Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Chế định án treo trong luật Hình sự Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.

BLHS 1999 đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua ngày 21/12/1999, có hiệu lực từ ngày 1/7/2000 đã đánh dấu một bước tiến mới trong kỷ thuật lập pháp nói chung và trong lĩnh vực lập pháp hình sự nói riêng của Việt Nam. Đây là lần pháp điển hoá Luật hình sự lần thứ hai, có tính quy mô và toàn diện nhất, đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của quá trình phát triển đất nước, phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, đáp ứng kịp thời cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm trong tình hình mới, giai đoạn Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới mạnh mẽ nền kinh tế, chuyễn hẳn từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định, hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước; đặc biệt là giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và phục vụ nhân dân.

Chế định án treo trong Luật hình sự nước ta ra đời từ rất sớm, sau khi BLHS năm 1985 được ban hành thì đã có nhiều ý kiến nên bỏ chế định án treo vì biện pháp án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ không có gì là khác nhau. Tuy nhiên, đến lần pháp điển hoá Luật hình sự lần thứ hai (BLHS năm 1999) thì chế định án treo không những không bị bỏ đi mà còn được giữ lại, bổ sung và được hoàn thiện. Điều này khẳng định biện pháp án treo có một vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm, nó có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, gia đình và xã hội.

Án treo được quy định tại Điều 60 BLHS đã có một số điểm mới so với chế định án treo được quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985 và chế định án treo trước năm 1985; Chế định án treo đã thể hiện được vai trò của mình trong quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự bình yên cho toàn xã hội. Đặc biệt chế định án treo đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, thể hiện sự khoan hồng và tính ưu việt của chính sách hình sự XHCN.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Tuy nhiên, thực trạng các Toà án địa phương hiện nay áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật, thể hiện qua các báo cáo kết quả giám đốc kiểm tra án hàng quý, hàng tháng và các báo cáo tổng kết cuối năm, cũng như thể hiện qua việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm của Toà án cấp trên. Vậy nguyên nhân do đâu?.

Nhằm góp phần trong quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, đảm bảo tính công bằng và bình đẳng trước pháp luật của mọi người dân, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự là mọi người đều phải chịu hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội mà mình gây ra, khắc phục tình trạng người thoả mãn các điều kiện cho hưởng án treo thì Toà án không cho hưởng án treo, trong khi đó có những người không đủ điều kiện cho hưởng án treo thì Toà án cho hưởng án treo, điều đó thể hiện sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, làm ảnh hưởng đến nguyên tắc pháp chế XHCN, không đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu của luận văn, chúng tôi muốn tìm ra nguyên nhân của việc áp dụng chế định án treo chưa chính xác, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục về tình trạng nói trên, hoàn thiện pháp luật về chế định án treo và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự cũng như công tác thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Luật

2. Tình hình nghiên cứu đề tài.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Trước khi Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời thì có một số tác giả đã có những công trình nghiên cứu về chế định án treo, đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng như làm đề tài luận văn thạc sỹ, như một số tác phẩm sau: Vũ Thế Đoàn, Nhân thân người phạm tội và việc áp dụng biện pháp án treo theo Điều 44 BLHS, Tạp chí TAND số 6/1989; Vũ Thế Đoàn, Án treo và những hình phạt bổ sung, Tạp chí TAND số 6/1990; Nguyễn Khắc Công, một số suy nghĩ về chế định án treo-Tạp chí TAND số 1/1991; Lê Văn Hưng ,Về vấn đề hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, Tạp chí TAND số 4/1994; Lê Văn Dũng, Sự cần thiết của việc áp dụng án treo đối với người phạm tội, Tạp chí TAND số 6/1994; Nguyễn Văn Tùng, Áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo, Tạp chí TAND, số 11/1995; Đoàn Đức Lương, Án treo và thực tiễn áp dụng, Tạp chí TAND số 5/1996;…Nhưng từ khi có Bộ luật hình sự năm 1999 đến nay, việc nghiên cứu về chế định án treo rất ít, như một số tác phẩm sau: Phạm Bá Thát, Một số suy nghĩ về nghị định 61/2000/NĐ-CP về thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, Tạp chí TAND số 3/2001; Tô Quốc Kỳ, Thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo và chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí TAND số 4/2002; Trương Minh Mạnh, Phân loại tội phạm với việc quy định và áp dụng chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí kiểm sát, số 3/2002; Lê Văn Luật, Việc áp dụng các quy định về án treo và thời gian thử thách của án treo-lý luận và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2004; Trịnh Quốc Toản, Bàn về án treo từ góc nhìn so sánh, Tạp chí Khoa học & Tổ Quốc, số 22-2004 (ra ngày 20/11/2004); Lê Văn Luật, Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tạp chí Kiểm sát số 03/2005; Lê Cảm, Chế định án treo và mô hình lý luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí TAND số 2/2005; …Các bài viết này chỉ đề cập đến một số khía cạnh của chế định án treo, chưa có công trình nghiên cứu nào phản ánh một cách đầy đủ và chi tiết về chế định án treo quy định trong BLHS hiện hành, đặc biệt là từ khi BLHS năm 1999 ra đời thì chưa có Nghị quyết hướng dẫn của TANDTC về áp dụng án treo để thay thế Nghị quyết 01/HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 18/10/1990, hướng dẫn áp dụng Điều 44 BLHS năm 1985.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Ngoài các bài viết như đã nêu thì cũng cần kể đến hai luận văn thạc sỹ luật học, đó là: Phạm Thị Học (1996), Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam, luận án thạc sĩ Luật học; và Trương Đức Thuận(2003), Án treo và nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong xét xử của các Toà án quân sự, luận văn thạc sĩ luật học. Nhưng luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Thị Học được bảo vệ từ năm 1996, khi mà BLHS năm 1999 chưa ra đời…; Còn luận văn thạc sỹ của tác giả Trương Đức Thuận chủ yếu nghiên cứu án treo và nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong xét xử của các Toà án quân sự…

Nội dung của luận văn chúng tôi có cách tiếp cạnh, phân tích và nghiên cứu theo hướng khác so với các luận văn nói trên, không nặng về phân tích và bình luận mà luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, bản thân tác giả đã công tác nhiều năm trong ngành Toà án nên từ thực tiễn hoạt động xét xử đã phát hiện những vấn đề bất cập trong việc áp dụng các quy định về án treo, từ đó đặt vấn đề nghiên cứu những bất cập đó. Sau khi được học tập, nghiên cứu chương trình Cao học luật tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; đặc biệt là nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản các quy định về án treo, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Chế định án treo trong Luật hình sự Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về án treo, đi từ lịch sử ra đời của án treo cho đến án treo được quy định trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng chế định án treo không đúng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Trị nói riêng, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp khắc phục, hoàn thiện chế định án treo về mặt lý luận, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong thực tiễn xét xử.

3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu đề tài:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Luận văn chủ yếu nghiên cứu việc áp dụng chế định án treo trong hoạt động xét xử của ngành Toà án nhân dân trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, về việc áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật, chủ yếu tập trung nghiên cứu về các căn cứ cho hưởng án treo (như về mức hình phạt, về nhân thân người phạm tội, về các tình tiết giảm nhẹ, về việc xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù); nghiên cứu về thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo, nghiên cứu về việc tổng hợp hình phạt khi người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; nghiên cứu về các biện pháp quản lý, theo dỏi, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo tại nơi cư trú (hoặc nơi công tác) và tìm ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác này.

Từ kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tìm ra nguyên nhân của việc áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật, từ đó tìm ra giải pháp hoàn thiện về mặt lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về án treo, đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục thực trạng đó cũng như nhằm hoàn thiện chế định án treo về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng.

4. Những điểm mới của luận văn:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Nội dung của luận văn có những điểm mới sau:

Thứ nhất, luận văn là một công trình nghiên cứu về các quy định của án treo một cách tương đối có hệ thống, đi từ lịch sử đến hiện tại, đặc biệt là so sánh những quy định về chế định án treo của hai bộ luật hình sự (BLHS 1985 và BLHS 1999). Từ đó tìm ra những điểm mới và những điểm tiến bộ của lần pháp điển hoá thứ hai về chế định án treo quy định tại Điều 60 BLHS 1999.

Thứ hai, luận văn nghiên cứu những quy định về án treo chưa được hoàn thiện, thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể từ đó dẫn đến các Toà án địa phương còn vướng mắc trong việc áp dụng những quy định này: như về những căn cứ cho người phạm tội hưởng án treo; về thời gian thử thách, và cách tính thời gian thử thách; về tổng hợp hình phạt khi người chấp hành án treo bị xét xử về một tội phạm khác trong thời gian thử thách; về công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo…

Thứ ba, luận văn phân tích một số tình tiết giảm nhẹ mà Toà án hiểu và áp dụng không chính xác từ đó cho hưởng án treo không có căn cứ, ngoài ra luận văn còn phân tích mối quan hệ giữa các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tác động lẫn nhau để xem xét cho hưởng án treo.

Thứ tư, luận văn nghiên cứu về những kết quả đạt được khi áp dụng chế định án treo cũng như những vướng mắc khi áp dụng chế định án treo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

Thứ năm, luận văn đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định án treo về mặt lý luận và phân tích một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng chế định án treo trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự cũng như công tác thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà Nước về Nhà nước và Pháp luật. Luận văn trình bày dựa trên sự nghiên cứu các quy định pháp luật về chế định án treo, các văn bản hướng dẫn áp dụng về án treo và các báo cáo tổng kết hàng năm của TANDTC.

Dựa vào các bản án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm… của các Toà án địa phương tại địa bàn tỉnh Quảng Trị, căn cứ vào các kết quả xét xử giám đốc thẩm, phúc thẩm…và đối chiếu với những quy định của pháp luật về án treo để nghiên cứu, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật.

Chúng tôi sử dụng các phương pháp thống kê-nghiên cứu; phân tích-tổng hợp; đối chiếu, so sánh với những quy định của pháp luật và các hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao để tìm ra các vấn đề còn vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng chế định án treo của các Toà án địa phương.

6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn:

Luận văn nghiên cứu về “Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, đây là một công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận, cũng như thực tiễn. Luận văn đã nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về các quy định của pháp luật về chế định án treo từ khi chế định án treo mới ra đời cho đến khi chế định án treo được quy định trong Bộ luật hình sự hiện hành. Kết quả nghiên cứu luận văn đã đưa lại kết quả như sau:

  • Giúp cho chúng tôi có một cơ sở nghiên cứu lý luận về chế định án treo từ lịch sử đến hiện tại và một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng chế định án treo.
  • Thống kế, phân tích, nghiên cứu thực trạng áp dụng chế định án treo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, những kết quả đạt được cũng như những mặt còn tồn tại.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam
  • Tìm ra được nguyên nhân khách quan và chủ quan của việc áp dụng chế định án treo không có căn cứ và không đúng pháp luật và một số vấn đề khác liên quan đến chế định án treo.
  • Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện về mặt lập pháp về chế định án treo, cũng như công tác tổ chức cán bộ của ngành Toà án nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.

7. Bố cục của luận văn:

Luận văn được trình bày theo bố cục sau:

  • Lời nói đầu.
  • Chương thứ nhất: Những vấn đề chung về án treo.
  • Chương thứ hai: Thực tiễn áp dụng chế định án treo trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự.
  • Chương thứ ba: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về án treo trong Luật hình sự Việt Nam.
  • Kết luận.
  • Danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁN TREO

1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT PHÁP LÝ, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

1.1.1. Khái niệm về án treo:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS năm 1999 thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”.

Luật hình sự Việt Nam không có đưa ra khái niệm về án treo. Chế định án treo từ khi mới ra đời cho đến khi được quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985 thì đã có những quan niệm khác nhau, đôi lúc án treo được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ việc thi hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946) hoặc là một biện pháp “hoãn hình có điều kiện” (Thông tư số 2308/NCPL ngày 1/12/1961 của TANDTC) hoặc là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP). Theo Công văn số 36/NCPL ngày 30-4-1992 của Toà án nhân dân tối cao giải thích về án treo, thì: “ Pháp luật hình sự của nước ta từ trước tới nay chưa bao giờ coi “án treo” là một loại hình phạt. Trong các đạo luật hình sự của nước ta đã ban hành từ sau cách mạng tháng 8 đến nay có quy định về tội phạm và hình phạt thì đều không quy định loại hình phạt là “án treo”. Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27-6-1985 và có hiệu lực từ 1-1-1986 tại Chương V về hình phạt và tại Điều 20 về các hình phạt chỉ quy định 7 loại hình phạt chính là “cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình”. Ở Điều luật này còn quy định 7 loại hình phạt bổ sung là “ cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tước danh hiệu quân nhân; tịch thu tài sản, phạt tiền” (khi không áp dụng là hình phạt chính).

Như vậy, trong số 14 loại hình phạt được quy định tại Điều 20 BLHS hoàn toàn không có “án treo”. Điều này có nghĩa là “án treo” không phải là hình phạt.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Án treo chỉ được quy định ở Điều 44 Chương VI Bộ luật hình sự về “việc quyết định hình phạt, miễn và giảm hình phạt”. Và tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18-10-1990, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã định nghĩa về án treo như sau: “án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Toà án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt nếu trong thời gian thử thách , người đó không phạm tội mới”.

Do không nắm vững nội dung của án treo nên đã có người hiểu sai rằng án treo là một loại hình phạt, thậm chí còn gọi sai là “tù treo” và cho là “tù treo” nhẹ hơn “tù giam”. Cũng cần giải thích rõ: “tù giam”, “tù treo” là những thuật ngữ không chính xác về mặt pháp lý. Chỉ có hình phạt tù (bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân), còn giam là việc thi hành hình phạt tù. Chỉ có “án treo” với nghĩa là “miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”, chứ không có “tù treo” với tính chất là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù” [12-99].

Ngoài quan niệm về án treo được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ việc thi hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946) hoặc là một biện pháp “hoãn hình có điều kiện” (Thông tư số 2308/NCPL ngày 1/12/1961 của TANDTC) thì chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm về án treo trái với sự giải thích, hướng dẫn của TANDTC tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP mà đều thống nhất “án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…”.

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù” [46-372].Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo PGS-TSKH Lê Văn Cảm thì “án treo là biện pháp miễn CHHP tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy định” [17-810].

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật Hà Nội thì “…Theo BLHS hiện nay, án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện…án treo thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đở tích cực của xã hội cũng như gia đình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù đã tuyên” [34-230].

Từ các quan điểm trên về án treo và nội dung về án treo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS, có thể đưa ra khái niệm về án treo như sau: Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, nếu người phạm tội có nhân thân tốt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội, Toà án sẽ miễn chấp hành hình phạt tù và ấn định một thời gian thử thách nhất định từ một năm đến năm năm; nếu trong thời gian thử thách người bị kết án không phạm tội mới thì họ sẽ vĩnh viễn không phải chấp hành hình phạt của bản án cho hưởng án treo đó. Trong thời gian thử thách người bị án treo phải thực hiện một số nghĩa vụ ràng buộc theo quy định của pháp luật.

Án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để hoàn lương, với sự giúp đở tích cực của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè và xã hội.

Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục” và thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, hoà nhập với cộng đồng, giác ngộ được ý thức chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nuớc, tuân thủ quy tắc cuộc sống XHCN.

1.1.2. Bản chất pháp lý của án treo trong luật hình sự Việt Nam:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Chế định án treo được ra đời từ rất sớm trên thế giới, ở các nước khác nhau thì chế định án treo được quy định mỗi cách khác nhau. Luật hình sự của Anh và Mỹ coi án treo là trường hợp hoãn tuyên án kèm theo biện pháp bảo lĩnh hoặc biện pháp bảo đảm bằng tiền. Luật hình sự của Pháp và Bỉ và một số nước khác coi án treo là việc hoãn hoặc miễn chấp hành hình phạt. Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây, đa số coi án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện; nhưng cũng có nước coi án treo là hình phạt chính, như Nước Cộng hoà dân chủ Đức [19-8].

Tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14-2-1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà quy định: “Khi phạt tù, Toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, Tội nhân không bị Toà án làm tội một lần nữa về một tội mới thì bản án đã tuyên sẽ bị huỷ đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Toà án thì bản án treo sẽ đem thi hành” [25-123].

Mặc dù Sắc lệnh quy định là “…Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ thi hành án…”, nhưng trong thực tế, nó được áp dụng như là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Nghĩa là trong 5 năm kể từ ngày tuyên án, nếu người được hưởng án treo không bị kết án một lần nữa thì bản án đã tuyên cho hưởng án treo sẽ bị huỷ đi coi như không có, và dĩ nhiên là họ sẽ vĩnh viễn không phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo đó.

Mười năm sau, tại Điều 12 Sắc lệnh số 267/SL ngày 15-6-1956 thì chế định án treo được bổ sung thêm, cụ thể là: “Đối với những kẽ phạm tội…bị phạt không quá 2 năm tù thì trong những trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quy định, Toà án có thể cho bị cáo hưởng án treo” [19-8].Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Thông tư số 2308/NCPL ngày 1/12/1961 của TANDTC về việc áp dụng chế độ án treo thì khái niệm “án treo là một biện pháp hoãn hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những kẽ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không thực cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đở tích cực của xã hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tuỳ trường hợp, sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ được xoá bỏ” [25-121].

Có thời kỳ án treo được coi là hình thức xử lý nhẹ hơn hình phạt tù giam (Thông tư liên ngành số 19/TATC ngày 2-10-1974). Cụ thể Thông tư số 19/TATC ngày 2/10/1974 của TANDTC hướng dẫn về trình tự tố tụng phúc thẩm hình sự, trong đó có hướng dẫn về án treo. Thông tư quy định: “…So sánh hậu quả phổ biến về mặt pháp lý cũng như hậu quả về mọi mặt khác của án tù giam và án tù treo (người bị án treo không bị cách ly khỏi xã hội, vẫn sống trong môi trường bình thường hàng ngày của họ mà cũng không bị một sự hạn chế gì, tất cả các quyền lợi của người công dân, người bị án treo đều được hưởng, nếu họ là công nhân viên chức, họ không bị buộc phải thôi việc, họ cũng chỉ bị án tích trong thời gian thử thách dài nhất là 5 năm) thì án treo phải được xem là hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam. Như vậy chuyển án tù treo sang án tù giam dù thời gian ngắn hơn cũng là tăng nặng hình phạt. Ngược lại, chuyển án tù giam sang án tù treo, dù thời gian dài hơn cũng là giảm nhẹ hình phạt” [26-123].

Theo sự hướng dẫn này, thì án treo không đồng nghĩa là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống hình phạt của Pháp luật hình sự, mà theo chúng tôi án treo chỉ được coi là một hình thức xử lý nhẹ hơn tù giam nhưng. Tuy nhiên, sự hướng dẫn này chưa thật chính xác vì như vậy sẽ dẫn đến trường hợp vì có ý định trước cho hưởng án treo nên đáng xử phạt bị cáo 2 năm tù thì nâng lên 3 năm tù để cho hưởng án treo hoặc đáng xử phạt bị cáo 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo nhưng vì có ý định trước không cho hưởng án treo nên hạ xuống 2 năm tù giam.

Từ các quy định về án treo của các nước khác nhau, hoặc của Việt Nam trong các thời kỳ khác nhau thì đã có nhữ ng quan niệm khác nhau về án treo.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì, án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, điều kiện để được hưởng án treo quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999 như sau:

  • “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một đến 5 năm.
  • Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
  • Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền,cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật hình sự.
  •  Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.
  • Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời g ian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt với bản án mới theo quy định tại Điều 51 của BLHS”.

Như vậy, bản chất pháp lý của án treo trong luật hình sự Việt Nam hiện hành thể hiện ở một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.

Thứ hai, trong bản án treo đó, Toà án đã tuyên cho bị cáo một mức án (chỉ duy nhất là loại hình phạt tù) tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như nhân thân của bị cáo. Sau đó, xét thấy bị cáo là người có thể tự lao động cải tạo tại cộng đồng xã hội, nơi bị cáo đang công tác hoặc sinh sống để hoàn lương mà không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cũng có thể tin tưởng là bị cáo sẽ không tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội (không phạm tội mới); cơ sở của niềm tin này là căn cứ vào mức hình phạt mà bị cáo phải chịu đối với tội phạm mà bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng…các điều kiện nà y đã thể hiện bản chất của bị cáo, khả năng tự lao động cải tạo của bị cáo và làm niềm tin cho Hội đồng xét xử để cân nhắc cho hưởng án treo (miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện).

Thứ ba, Người bị án treo sẽ phải chịu một thời gian thử thách nhất định từ một năm đến năm năm và bao giờ thời gian thử thách cũng phải lớn hơn mức hình phạt tù.Trong thời gian thử thách, người bị án treo phải chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức được Toà án giao trách nhiệm giám sát, giáo dục.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Thứ tư, trong thời gian thử thách, nếu người bị án treo phạm tội mới thì biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù bị xoá bỏ, người bị án treo sẽ bị buộc phải chấp hành hình phạt tù trong bản án cho hưởng án treo trước đó, cộng với hình phạt của bản án về tội phạm mới thực hiện.

Thứ năm, bản chất của án treo không phải là một hình phạt trong hệ thống các hình phạt quy định tại Điều 28, Chương V BLHS năm 1999, nó không nhẹ hơn hình phạt tù mà hình phạt tù Toà án đã tuyên trong bản án treo đó đang “treo lơ lững” từ khi tuyên bản án treo cho đến khi hết thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách mà bị cáo không chịu lao động cải tạo để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội mà có hành vi phạm tội mới thì bị cáo bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án treo đó. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách của án treo, họ không phạm tội mới thì hình phạt trong bản án treo đó được vĩnh viễn không chấp hành (xoá bỏ).

Tóm lại, bản chất pháp lý của án treo trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành là “Là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Toà án áp dụng đối với người phạm tội bị xử phạt tù có thời hạn không quá ba năm, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và Toà án xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù. Toà án ấn định thời gian thử thách đối với họ từ 1 đến 5 năm”.

1.1.3 Ý nghĩa, vai trò của án treo trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Trong hệ thống pháp luật của Nhà nước CHXHCN Việt Nam có nhiều ngành luật khác nhau với những biện pháp trách nhiệm, những chế tài cụ thể khác nhau. Gắn liền với luật hình sự là biện pháp TNHS với chế tài cụ thể là hình phạt. So với các chế tài xử phạt của các ngành luật khác, thì hình phạt là một loại chế tài đặc biệt trong hệ thống các biện pháp cưởng chế của Nhà nước.

Theo quy định tại Điều 26 BLHS hiện hành thì “ Hình phạt là biện pháp cưởng chế của Nhà nước được luật hình sự quy định và do Toà án áp dụng, nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội”.

Và theo quy định tại Điều 27 BLHS thì “hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm”.

Nhưng, bên cạnh áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhất trong chế tài hình sự là hình phạt thì Nhà nước ta cũng như một số nước trên thế giới còn sử dụng các biện pháp tác động hình sự khác, trong đó có án treo.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội, Toà án sẽ miễn chấp hành hình phạt tù và ấn định một thời gian thử thách nhất định từ một đến năm năm (Điều 60 BLHS), nếu trong thời gian thử thách người bị kết án không phạm tội mới thì họ sẽ vĩnh viễn không phải chấp hành hình phạt của bản án cho hưởng án treo đó. Án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo để hoàn lương ngay tại môi trường sống bình thường của họ, nơi cơ quan công tác hoặc nơi mà người bị kết án cư trú, học tập, làm ăn, sinh sống với sự giúp đở tích cực của chính quyền địa phương nơi cư trú hoặc cơ quan công tác, gia đình, người thân, bạn bè và xã hội. Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục” và thể hiện tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Áp dụng biện pháp án treo sẽ có tác dụng tốt là không buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người công dân bình thường, có ích cho xã hội. Điều này sẽ có ảnh hưởng tích cực đến cuộc đ ời của họ cũng như gia đình và xã hội nơi họ sinh sống và làm việc.

Việc thi hành hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của họ. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó [29-77].

Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo thì sẽ có lợi ích đáng kể về kinh tế, cụ thể là Nhà nước ta sẽ tiết kiệm được một khoản chi phí tương đối lớn nếu không bắt người bị kết án chấp hành hình phạt tù mà cho họ hưởng án treo, chịu sự giám sát, giáo dục tại địa phương nơi cư trú. Đó là các khoản chi phí cho việc cải tạo họ trong các trại giam…;Ngoài ra, nó tạo điều kiện cho người được hưởng án treo và gia đình của họ ổn định được cuộc sống gia đình về mọi mặt vì họ không bị cách ly khỏi đời sống xã hội, cách ly khỏi gia đình nên họ sẽ có cơ hội lao động cải tạo và làm lại cuộc đời, để chuộc lại những lỗi lầm mà họ mắc phải. Người phạm tội khi được Toà án cho hưởng án treo thì dĩ nhiên họ rất phấn khởi và hạnh phúc, họ được quay lại môi trường sống của mình để làm lại cuộc đời, giảm bớt được mặc cảm tội lỗi của mình và đặc biệt là họ thấy được chính sách nhân đạo và khoan hồng của Nhà nước ta đối với những người có nhân thân tốt nhưng bị lầm lở, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Án treo còn có tác dụng giáo dục, răn đe những người xung quanh nơi người được hưởng án treo làm việc hoặc cư trú, bản án mà Toà án dành cho người được hưởng án treo cũng như những bất lợi khác do hành vi phạm tội của họ mang lại đối với bản thân họ là một bài học cảnh tỉnh, nhắc nhở và cảnh giác đối với những người xung quanh, họ lấy đó làm bài học để cố gắng kìm chế những bản năng xấu trong con người họ khi có điều kiện phạm tội đến với họ, khí đó ý thức tuân thủ pháp luật của họ được nâng lên. Đây cũng là một ý nghĩa giáo dục của biện pháp án treo đối với xã hội.

Ngoài ra, án treo còn thu hút một bộ phận nhân dân tham gia trong việ c giúp đở, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo trong thời gian thử thách, không phân biệt, xa lấn người phạm tội mà tìm cách gần gủi giúp đở họ để họ có điều kiện lao động cải tạo để hoàn lương và sớm hoà nhập với cộng đồng, trở lại làm một công dâ n bình thường với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của người công dân.

Như vậy, án treo có một vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa thể hiện chính sách khoan hồng và nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời là một biện pháp hữu hiệu không thể thiếu trong chính sách hình sự của nhà nuớc, nó vừa mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, vừa đem lại những hiệu quả cao trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, đảm bảo được sự ổn định của đời sống chính trị, văn hoá, kinh tế-xã hội của đất nước.

1.2. QUY ĐỊNH VỀ ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1985:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

  • nước ta, chế định án treo được quy định từ rất sớm, nó ra đời và gắn liền với sự ra đời của pháp luật hình sự Việt Nam. Ngày 13-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh số 33/C/SL, tại Điều IV (án tù có thể tuyên) quy định: “…Nếu có những lý do đáng khoan hồng vì ít tuổi, vì biết hối cải, vì lầm lẫn.v.v…thì Toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo. Nghĩa là bản án làm tội tuyên lên, nhưng không thi hành; Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án Quân sự làm tội một lần nữa về việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như là không có; nếu trong hạn 5 năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước Toà án Quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành” [58-8].

Sắc lệnh số 21/SL ngày 14.2.1946 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà về “Tổ chức Toà án quân sự” đã quy định như sau: “Khi phạt tù, Toà án có thể cho tội nhân được hưởng án treo, nếu có những lý do đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành án. Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như không có. Nếu trong 5 năm ấy, tội nhân lại bị kết án một lần nữa trước một Toà án quân sự thì bản án treo sẽ được thi hành” [25-119].

Tóm lại, án treo trong các văn bản nêu trên đều có chung các đặc điểm sau:

(1)-“Khi phạt tù…” có nghĩa là người phạm tội bị Toà án xử phạt tù chứ không phải các loại hình phạt khác.

(2)-“Nếu có lý do đáng khoan hồng…” có nghĩa là người phạm tội là người có các điều kiện đáng được hưởng lượng khoan hồng của Nhà nước, như về nhân thân của người phạm tội, về các tình tiết giảm nhẹ mà người phạm tội được hưởng cũng như xét tính chất và mức độ của tội phạm ở một mức độ nhất định…Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(3)-Thời gian thử thách quy định cứng là 5 năm kể từ ngày tuyên án, bất kể tội phạm gì và ở mức độ như thế nào.

(4)- “Nếu trong 5 năm ấy tội nhân bị kết án một lần nữa trước một Toà án binh thì bản án treo sẽ mang ra thi hành”, có nghĩa là trường hợp này người được huởng án treo phạm tội mới trong thời gian 5 năm kể từ ngày tuyên án (phạm tội mới trong thời gian thử thách).

(5)- “Nếu trong 5 năm bắt đầu từ ngày tuyên án, tội nhân không bị Toà án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới thì bản án đã tuyên sẽ huỷ đi, coi như không có”, trường hợp này có nghĩa là người được hưởng án treo không phạm tội mới trong thời gian thử thách, và dĩ nhiên là bản án đã tuyên sẽ bị huỷ đi, coi như không có (xoá án tích).

1.3. QUY ĐỊNH VỀ ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1985-1999:

Bộ luật hình sự Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 27-6-1985, có hiệu lực kể từ ngày 1-1-1986 đã đánh dấu một bước ngoặc trong tiến trình lập pháp của Việt Nam, đây là việc pháp điển lần thứ nhất về chính sách hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Việc ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần rất lớn trong công tác đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, góp phần hoàn thiện và cụ thể hoá chính sách hình sự của Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật(việc áp dụng pháp luật), là bước khởi đầu cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo quy định tại Điều 44 BLHS 1985 thì :

“(1). Khi xử phạt tù không quá 5 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến 5 năm.

(2).Toà án giao người bị án treo cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục.

(3).Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định quy định ở Điều 23 và Điều 28.

(4).Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nữa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi, giáo dục, Toà án có thể rút ngắn thời gian thử thách.

(5).Nếu trong thời gian thử thách người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”.

 Như vậy, điều kiện để người phạm tội được hưởng án treo quy định trong Điều 44 BLHS năm 1985 là:

(1)-Bị cáo bị phạt tù không quá 5 năm.

(2)-Có nhân thân tốt.

(3)-Có nhiều tình tiết giảm nhẹ.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(3)-Nếu Toà án xét không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù.

Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1985, tại mục VII hướng dẫn áp dụng Điều 44 BLHS quy định như sau:

“(1).Theo Điều 44 BLHS thì bản chất pháp lý của án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ, Toà án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt tù nếu trong thời gian thử thách người đó không phạm tội mới. Vì vậy, khi quyết định hình phạt Toà án phải quyết định thời gian phạt tù đúng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo rồi mới cho hưởng án treo chứ không được nâng cao thời hạn tù án treo vì cho đó là hình phạt nhẹ, và phải tuyên rành rọt là bị cáo bị phạt mấy năm tù nhưng cho hưởng án treo, chứ không được tuyên là mấy năm tù án treo.

Án treo chỉ là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho nên không phải là một hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. Vì vậy, sự giải thích trước đây của Toà án nhân dân tối cao coi án treo là hình phạt nhẹ hơn (trong bản hướng dẫn về thủ tục xét xử về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 2-10-1974 và trong lời tổng kết hội nghị tổng kết công tác ngành Toà án nhân dân năm 1976) không còn phù hợp với Bộ luật hình sự.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(2). Trong công tác xét xử, các Toà án cũng cần phải phân biệt những trường hợp phạt cải tạo không giam giữ với những trường hợp phạt tù mà cho hưởng án treo, vì phạt tù mà cho hưởng án treo được áp dụng đối với những trường hợp phạm tội “nặng hơn những trường hợp được xử phạt bằng cải tạo không giam giữ. Hậu quả pháp lý của hai loại hình phạt cũng khác nhau: người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách và bị phạt tù thì phải chấp hành hình phạt của tội mới tổng hợp với hình phạt của tội cũ. Trái lại, người bị phạt cải tạo không giam giữ đã chấp hành xong hình phạt mà phạm tội mới thì chỉ phải chịu hình phạt về tội mới. Cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng đối với những tội ít nghiêm trọng nhưng án treo được áp dụng cả đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt không quá 5 năm tù.

(3). Những điều kiện được hưởng án treo đã được Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn trong Thông tư số 2308/NCPL ngày 1/12/1961(Tập hệ thống hoá luật lệ về hình sự, tập 1, trang 119) nhưng trong điểm a mục c của phần II có nói là người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt cũ nếu trong thời gian thử thách mà họ phạm tội mới “cùng tính chất” với tội cũ, thì nay không phù hợp với Bộ luật hình sự, vì Điều 44 chỉ quy định giản đơn là : nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước (cũ). Như vậy là tội phạm cũ và tội phạm mới không nhất thiết phải cùng tính chất.

(4). Thời gian thử thách là từ 1 năm đến 5 năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật(bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị, hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo). Thời gian thử thách không được ít hơn mức án tù đã tuyên, mà ít nhất phải bằng hoặc nhiều hơn (thông thường phải dài hơn) mức án tù đã tuyên. Tuy nhiên, nếu người bị kết án đã bị tạm giam lâu trước khi bản án có hiệu lực pháp luật thì khi quyết định thời gian thử thách, Toà án cần chú ý giảm cho họ thời gian thử thách. Thí dụ: người phạm tội đã bị tạm giam hai năm và sau đó, bị phạt ba năm tù nhưng cho hưởng án treo thì thời gian thử thách có thể chỉ là một năm. Trong trường hợp đặc biệt có thể miễn cho họ thời gian thử thách nếu Toà án chỉ phạt tù dưới mức thời gian mà họ đã bị tạm giam.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(5). Về nguyên tắc, cấp phúc thẩm không được làm xấu tình trạng của bị cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc của người bị hại yêu cầu tăng nặng hình phạt. Vì vậy, trong trường hợp bị cáo được cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì cần xác định những trường hợp làm xấu tình trạng của bị cáo và những trường hợp xử phạt có lợi cho họ như sau:

Làm xấu tình trạng của bị cáo là: tăng hình phạt tù đã cho hưởng án treo; tăng thời gian thử thách; chuyển án treo thành án tù, dù là thời hạn tù được giảm nhiều so với thời hạn tù được hưởng án treo; chuyển án tù giam thành án treo nhưng với thời hạn tù cho hưởng án treo dài hơn thời hạn tù giam (thí dụ: đổi 3 năm tù giam thành 5 năm tù cho hưởng án treo).

Xử phạt có lợi cho bị cáo là: Giảm hình phạt tù cho hưởng án treo; giảm thời gian thử thách [28-12].

Ngày 16-11-1988 Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra Nghị quyết số 02/HĐTP hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986, tại mục II của Nghị quyết quy định về thi hành án treo (tại Điều 44) như sau: Trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 (mục VII) Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hướng dẫn là trong trường hợp đặc biệt người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu thì Toà án nhân dân có thể miễn cho họ thời gian thử thách của án treo, nhưng sau đó tại công văn số 108/HĐNN ngày 19-6-1987, Hội đồng Nhà nước đã giải thích là trong bất cứ trường hợp án treo nào cũng không được miễn thời gian thử thách. Vì vậy, trong khi Hội đồng thẩm phán chưa họp được, Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung về án treo như sau:

(1).Thời gian thử thách của án treo.

Theo Điều 44 BLHS, thời gian thử thách của án treo là từ 1 năm đến 5 năm và thời gian thử thách là bắt buộc, dù người được hưởng án treo đã bị tạm giam lâu. Thông thường thì thời gian thử thách phải bằng hoặc dài hơn mức hình phạt đã tuyên nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới 1 năm hoặc quá 5 năm. Nếu Toà án tuyên thời gian thử thách dưới 1 năm hoặc trên 5 năm là trái pháp luật.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(2). Cách tính thời gian thử thách.

Thông tư số 01/NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn là thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên tức là tuỳ trường hợp có thể là ngày tuyên án sơ thẩm, phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Cách tính này nhằm giải quyết cho người bị kết án đỡ bị thiệt thòi vì việc xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm thường chậm.

Nay Điều 226 của Bộ luật tố tụng hình sự (1988) quy định những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, từ nay thống nhất tính thời gian thử thách của án treo từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Bản án có hiệu lực pháp luật là những bản án được quy định tại khoản 1 Điều 226 BLTTHS. Trong khi vận dụng điểm b khoản 1 Điều 226, cần chú ý là đối với các trường hợp bản án và quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Thí dụ: một người bị Toà án cấp sơ thẩm phạt 1 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 18 tháng, bản án không bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Sau 10 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo phạm tội mới. Như vậy là bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của án treo. Ngược lại, nếu bản án sơ thẩm đó bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì không được coi bị cáo phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo và do đó, khi phạt tù bị cáo về tội mới không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù đã được hưởng án treo và tổng hợp hình phạt đó với hình phạt tù về tội mới, nhưng cần phạt nặng hơn các trường hợp bình thường, và trong bản án phải nêu rõ tính chất tăng nặng là phạm tội nhiều lần. Trong trường hợp này, bị cáo phải đồng thời chấp hành hai bản án.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

(3). Tổng hợp hình phạt khi người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách.

Khoản 5 Điều 44 BLHS quy định: “Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới và bị phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”, tức là “ Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên”. Vì vậy, những trường hợp mà toà án đã tổng hợp hình phạt của hai bản án ( hình phạt tù được hưởng án treo và hình phạt tù mới), nhưng chỉ buộc phải chấp hành hình phạt tù chung là hình phạt của bản án mới trong khi hình phạt chung đó không vượt mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên, là trái pháp luật và làm cho án treo mất ý nghĩa của nó. Vì vậy, phải cộng toàn bộ các hình phạt của hai bản án và quyết định hình phạt chung theo tinh thần của khoản 5 Điều 44 và khoản 2 Điều 42 BLHS. Nếu bị cáo đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được trừ vào thời gian phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Nếu hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm xảy ra trong thời gian thử thách mà tội này bị phạt tù giam, thì là phạm tội trong thời gian thử thách, và tổng hợp hình phạt như đã nói trên. Nếu người bị án đã được Toà án cấp giấy chứng nhận đương nhiên xoá án đối với tội cũ được hưởng án treo thì giấy chứng nhận này không có giá trị nữa.

Nói chung người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án nên phạt tù giam đối với tội mới và không cho hưởng án treo một lần nữa, vì việc phạm tội mới chứng tỏ họ đã không chịu cải tạo tốt. Tuy nhiên, Thông tư số 01/NCPL ngày 6-4-1988 có hướng dẫn là riêng đối với trường hợp đã được hưởng án treo mà phạm tội mới vì vô ý, nhưng là tội ít nghiêm trọng, có những tình tiết giảm nhẹ quy định ở Điều 38 BLHS (1985) như gây thiệt hại không lớn, đã thật thà khai báo,đã bồi thường thiệt hại…thì Toà án có thể phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt đó.

Sự hướng dẫn nói trên không thật chính xác nên cần sửa lại là : Nếu người được hưởng án treo đã phạm tội mới, nhưng là tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì có thể không phạt tù giam mà phạt cải tạo không giam giữ (Hoặc phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội đối với quân nhân). Khoản 3 của Điều 38 còn quy định là: “Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”. Vì vậy, trong trường hợp luật quy định chỉ có hình phạt tù thì Toà án có thể phạt cải tạo không giam giữ (Hoặc phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội đối với quân nhân) hay cảnh cáo. Trong trường hợp này, người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Người bị phạt tù được hưởng án treo chỉ phải chấp hành hình phạt tù nếu họ phạm tội mới trong thời gian thử thách. Do đó, nếu họ đã bị phạt tù về một tội và được hưởng án treo, nhưng trong thời gian thử thách đối với tội này lại bị xét xử về tội phạm đã thực hiện trước khi bị xét xử và được hưởng án treo, thì tuỳ trường hợp mà Toà án phạt tù họ hoặc cho họ hưởng án treo một lần nữa. Nếu Toà án phạt tù họ thì họ phải chấp hành đồng thời hai bản án, trừ trường hợp bản án đã cho bị cáo hưởng án treo có sai lầm nghiêm trọng tới mức phải bị sửa chữa, huỷ bỏ theo thủ thục giám đốc thẩm. Nếu Toà án cho họ hưởng án treo một lần nữa, Thì Toà án quyết định hình phạt tù, ấn định thời gian thử thách của án treo, rồi tổng hợp các hình phạt của hai bản án bằng cách: tổng hợp các hình phạt tù thành một hình phạt chung, rồi ấn định thời gian thử thách chung không vượt quá 5 năm. Trong trường hợp việc phạm tội của họ có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án cũng có thể quyết định phạt họ cải tạo không giam giữ (Hoặc phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội đối với quân nhân) hay cảnh cáo như trong trường hợp đã nêu điểm b trên đây và có nghĩa là người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án.

Sự hướng dẫn trên đây về án treo thay thế cho phần hướng dẫn về án treo trong Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao và Thông tư số 01-NCPL ngày 6-4-1988 của Toà án nhân dân tối cao [28-75].

Tại mục III của Nghị quyết số 1-89/HĐTP ngày 19-4-1989 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định của BLHS, quy định về thời gian thử thách của án treo (Điều 44 BLHS) quy định: Tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16-11-1988, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn rằng thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Theo tinh thần đó, nếu Toà án cấp giám đốc thẩm cho bị cáo được hưởng án treo, thì thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày tuyên bản án giám đốc thẩm. Tuy nhiên, cách tính thời gian thử thách của án treo như vậy có thể gây thiệt hại cho người được hưởng án treo. Cụ thể là: một người đã được Toà án cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm cho hưởng án treo và thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật bản án phúc thẩm bị kháng nghị và bị sửa theo thủ tục giám đốc thẩm và Toà án cấp giám đốc thẩm cũng cho bị cáo hưởng án treo (chỉ giảm mức hình phạt tù hoặc rút ngắn thời gian thử thách của án treo). Trong trường hợp này, nếu tính thời gian thử thách của án treo từ ngày tuyên bản án giám đốc thẩm thì có thể gây thiệt hại cho bị cáo. Do đó, cần quy định một trường hợp đặc biệt là nếu Toà án cấp giám đốc thẩm cho bị cáo hưởng án treo, nhưng bị cáo cũng đã được hưởng án treo theo bản án đã bị kháng nghị và sửa giảm nhẹ theo thủ tục giám đốc thẩm, thì thời gian thử thách của án treo đối với bị cáo tính từ ngày tuyên bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã bị kháng nghị.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 28-12-1989 thì khoản 5 Điều 44 BLHS năm 1985 được sửa đổi lại như sau:

(5) Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42 BLHS. (So sánh sự khác nhau của khoản 5 Điều 44 cũ như sau: (5). Nếu trong thời gian thử thách người bị án treo phạm tội mới và bị xử phạt tù thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”).

Vấn đề này cũng được Thông tư liên ngành số 01/TTLN 90 ngày 1-2-1990 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ, Bộ tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, hướng dẫn như sau: (4). Quy định “nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới do vô ý và bị xử phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”, theo khoản 5 mới của Điều 44 BLHS nghiêm khắc hơn quy định của khoản 5 cũ của Điều 44 BLHS về án treo…[28-119].

Tại Công văn số 140/NCPL ngày 5-7-1990 của Toà án nhân dân tối cao về việc xoá án đối với người được hưởng án treo, quy định: “Một số Toà án có hỏi về việc đương nhiên xoá án đối với người được hưởng án treo, Toà án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo khoản 2 Điều 53 BLHS được thông qua ngày 27-6-1985 thì người được hưởng án treo được đương nhiên xoá án nếu không phạm tội trong thời gian thử thách. Nhưng theo khoản 2 Điều 53 BLHS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS được thông qua ngày 28-12-1989 thì người được hưởng án treo chỉ được đương nhiên xoá án nếu không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ ngày hết thời gian thử thách. Tuy nhiên, vì đạo luật này chỉ có hiệu lực từ ngày 2 -1-1990, cho nên những người được hưởng án treo mà thời gian thử thách đã hết trước ngày 2-1-1990 được đương nhiên xoá án nếu họ không phạm tội mới trong thời gian thử thách của án treo và khi họ đến Toà án sau ngày 2-1-1990 xin giấy chứng nhận xoá án, thì Toà án cấp giấy chứng nhận xoá án cho họ, theo quy định của khoản 2 Điều 53 BLHS chưa được sửa đổi, bổ sung và theo thủ tục đương nhiên xoá án được hưởng dẫn tại mục III Thông tư Liên ngành số 02/TTLN ngày 1-8-1986 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp, Bộ nội vụ. Còn những người được hưởng án treo trước ngày 2-1-1990, nhưng đến hết ngày 1-1-1990 vẫn chưa hết thời gian thử thách của án treo, thì họ chỉ được đương nhiên xoá án nếu không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ ngày hết thời gian thử thách của án treo, nghĩa là đối với họ cần áp dụng quy định của khoản 2 Điều 53 BLHS đã được sửa đổi, bổ sung” [28-127].

Như vậy, chúng ta có thể thấy, từ khi Bộ luật hình sự Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 27-6-1985, có hiệu lực kể từ ngày 1-1-1986 ra đời cho đến năm 1989 thì đã có nhiều sự giải thích, hướng dẫn của liên ngành cấp trên cũng như của Toà án nhân dân tối cao về án treo, và có thể nói rằng, án treo trong thời gian này đã có những nhận thức khác nhau, không thống nhất qua từng giai đoạn. Sau khi luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 28-12-1989 (khoản 5 Điều 44 BLHS năm 1985 được sửa đổi lại), thì đến ngày 18/10/1990 Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 BLHS, khi đó án treo mới được nhận thức và áp dụng thống nhất từ đó cho đến nay.

1.4. QUY ĐỊNH VỀ ÁN TREO TRONG LUẬT HÌNHSỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH:

Từ khi Bộ luật hình sự năm 1999 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, thì chưa có một văn bản pháp luật nào quy định, hướng dẫn việc áp dụng các quy định về án treo quy định tại Điều 60 BLHS, như: căn cứ cho hưởng án treo, thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo, về tổng hợp hình phạt trong trường hợp người được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác trong thời gian thử thách (hành vi phạm tội có thể xảy ra trong thời gian thử thách hoặc trước khi có bản án cho hưởng án treo)…; mà các Toà án địa phương vẫn vận dụng, áp dụng một số quy định của Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự 1985. Điều này làm cho các Toà án địa phương khi áp dụng chế định án treo còn gặp phải một số khó khăn, vướng mắc nhất định.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Tuy nhiên, qua quá trình công tác thực tiễn, cũng như trên cơ sở những quy định của Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng Điều 44 BLHS năm 1985; để phù hợp với những quy định về án treo tại Điều 60 BLHS, phù hợp với Nghị định 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, phù hợp với những quy định của BLTTHS năm 2003 về công tác thi hành án đối với người bị phạt tù được hưởng án treo thì án treo quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999 có thể được giải thích, hướng dẫn lại như sau (phần này chủ yếu dựa trên cơ sở những quy định của Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP, tác giả chỉ thay đổi, bổ sung có lập luận cho phù hợp với các văn bản pháp luật như đã nêu):

1.4.1. Các căn cứ để cho người bị phạt tù được hưởng án treo:

Khoản 1 Điều 60 BLHS quy định: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm”.

Từ nội dung của án treo được quy định trong pháp luật hình sự hiện hành có thể khẳng định, việc áp dụng biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cho người bị kết án lúc nào cũng phải thận trọng và xem xét kỹ lưỡng, không thể tuỳ tiện cho người bị phạt tù được hưởng án treo theo ý chí chủ quan của HĐXX mà phải tuân thủ các quy định của pháp luật về án treo, đặc biệt là xem xét những căn cứ và điều kiện cho hưởng án treo.

1.4.1.1 Về mức hình phạt tù:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo quy định tại Điều 60 BLHS thì căn cứ để xem xét cho người bị kết án được hưởng án treo bao gồm căn cứ về mức hình phạt tù và căn cứ về sự không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù đó. Căn cứ về mức hình phạt tù thực chất là căn cứ về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS (các căn cứ để quyết định hình phạt). Theo quy định của BLHS hiện hành thì chỉ những người bị phạt tù không quá ba năm mới có thể được xét cho hưởng án treo. Quy định căn cứ này là quy định về giới hạn phạm vi áp dụng biện pháp án treo.

Luật không quy định về loại tội, cho nên nói chung người bị phạt tù không quá ba năm về bất cứ tội phạm gì đều có thể được xem xét việc cho hưởng án treo nếu có đủ căn cứ khác. Nhưng theo chúng tôi, chỉ nên cho người phạm tội được hưởng án treo đối với những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng hoặc cũng có thể là tội phạm nghiêm trọng nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng mà có mức hình phạt tù không quá ba năm.

Đối với người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội hoặc có nhiều bản án mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo, nhưng phải xét thật chặt chẽ.

Khi quyết định mức hình phạt tù cần tránh những sai lầm sau đây:

  1. Vì có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo, cho nên đáng lẽ ra phải phạt họ trên ba năm tù thì lại chỉ phạt họ từ ba năm tù trở xuống để cho hưởng án treo.
  2. Vì có ý định trước là sẽ cho người bị kết án hưởng án treo, cho nên đáng lẽ chỉ cần phạt tù họ với án thấp, thì lại phạt tù họ với mức án cao và cho hưởng án treo.

1.4.1.2. Về nhân thân người phạm tội:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

  1. Nói chung người được hưởng án treo phải là người chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân, chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, đối với người có tiền án, tiền sự, nếu xét tính chất của tiền án, tiền sự đó cùng với tính chất của tội phạm mới thực hiện và các căn cứ khác thấy không cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù, thì cũng có thể cho họ được hưởng án treo, nhưng tinh thần chung là hạn chế và phải xét thật chặt chẽ.
  2. Người đã được xoá án thì không coi là có tiền án. Người đã được xoá kỷ luật, xoá việc xử phạt vi phạm hành chính (tức là đã được coi như chưa bị kỷ luật, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính) thì không coi là có tiền sự. Đối với các quyết định xử lý của cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội mà pháp luật chưa quy định thời hạn để được coi như chưa bị xử lý, nếu tính từ ngày ra quyết định xử lý đến ngày phạm tội đã quá 1 năm, thì không coi là tiền sự nữa.
  3. Khi xét về nhân thân của người phạm tội cần xét toàn diện tất cả các yếu tố thuộc về nhân thân, đồng thời kết hợp với thái độ của họ sau khi phạm tội và đối chiếu với yêu cầu phòng ngừa chung để xem có cần phải bắt họ chấp hành hình phạt tù hay không. Những người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã ăn năn hối lỗi và thần khẩn nhận tội thì có nhiều khả năng tự cải tạo hơn các đối tượng khác, nên cần được xem xét để cho hưởng án treo.

1.4.1.3. Về các tình tiết giảm nhẹ xem xét cho người phạm tội hưởng án treo:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS thì “…căn cứ vào …các tình tiết giảm nhẹ…”. Điều này có nghĩa là người bị kết án muốn được Toà án xem xét cho hưởng án treo thì phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Các tình tiết giảm nhẹ gồm các tình tiết được quy định tại Điều 46 BLHS và các tình tiết được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4-8-2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC “hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của BLHS năm 1999”.

Các tình tiết giảm nhẹ đã được xem xét để quyết định hình phạt vẫn được xem xét cùng với các căn cứ khác để quyết định việc cho hoặc không cho hưởng án treo.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Vấn đề xem xét tình tiết giảm nhẹ để cho hưởng án treo vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Vì Luật hình sự Việt Nam không quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ nào thì được xem xét cho hưởng án treo cho nên đã tồn tại các quan điểm như sau:

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa luật, ĐHQGHN thì “Có nhiều tình tiết giảm nhẹ được hiểu là có từ hai tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên trong đó phải có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định trong Điều 46 BLHS [18-437].

Theo tác giả Đinh Văn Quế thì “…Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ tức là phải căn cứa vào nhiều tình tiết giảm nhẹ và các tình tiết giảm nhẹ này trước hết phải là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS…” [46-376].

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trường đại học luật Hà Nội thì “…có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nghĩa là phải có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên trong đó nhất thiết phải có một tình tiết được ghi nhận khoản 1 Điều 46 BLHS” [34-231].

Theo chúng tôi, các quan điểm trên giải thích như vậy tuy là mang tính chủ quan (vì chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn, giải thích như vậy), nhưng xét thấy có tính hợp lý. Vì người bị kết án nếu không được hưởng một tình tiết giảm nhẹ nào quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS như :thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng…thì thể hiện bản chất của người phạm tội khó có khả năng tự lao động cải tạo để hoàn lương, không biết ăn năn hối cải nên có nguy cơ tái phạm tội.

Cho nên, chúng tôi đồng ý với PGS-TSKH Lê Văn Cảm là, nên ghi nhận quan điểm này vào trong mô hình lý luận của chế định án treo là: “ …(c) người bị kết án phải có …nhiều tình tiết giảm nhẹ mà trong đó bắt buộc phải có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS…” [17-820].

1.4.1.4 Xét không cần thiết bắt chấp hành hình phạt tù.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Khi xem xét cho người bị kết án được hưởng án treo, Toà án dựa vào các căn cứ như đã nêu trên để cân nhắc về khả năng tự lao động cải tạo của họ dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám s át giáo dục cũng như gia đình, người thân, bạn bè và xã hội. Ngoài ra, Toà án phải xem xét thêm yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm của từng loại tội phạm cụ thể trong từng thời kỳ tương ứng, xem có cần phải bắt chấp hành hình phạt tù hay không. Nếu mặc dù người bị kết án đã hội đủ ba căn cứ nêu trên nhưng, do yêu cầu của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, để kịp thời răn đe, giáo dục, ngăn chặn loại tội phạm này trên địa bàn, vì yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị địa phương thì có thể không cho người bị kết án hưởng án treo mà cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù. Ngược lại, xét thấy người bị kết án có nơi cư trú ổn định, là người thực sự có khả năng tự lao động cải tạo để hoàn lương ngay trong môi trường xã hội cụ thể, không có nguy cơ tái phạm bởi tính chất loại tội phạm mà họ thực hiện cũng như các ảnh hưởng xấu của các đối tượng xung quanh, Toà án xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù thì xem xét cho họ được hưởng án treo khi có đủ các căn cứ khác theo quy định.

1.4.2. Thời gian thử thách của án treo và cách tính thời gian thử thách của án treo:

1.4.2.1. Thời gian thử thách của án treo:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 BLHS thì: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm” (giữ nguyên quy định tại khoản 1 Điều 44 BLHS 1985 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS được Quốc hội thông qua ngày 22-12-1992).

Như vậy, khi quyết định cho người bị phạt tù được hưởng án treo, Toà án đồng thời phải ấn định một thời gian thử thách nhất định từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách của án treo là bắt buộc, không được cho hưởng án treo mà lại miễn thời gian thử thách, giữa thời gian thử thách và mức hình phạt tù có mối tương quan với nhau nhưng vấn đề này không được Luật hình sự quy định cụ thể. Thời gian thử thách nhất thiết phải không được dưới một năm và trên năm năm, không được ít hơn mức hình phạt tù.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Chế định án treo chỉ có ý nghĩa khi tuyên thời gian thử thách hợp lý. Đó là khoảng thời gian đủ để tin tưởng người bị án treo có thể tự lao động cải tạo để hoàn lương, nếu trong thời gian này họ không phạm tội mới và chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ của bản thân thì có thể tin tưởng họ là con người hết nguy hiểm cho xã hội, ít có nguy cơ tái phạm tội. Thời gian thử thách được ấn định tuỳ thuộc chủ yếu vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thể hiện ở mức hình phạt tù mà họ phải chịu cũng như phụ thuộc vào sự đánh giá của Hội đồng xét xử về khả năng tự giáo dục, cải tạo của người phạm tội.

Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ, như chấp hành đúng chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, không có biểu hiện vi phạm pháp luật, trong lao động sản xuất hoặc trong công tác đã có những cố gắng tích cực, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, muốn khắc phục, sửa chữa sai lầm của mình để hoàn lương thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS (khoản 4, 5 Điều 60 BLHS ).

Như vậy, theo quy định của pháp luật, thời gian thử thách của án treo có ý nghĩa rất lớn đối với người được hưởng án treo. Người được hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách nếu trong thời gian thử thách họ tự cải tạo tốt, họ có thể được Toà án xét giảm thời gian thử thách nhiều lần. Ngược lại, họ bị buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước nếu phạm tội mới do cố ý hoặc vô ý trong thời gian thử thách (Khoản 5 Điều 44 BLHS 1985 có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 thì quy định: phạm tội mới và bị xử phạt tù…; Còn khoản 5 Điều 44 BLHS 1985 được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua ngày 28/12/1989 thì quy định: phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý thì buộc phải chấp hình phạt của bản án trước).

1.4.2.2. Cách tính thời gian thử thách của án treo:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Về cách tính thời gian thử thách của án treo, BLHS không có quy định cụ thể, điều này dẫn đến nhiều sai sót khi tuyên thời gian thử thách của án treo trong thực tiễn xét xử.

Theo quy định của Nghị quyết 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự 1985 thì thời gian thử thách của án treo được tính như sau:

Để phát huy tác dụng phòng ngừa của án treo, tránh tình trạng người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm hoặc phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách, từ nay thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo; nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là nếu Toà án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; nếu Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ n gày tuyên án phúc thẩm; nếu cả Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án giám đốc thẩm; nếu Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Tại khoản 5 Điều 5 Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ về “quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” thì thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người được hưởng án treo nhận được quyết định thi hành bản án và trích lục bản án. Nhưng, TANDTC vẫn chỉ đạo thống nhất áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP.

1.4.3. Tổng hợp hình phạt khi người đang chấp hành án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS thì: đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS.

Như vậy, trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do cố ý hoặc vô ý thì toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 BLHS. Khoản 2 Điều 51 BLHS quy định “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 BLHS”.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP cũng đã nhắc nhở các Toà án địa phương khi áp dụng các quy định về án treo, cần chú ý một số điểm sau:

(1). Người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách đã phạm tội mới bất kể với lỗi cố ý hay vô ý thì đều chứng tỏ họ đã không chịu cải tạo để trở thành người lương thiện, nên Toà án cần áp dụng hình phạt tù đối với tội phạm mới và không được cho hưởng án treo một lần nữa, trừ trường hợp đối với tội phạm mới chỉ đáng phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền. Toà án không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội đối với người được hưởng án treo mà trong thời gian thử thách lại phạm tội mới, vì nếu có áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì Toà án cũng phải chuyển đổi thành hình phạt tù để tổng hợp hình phạt theo điểm b khoản 1 Điều 50 và khoản 5 Điều 60 BLHS.

(2). Người được hưởng án treo thì phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước nếu trong thời gian thử thách họ đã phạm tội mới. Do đó, nếu trong thời gian thử thách, họ bị phạt tù về tội đã thực hiện trước khi bị phạt tù và được hưởng án treo thì tuỳ trường hợp, Toà án có thể cho hoặc không cho hưởng án treo một lần nữa. Nếu Toà án không cho hưởng án treo một lần nữa và người bị kết án chấp hành hình phạt tù trong thời gian thử thách của án treo thì thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo. Nếu cho người bị kết án hưởng án treo một lần nữa, thì Toà án tổng hợp hình phạt tù của hai bản án và ấn định thời gian thử thách chung cho cả hai bản án. Trong trường hợp này cần lưu ý là chỉ khi hình phạt chung của hai bản án không vượt quá ba năm tù thì mới cho hưởng án treo và thời gian thử thách chung cũng không được dưới một năm, không được quá 5 năm và không được ít hơn mức hình phạt tù chung.

(3).Trong trường hợp sau khi hết thời gian thử thách của án treo mới phát hiện được tội phạm đã thực hiện trong thời gian thử thách, thì việc xét xử và tổng hợp hình phạt vẫn tiến hành như trường hợp tội phạm đó được phát hiện trong thời gian thử thách của án treo. Toà án nào đã cấp giấy chứng nhận xoá án cho người bị kết án, thì Toà án đó phải ra quyết định huỷ giấy chứng nhận xoá án đã cấp sai. Trừ trường hợp hành vi phạm tội đó đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 23 BLHS.

(4). Trong trường hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà họ được hưởng án treo và nếu họ đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù.

1.4.4. Về áp dụng hình phạt bổ sung đối với người được hưởng án treo:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo quy định tại khoản 3 Điều 60 BLHS thì người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của BLHS.

Đối với các tội phạm mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt bổ sung là bắt buộc, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 60 BLHS người được hưởng án treo phải chịu thêm hình phạt bổ sung bắt buộc đó. Đối với các tội mà BLHS quy định có thể áp dụng hình phạt bổ sung, thì ngoài hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 60 BLHS, người được hưởng án treo có thể phải chịu thêm hình phạt bổ sung theo quy định về hình phạt bổ sung của tội phạm mà họ đã thực hiện.

Trong trường hợp người được hưởng án treo phải chịu hình phạt bổ sung thì thời hạn chấp hành loại hình phạt bổ sung có thời hạn được tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo mà có hình phạt bổ sung.

1.4.5. Việc giao người bị án treo cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội giám sát và giáo dục:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 BLHS thì trong thời gian thử thách, toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Việc quản lý, theo giỏi, giám sát, giáo dục người được hưởng án treo được quy định cụ thể tại Nghị định 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo. Tại chương I của Nghị định quy định: Việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức…hoặc chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người được hưởng án treo làm việc công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án treo phải chịu thử thách dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình c ủa người đó. Khi người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ, thì được toà án xét rút ngắn thời gian thử thách theo quy định tại khoản 4 Điều 60 BLHS.

Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm thực hiện các biện pháp cần thiết bảo đảm hiệu quả thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo và phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.

Gia đình người được hưởng án treo có trách nhiệm giáo dục, giúp đở người đó sửa chữa lỗi lầm, không vi phạm pháp luật và phạm tội mới; phối hợp chặt chẽ với cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục trong việc giám sát, giáo dục người đó.

Các cơ quan, tổ chức hữu quan và cộng đồng dân cư nơi người được hưởng án treo cư trú có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục trong việc giáo dục, giúp đở người đó trong thời gian thử thách.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội theo quy định trên đây đã được khoản 2 Điều 257 BLTTHS 2003 quy định cụ thể: đó là chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc. Do đó, khi quyết định cho người bị kết án được hưởng án treo, Toà án phải quyết định giao người bị kết án cho cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội giám sát, giáo dục. Nếu người bị kết án không phải là cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước, thì Toà án giao cho uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Nếu người bị kết án là cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước, thì Toà án giao người bị kết án cho cơ quan chủ quản và Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn giám sát, giáo dục. Trong bản án không ghi tên cơ quan, tổ chức, địa phương được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục người được hưởng án treo, nhưng khi gửi bản sao bản án để thi hành, thì Toà án phải ghi rõ tên các cơ quan, tổ chức, địa phương đó. Trong trường hợp sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mà người bị kết án bị cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội cho thôi việc, buộc thôi việc thì cơ quan, tổ chức đó phải thông báo cho Toà án và chính quyền địa phương nơi người bị kết án thường trú biết.

Theo quy định tại Điều 11, Chương III Nghị định 61/2000/NĐ-CP ngày 30-10-2000 của Chính phủ “Quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo” thì trong trường hợp người được hưởng án treo chuyển đi nơi khác thì cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục có trách nhiệm thông báo ngay cho Toà án đã ra quyết định thi hành án kèm theo hồ sơ của người đó để Toà án làm thủ tục cần thiết giao cho cơ quan, tổ chức nơi người được hưởng án treo chuyển đến tiếp tục giám sát, giáo dục. Đây là quy định khác với quy định tại mục VI Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP về giao người bị án treo cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội theo dỏi, giáo dục. Nghị quyết 01 quy định “…Trong trường hợp người bị kết án thuyên chuyển công tác đi nơi khác, thì cơ quan, tổ chức của người đó có trách nhiệm chuyển bản sao bản án cho cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án đến làm việc để cơ quan, tổ chức này giám sát và giáo dục người bị kết án. Nếu người bị kết án chuyển nơi thường trú đến địa điểm khác thì Uỷ ban nhân dân nơi thường trú cũ chuyển bản sao bản án cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án đến thường trú để giám sát, giáo dục, đồng thời thông báo cho Toà án biết về việc đó.

1.4.6. Về sửa bản án sơ thẩm:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Trong trường hợp Toà án cấp sơ thẩm đã phạt tù và cho hưởng án treo, nếu bản án đó không bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng nặng hình phạt, tăng thời gian thử thách của án treo thì Toà án cấp phúc thẩm không được: tăng mức hình phạt tù; tăng thời gian thử thách của án treo; phạt tù mà không cho hưởng án treo (kể cả trường hợp giảm mức hình phạt tù).

Trong các trường hợp này, nếu Toà án cấp phúc thẩm xét thấy Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo không đúng hoặc xử quá nhẹ thì sau khi xét xử phúc thẩm cần báo cáo với cấp giám đốc thẩm để xem xét bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

1.4.7. Về giảm thời gian thử thách:

Khoản 4 Điều 60 BLHS quy định “ Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách”.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Nghị quyết 01/1990/NQ-HĐTP quy định: cơ sở để xét rút ngắn thời gian thử thách của người được hưởng án treo là văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục người bị kết án. Cho nên trong hồ sơ đề nghị xét giảm thời gian thử thách án treo cho người bị kết án phải có văn bản đề nghị hoặc nhận xét của cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ giám sát, giáo dục người bị kết án. Nhưng Nghị định 61/2000/NĐ-CP bổ sung thêm rằng, cơ sở để xét rút ngắn thời gian thử thách có thể do người bị án treo đề nghị cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục đề nghị Toà án xem xét việc rút ngắn thời gian thử thách.

Toà án có thẩm quyền xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo là Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Toà án quân sự khu vực nơi người bị kết án chịu thử thách (đoạn 2 khoản 1 Điều 269 BLTTHS 2003).

Thủ tục xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo đã được quy định tại khoản 3 Điều 269 BLTTHS, như sau: “một thành viên của Toà án trình bày vấn đề cần được xem xét, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Toà án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề nghị rút ngắn thời gian thử thách”. Hội đồng xét giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo có thể gồm 3 Thẩm phán hoặc hai Thẩm phán và một Hội thẩm nhân dân.

Sau khi người bị kết án đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách, nếu có nhiều tiến bộ thì được xét giảm thời gian thử thách. Mỗi lần được giảm không quá 12 tháng. Nếu đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền xã, phường, thị trấn không được Toà án chấp nhận, thì khi người bị kết án có nhiều tiến bộ mới, các cơ quan, tổ chức nói trên có quyền tiếp tục đề nghị Toà án xét giảm thời gian thử thách cho người bị kết án.

1.4.8. Việc đương nhiên xoá án đối với người được hưởng án treo:Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

Theo khoản 2 Điều 53 BLHS năm 1985 (được sửa đổi, bổ sung và có hiệu từ ngày 2-1-1990) thì người được hưởng án treo được đương nhiên xoá án nếu không phạm tội mới trong thời hạn ba năm kể từ ngày hết thời gian thử thách.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 64 BLHS năm 1999, thì người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của BLHS, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn một năm trong trường hợp bị phạt tù nhưng cho hưởng án treo thì đương nhiên được xoá án tích.

So sánh hai quy định trên thì thời gian xoá án tích tại điểm a khoản 1 Điều 64 của BLHS năm 1999 ngắn hơn thời gian xoá án tích quy định tại khoản 2 Điều 53 BLHS năm 1985 (được sửa đổi, bổ sung và có hiệu từ ngày 2-1-1990). Mặt khác, BLHS năm 1999 quy định thời hạn xoá án tích là tính “từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án”, còn BLHS năm 1985 thì quy định tính thời hạn xoá án tích kể từ ngày hết thời gian thử thách. Điều này là có sự khác biệt, đối với BLHS năm 1999, mặc dù có sự rút ngắn thời hạn xoá án tích nhưng việc quy định thời hạn xoá án tích được tính từ khi người bị án treo chấp hành xong bản án là có phần nghiêm túc hơn. Vì việc chấp hành xong bản án không chỉ là chấp hành xong thời gian thử thách mà bao gồm tất cả các trách nhiệm và nghĩa vụ của bị án được quy định trong bản án (như về trách nhiệm dân sự, về án phí…). Còn BLHS năm 1985 thì chỉ quy định thời hạn xoá án tích là ba năm tính từ khi chấp hành xong thời gian thử thách.Luận văn: Khái niệm của án treo trong luật hình sự Việt Nam

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Luận văn: Thực trạng chế định án treo trên tỉnh Quảng Trị

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x