình bày ở trên chúng ta có thể thấy được những đặc điểm chung trong các khái niệm về hành vi điều chỉnh lợi nhuận như sau:

  • Là hành vi phụ thuộc vào quyết định có chủ ý của nhà quản lý.
  • Là sự can thiệp của nhà quản lý làm thay đổi các thông tin trên báo cáo tài chính.
  • Là sự công bố thông tin liên quan đến các thời điểm trình bày báo cáo.

2.2.2.2 Các phương pháp đo lường Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Có ba phương pháp tiếp cận để đo lường và dự đoán hành vi điều chỉnh lợi nhuận, phương pháp thứ nhất nghiên cứu về tổng các khoản dồn tích và sử dụng mô hình hồi quy để tính toán và dự đoán các khoản điều chỉnh đã dự tính hoặc bất thường. Cũng theo phương pháp này việc tiếp cận có thể tập trung vào các khoản dồn tích đặc thù như dự phòng phải thu khó đòi…, hoặc tập trung vào các khoản dồn tích ở một số lĩnh vực đặc biệt như dự phòng bồi hoàn trong lĩnh vực bảo hiểm. Phương pháp tiếp cận thứ hai thông qua việc phân bổ chi phí hoặc dịch chuyển thời gian của các khoản chi phí. Phương pháp tiếp cận thứ ba tập trung vào việc công bố thông tin, thông qua các gián đoạn trong phân phối các khoản thu nhập.

Theo Francis và cộng sự (2005), Panagiotis E. Dimitropoulos và Dimitrios Asteriou (2009), tác giả lựa chọn các đo lường thứ nhất và được trình bày cụ thể như sau:

Dựa trên các khoản dồn tích

Trong phương pháp này, mô hình Jones (1991) được sử dụng phổ biến, mô hình này được xây dựng dựa trên kết quả nghiên cứu của Healy (1985) và DeAngelo (1986). Mô hình này cho rằng các khoản dồn tích là kết quả của việc nhà quản lý thực hiện các chủ định của mình và thay đổi các điều kiện kinh tế của doanh nghiệp. Mô hình này xác định tổng các khoản dồn tích theo thay đổi trong doanh thu và mức tổng của tài sản cố định. Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Mô hình Healy (1985)

Healy (1985) cho rằng hành vi điều chỉnh có hệ thống xuất hiện trong mỗi giai đoạn. Tác giả phân chia mẫu thành ba nhóm, lợi nhuận được dự đoán đang bị thổi phồng vào một nhóm và lợi nhuận được dự đoán đang bị dấu bớt vào hai nhóm còn lại, so sánh giá trị trung bình tổng các khoản dồn tích giữa các nhóm. Giá trị trung bình của tổng các khoản dồn tích trong giai đoạn ước tính là giá trị các khoản dồn tích không tự định (NDA). Mô hình để tính NDA như sau:

Với:

NDA  : Các khoản dồn tích không thể điều chỉnh ước tính;

TA : Tổng các khoản dồn tích tính theo tổng tài sản : 1,2,…,T chỉ các năm trong giai đoạn ước tính : năm ước tính các khoản dồn tích không tục định

Mô hình De Angelo (1986)

De Angelo (1986) đo lường hành vi điều chỉnh lợi nhuận bằng cách tính những khác biệt đầu tiên trong tổng các khoản dồn tích và giả định rằng những khác biệt ban đầu có giá trị mong đợi là bằng 0 theo giả thiết không của việc không có hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Mô hình này sử dụng tổng các khoản dồn tích của năm trước liền kề để tính NDA. Mô hình như sau: NDAt = TAt-1

Mô hình của De Angelo là trường hợp đặc biệt của mô hình Healy (1985), trong đó giai đoạn dùng để ước tính NDA được giới hạn là năm trước liền kề.

Mô hình Friedlan (1994)

Mô hình Friedlan giả định rằng sự thay đổi trong tổng số trích trước giữa hai giai đoạn gồm có hai thành phần: (1) sự thay đổi do tăng trưởng và (2) sự thay đổi do lựa chọn kế toán của tổ chức phát hành. Khi một công ty phát triển, số biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh và biến kế toán dồn tích có thể điều chỉnh tăng theo. Để kiểm soát ảnh hưởng của yếu tố tăng trưởng đến tổng số biến kế toán dồn tích (accruals) , mô hình giả định một tỷ lệ tương ứng so sánh giữa tổng số biến kế toán dồn tích (accruals) và doanh thu được sử dụng. Tổng số biến kế toán dồn tích (TA) được cho là điều chỉnh là sự khác biệt giữa tổng số biến kế toán dồn tích (accurals) trong thời kỳ t được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng của thời kỳ t và tổng số biến kế toán dồn tích (accurals) thời kỳ t-1được chuẩn hóa bởi doanh thu bán hàng thời kỳ t-1. Mô hình này như sau:

Mô hình Jones (1991)

Jones (1991) đưa ra một mô hình làm suy yếu đi giả định rằng các khoản dồn tích không thể điều chỉnh (NDA) là các bất biến. Mô hình này nỗ lực để kiểm soát tác động của những thay đổi trong bối cảnh kinh tế của một doanh nghiệp lên các khoản dồn tích không thể điều chỉnh (NDA). Mô hình được thể hiện như sau:

Biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh (NDA):

Trong đó:

NDAt là biến kế toán dồn tích không thể điều chỉnh được năm t

TAt: Tổng biến dồn tích năm t

At-1: Tài sản cuối năm t-1

REVt: Doanh thu thuần năm t

PPEt là nguyên giá của tài sản cố định hữu hình

Mô hình modified Jones (1995)

Trong mô hình nguyên gốc, mô hình Jones (1991) đưa vào phương trình hồi quy hai biến là REV và PPE. Theo diễn giải của nghiên cứu, giá trị REV thể hiện sự biến động doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ kế toán, nó phản ánh tình hình và môi trường hoạt động kinh doanh và là khoản mục mang tính khách quan không bị nhà quản trị lợi dụng để điều chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Tuy nhiên, tác giả cũng có đề cập tới những hạn chế trong diễn giải của mình khi chọn ΔREV làm biến nghiên cứu. Nghiên cứu cho rằng, doanh thu thuần cũng có thể bị tác động thông qua các khoản doanh thu bị ghi nhận không đúng niên độ và các khoản này có thể là doanh thu khống của doanh nghiệp. Xuất phát từ hạn chế kể trên của mô hình gốc, các nhà nghiên cứu sau này đưa thêm biến ΔREC nhằm loại bỏ ảnh hưởng của các khoản doanh thu dồn tích do sự tăng lên của khoản mục phải thu khách hàng trong kỳ, qua đó giá trị doanh thu thuần tăng thêm phản ánh chính xác hơn môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong năm đó. Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Trong đó:

RECt : Khoản phải thu năm t

Mô hình của Kothari và cộng sự (2005) Kothari, Leone and Wasley (2005) đã tiếp tục phát triển mô hình của Jones (1991) và Dechow, Sloan and Sweeney (1995) trên cơ sở xem xét biến về kết quả hoạt động. Mục đích của tác giả là nghiên cứu mối quan hệ tuyến tính giữa biến dồn tích và kết quả hoạt động.

Mô hình tuyến tính có xem xét kết quả hoạt động của Kothari, Leone and Wasley (2005) như sau :

Trong đó : ROAt-1: Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản của năm t-1

Mô hình của Phạm Thị Bích Vân (2012)

Mô hình được phát triển dựa trên mô hình Dechow, Sloan and Sweeney (1995) nhằm phù hợp với môi trường Việt Nam.

Mô hình như sau:

Trong đó:

DEt là chi phí khấu hao tài sản cố định năm t

PEt là chi phí dự phòng (giảm giá hàng tồn kho, phải thu khó đòi, giảm giá đầu tư ngắn hạn, dài hạn) năm t

2.3 Các lý thuyết cơ sở Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

2.3.1 Lý thuyết ủy nhiệm (Agency Theory)

Lý thuyết ủy nhiệm được giới thiệu bởi Jensen and Meckling (1976). Lý thuyết này nghiên cứu mối quan hệ giữa bên ủy nhiệm (principal) và bên được ủy nhiệm (agent) thông qua hợp đồng, bên được ủy nhiệm thực hiện một số công việc đại diện cho bên được ủy nhiệm.Trong DN mối quan hệ ủy quyền chủ yếu giữa cổ đông và nhà quản lý. Với phần lớn các công ty đại chúng niêm yết, vấn đề đại diện ngày càng thể hiện rõ rệt vì đa số các công ty đều thuê quản lý và thông thường những người này thường chỉ sở hữu một phần nhỏ cổ phiếu. Lý thuyết ủy nhiệm cho rằng cả hai bên (bên ủy nhiệm và bên được ủy nhiệm) đều tối đa hóa lợi ích của mình. Nếu cả hai bên tối đa hóa lợi ích thì nhà quản lý có thể điều hành quản lý dưới sự giám sát của cổ đông. Do đó mức độ CBTT càng nhiều, càng chi tiết rõ ràng thì càng giảm bớt chi phí nhà quản lý và giảm sự nghi ngờ giữa lợi ích của nhà quản lý và cổ đông.

Trong mối quan hệ bên ủy nhiệm – và bên đại diện có hai loại chi phí được nghiên cứu. Chi phí đại diện bao gồm: chi phí đầu tư vào hệ thống kiểm soát cần thiết kể giảm thiểu việc thiếu thông tin của bên ủy quyền; chi phí giảm thiểu rủi ro thông qua việc chia sẻ rủi ro với bên được ủy quyền nhờ những biện pháp kích thích dựa trên kết quả đầu ra. Lý thuyết về đại diện nhấn mạnh rằng, nhà ủy quyền cần phải sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền bằng cách (i) thiết lập những cơ chế đãi ngộ (compensation mechanisms) thích hợp cho các nhà đại diện, và (ii) thiết lập cơ chế giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình thường, tư lợi của bên đại diện.

Theo các nghiên cứu về hành vi điều chỉnh lợi nhuận, ban lãnh đạo thường công bố lợi nhuận cao nhằm đạt mức lương thưởng gắn với kết quả kinh doanh và đồng thời giữ giá cổ phiếu khi họ cũng là những cổ đông lớn.

2.3.2 Lý thuyết tín hiệu (Signalling theory)

Spence (1973) là người tiên phong cho ra đời lý thuyết tín hiệu, theo lý thuyết này khi có sự tồn tại của sự bất cân xứng thông tin, lý thuyết tín hiệu đưa ra một trạng thái cân bằng trong đó đối tượng có lợi thế về thông tin tốt hơn là nên cung cấp một số tín hiệu (thí dụ các thông tin thích hợp) cho các đối tượng khác.

Khi áp dụng lý thuyết tín hiệu trong thị trường tài chính sự bất cân xứng thông tin có thể xuất hiện giữa nhà quản lý và các đối tượng khác như cổ đông, chủ nợ, nhân viên…Khi đó theo lý thuyết tín hiệu nhà quản lý cần cung cấp thông tin (tín hiệu) cho thị trường để các đối tượng khác đánh giá đúng về thực trạng kinh tế của DN. Theo đó nhà quản lý phải cung cấp một tín hiệu về tình trạng của công ty cho chủ sở hữu. Tín hiệu có thể được thực hiện qua công bố thông tin của thông tin kế toán như BCTC. Thông tin kế toán được trình bày trong BCTC là một trong những thông tin chính mà các nhà đầu tư, các chủ nợ, cổ đông cần được cung cấp để họ đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn của công ty.

2.4 Tổng quan các nghiên cứu trước đây Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

2.4.1 Nghiên cứu trong nước

Tác giả đã tiến hành khảo sát các nghiên cứu có liên quan đến tỷ số tài chính dự đoán khả năng gian lận báo cáo tài chính và hành vi điều chỉnh lợi nhuận thông qua cơ sở dữ liệu thực hiện tại Đại học Kinh tế Tp.Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng. Có các nghiên cứu liên quan đến đề tài này như sau:

  • Nghiên cứu của Dương Thúy An (2012) thực hiện tại Đại học Kinh tế T.Hồ Chí Minh về ảnh hưởng của công bố thu nhập của doanh nghiệp đến giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt nam. Kết quả cho thấy nếu công ty công bố mức lợi nhuận cao hơn kế hoạch thì giá cổ phiếu có xu hướng tăng.
  • Nghiên cứu của Huỳnh Thị Vân (2012) thực hiện tại Đại học Đà nẵng về hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty cổ phần niêm yết trong năm đầu tiên niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt nam. Kết quả của nghiên cứu cho thấy phần lớn các công ty đều sử dụng điều chỉnh để làm tăng lợi nhuận trong năm đầu niêm yết. Đồng thời khả năng điều chỉnh tăng lợi nhuận trong năm đầu niêm yết phụ thuộc tỷ lệ thuận với điều kiện ưu đãi thuế mà công ty được hưởng.
  • Nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương (2014) xem xét mối quan hệ giữa mức độ công bố thông tin và hành vi quản trị lợi nhuận. Giả thuyết được đưa ra rằng mức độ công bố thông tin và quản trị lợi nhuận là mối quan hệ nghịch biến. Mức độ công bố thông tin được dựa trên các chỉ mục được công bố trên thuyết minh BCTC của mẫu được chọn từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, và mức độ quản trị thu nhập được sử dụng mô hình Jones điều chỉnh để đo lường. Phân tích thực nghiệm chỉ ra rằng mức độ công bố thông tin của công ty và quản trị lợi nhuận có liên quan tiêu cực với nhau.
  • Nghiên cứu của Trần Thị Mỹ Tú (2014) đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến hành quản trị lợi nhuận. Kết quả đưa ra một số biến có tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận.
  • Nghiên cứu của Trần Thị Giang Tân và cộng sự (2014) đánh giá sự hữu hiệu của tam giác gian lận trong việc phát hiện và dự báo gian lận ở các công ty niêm yết tại Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng xảy ra gian lận có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê đối với tam giác gian lận.
  • Nghiên cứu Nguyễn Việt Dũng (2010) dựa trên mô hình Ohlson (1995) cho thấy mối liên hệ giữa thông tin báo cáo tài chính và giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam và mối liên hệ này hoàn toàn có ý nghĩa về mặt thống kê.

Các đề tài này đều không đề cập đến ảnh hưởng của tín hiệu gian lận và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến lãi cơ bản trên cổ phiếu, do đó việc lựa chọn hướng nghiên cứu của tác giả không trùng lắp so với các đề tài có liên quan trong nước.

2.4.2 Nghiên cứu nước ngoài Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

Ngoài ra, theo khảo sát của tác giả thông qua cơ sở dữ liệu được tiến hành về đề tài ảnh hưởng của tín hiệu gian lận và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến lãi cơ bản trên cổ phiếu trên báo cáo tài chính, các nghiên cứu cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Thống kê các nghiên cứu liên quan về ảnh hưởng của tín hiệu gian lận và hành vi điều chỉnh lợi nhuận đến lãi cơ bản trên cổ phiếu trên báo cáo tài chính

2.5 Xác định vấn đề nghiên cứu

Qua cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước đây cho thấy có cơ sở về mối quan hệ giữa các tín hiệu gian lận, hành vi điều chỉnh lợi nhuận và giá trị của cổ phiếu. Trên cơ sở đó, tác giả dự kiến mô hình nghiên cứu sẽ tiến hành như sau:

Hình  2.1: Mô hình nghiên cứu tổng quát

Chi tiết các biến của mô hình, các giả thuyết sẽ được chi tiết trong nội dung của Chương 3 luận văn này.

Kết luận chương 2

Trong chương 2 tác giả đã trình bày một số khái niệm cơ bản liên quan đến tín hiệu gian lận, hành vi điều chỉnh lợi nhuận và lãi cơ bản trên cổ phiếu. Bên cạnh đó, chương 2 cũng nêu lên các cơ sở lý thuyết cho việc lựa chọn các yếu tố tác động đến lãi cơ bản trên cổ phiếu và thực trạng lãi cơ bản trên cổ phiếu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Với tính bắc cầu này sẽ là cơ sở để tác giả tiếp tục thiết kế nghiên cứu về ảnh hưởng của tín hiệu gian lận và hành vi quản trị lợi nhuận đến lãi cơ bản trên cổ phiếu trong chương tiếp theo. Luận văn: Khái quát về tín hiệu gian lận tại các Cty niên yết

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Thực trạng về điều chỉnh lợi nhuận tại Cty niêm yết

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x