Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Xã hội hóa hoạt động công chứng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương thức, hình thức tổ chức hoạt động công chứng theo hướng từng bước xã hội hóa, chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện nhằm phát huy những tiền năng to lớn của xã hội vào phát triển hệ thống công chứng, với tính chất là tổ chức dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm, phục vụ một cách thuận tiện cho nhu cầu ngày càng tăng cao của các tổ chức, cá nhân, góp phần giảm bớt gánh nặng cho biên chế và ngân sách nhà nước, tăng nguồn thu ngân sách của các địa phương, giải quyết công việc cho nhiều người lao động. Trong thời gian qua, xã hội hóa hoạt động công chứng đã đi vào cuộc sống và nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân. Các Văn phòng công chứng được thành lập đã giảm tải cho các Phòng công chứng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, các Văn phòng công chứng đã có sự đổi mới, xây dựng được phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu quả, tạo được niềm tin cho nhân dân.

Việc phát triển mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng trong thời gian qua trên cả nước cũng như địa bàn tỉnh Lâm Đồng cơ bản đã rộng khắp và có sự phân bổ hợp lý, tạo điều kiện tốt nhất cho người dân thực hiện công chứng; thực hiện đẩy mạnh việc xã hội hóa hoạt động công chứng gắn liền việc tăng cường việc phát triển các Văn phòng công chứng.

Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa xã hội hóa trong hoạt động công chứng, khắc phục những tồn tại, bất cập trong hoạt động công chứng, Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng năm 2014 với nhiều điểm mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn như: Mở rộng phạm vi công chứng; quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn công chứng viên; khuyến khích phát triển văn phòng công chứng theo hướng xã hội hóa, chuyển đổi phòng công chứng nhà nước thành văn phòng công chứng… việc thông qua Luật này đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước trong việc đẩy mạnh xã hội hóa công chứng, khẳng định, nâng cao vai trò, vị trí của hoạt động công chứng, chức năng xã hội của công chứng viên trong sự nghiệp đổi mới, cải cách tư pháp, nêu cao vài trò quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng nói chung và xã hội hóa công chứng nói riêng.

Tại địa bàn Lâm Đồng, trong thời gian công tác quản lý nhà nước về xã hội hoá công chứng đã được quan tâm, triển khai có hiệu quả, các cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xã hội hóa công chứng, ban hành các quy định, các chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện, tạo các điều kiện thuận lợi để thực hiện xã hội hóa, Phòng công chứng nhà nước đã được chuyển đổi thành Văn phòng công chứng, ưu tiên phát triển Văn phòng công chứng, chuyển đổi loại hình hoạt động Văn phòng công chứng, phát triển Hội Công chứng viên, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về công chứng…Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng đặt ra nhiều vấn đề bất cập cần khắc phục để tăng cường công tác quản lý nhà nước về xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, đó là:

Thứ nhất, quá trình xã hội hóa, phát triển các tổ chức hành nghề công chứng còn tình trạng các tổ chức hành nghề công chứng phân bố còn chưa đồng đều, chủ yếu phát triển ở các thành phố, các huyện có điều kiện kinh tế – xã hội phát triển như Đà Lạt, Bảo Lộc, Đức Trọng…; còn ở các địa bàn có điều kiện kinh tế kém phát triển thì các tổ chức hành nghề công chứng chưa phát triển, chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi có nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch.

Thứ hai, hoạt động của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu sự ổn định, bền vững. Số lượng công chứng viên hành nghề trên địa bàn tỉnh có nơi, có lúc còn chưa đảm bảo theo yêu cầu, một số

Văn phòng công chứng còn thiếu công chứng viên hợp danh (trong thời hạn 6 tháng) ảnh hưởng đến hoạt động của Văn phòng cũng như khả năng đáp ứng yêu cầu của nhân dân.

Thứ ba, một số quy định trong Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng liên quan đến giá quyền nhận chuyển đổi Phòng công chứng, phương thức chuyển đổi Phòng công chứng chưa được cụ thể, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện xã hội hóa, chuyển từ Phòng công chứng nhà nước thành Văn phòng công chứng tư nhân và cần được hướng dẫn để triển khai thực hiện.

Thứ tư, theo quy định của Luật Công chứng 2014, Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng, Quyết định số 2250/QĐ-BTP ngày 01/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Công chứng, tại các địa phương phải ban hành Tiêu chí xét duyệt hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng, bảo đảm việc cho phép thành lập Văn phòng công chứng công khai, minh bạch. Tuy nhiên, đến ngày 03/3/2020, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng mới ban hành Tiêu chí xét duyệt hồ sơ thành lập Văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh.

Thứ năm, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có lúc chưa chặt chẽ; công tác thanh tra, kiểm tra, theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng còn có điểm chưa đáp ứng được yêu cầu, việc xử lý vi phạm có nơi, có lúc chưa kịp thời, chưa nghiêm.

Từ thực trạng như trên, với mong muốn đánh giá, làm rõ cơ sở lý luận, thực trạng công tác quản lý nhà nước về xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh, đề xuất các giải pháp thực hiện trong thời gian tới, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ quản lý công theo định hướng ứng dụng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Định Hướng Ứng Dụng

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Có thể nói, vấn đề quản lý nhà nước về công chứng nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng nói riêng đã có một số tác giả quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau:

Ở cấp độ tiến sĩ, có thể kể đến như: Trần Thu Hường (2017) “Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp hiện nay”, Luận án tiến sĩ Luật học. Luận án đã tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, trong đó có lĩnh vực xã hội hóa công chứng theo Nghị quyết số 08-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị. cấp độ thạc sĩ, có các đề tài nghiên cứu về xã hội hóa công chứng ở

Việt Nam như:

Nguyễn Phương Hoa (2006), “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Luật học; Nguyễn Quang Minh (2009), “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Luận văn thạc sỹ Luật học; Phạm Thị Mai Trang (2011) “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sĩ Luật học, các đề tài này đã nghiên cứu về những khái luận chung về xã hội hóa công chứng theo pháp luật Việt nam và đã có những kiến nghị nhằm hoàn thiện. Tuy nhiên, các đề tài này nghiên cứu dựa trên những quy định của Luật Công chứng 2006, trong khi đó Luật Công chứng 2014 đã có những sự thay đổi.

Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về công chứng nói chung trên địa bàn một số tỉnh, thành phố, trong đó có các nội dung về xã hội hóa công chứng, có các đề tài thạc sĩ như:

Trần Xuân Tấn (2013), “Quản lý nhà nước về hoạt động công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội”, Nguyễn Cao Nguyên (2017),“Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Mai Hải Yến (2017), “Quản lý nhà nước về công chứng từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh”. Các luận văn này đã nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng trên địa bàn các tỉnh, thành phố Hà Nội, Quảng Ngãi, Hồ Chí Minh, tuy nhiên chưa đi sâu vào nghiên cứu quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng.

Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đăng trên các tạp chí chuyên ngành của Bộ Tư pháp như: Võ Đình Nho (2006), “Yêu cầu và thách thức xã hội hóa công chứng”, Tạp chí dân chủ và Pháp luật Số chuyên đề về công chứng, 11/2006; Trần Thu Hường (2013), “Pháp luật xã hội hóa dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tư pháp – Thừa trạng và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí dân chủ và Pháp luật số 8, tháng 8/2013. Các bài viết đã nghiên cứu sâu hơn những quy định của pháp luật Việt Nam về xã hội hóa công chứng.

Các tài liệu trên là những nguồn tài liệu quan trọng, là nguồn nhận thức cơ bản giúp tác giả nghiên cứu về đề tài này. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên chưa nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu về vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng từ sau khi Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành, chưa có đề tài nào nghiên cứu công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên phạm vi tỉnh Lâm Đồng.

Vì vậy, tác giả thiết nghĩ việc nghiên cứu đề tài này là vấn đề rất có ý nghĩa và cần thiết, đồng thời không trùng với các đề tài nghiên cứu trước đây.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng, thực tiễn về quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh

Lâm Đồng, đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ phải tập trung và làm sáng tỏ những nội dung sau:

Nghiên cứu các khái niệm công chứng, xã hội hóa công chứng, quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng; chủ thể, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng.

Đánh giá tình hình tỉnh Lâm Đồng và thực trạng các tổ chức hành nghề công chứng có ảnh hưởng đền đề tài nghiên cứu; phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.

Đưa ra phương hướng và kiến nghị các giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hoá công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hoá công chứng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng là một lĩnh vực có phạm vi nghiên cứu rộng, trong đề tài này, tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu ở ba khía cạnh: (1) Việc xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành và các chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành; (2) Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, kế hoạch về xã hội hóa công chứng; (3) Công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về tổ chức và hoạt động công chứng.

Phạm vi về thời gian: Từ năm 2015 (khi Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành) đến nay.

Phạm vi không gian: Địa bàn tỉnh Lâm Đồng

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng về xã hội hóa công chứng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận, nghiên cứu dưới góc độ Quản lý công. Với cách tiếp cận này những phương pháp chủ yếu được sử dụng gồm:

Phương pháp tiếp cận hệ thống: Phương pháp này được sử dụng để tiếp cận các vấn đề có liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng một cách có hệ thống.

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt trong các chương của luận văn để phân tích, đánh giá về cơ sở lý luận, thực trạng của công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Từ những phân tích, tổng hợp thành những tiểu kết chương, kết luận chung của luận văn.

Ngoài ra, luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu, các số liệu thống kê và các tài liệu có liên quan.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài này sẽ góp phần làm rõ những vấn đề lý luận về xã hội hóa công chứng, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng, vấn đề nghiên cứu sẽ đóng góp cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa công chứng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Những vấn đề được nghiên cứu trong đề tài sẽ làm rõ thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, từ đó có thể đóng góp cho việc tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

Kết quả của việc nghiên cứu đề tài có thể là một nguồn tài liệu cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân tham khảo khi cần.

7. Cấu trúc của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng

Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA CÔNG CHỨNG

1.1. Khái niệm công chứng, xã hội hóa công chứng, quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

1.1.1. Khái niệm và vị trí, vai trò của công chứng

1.1.1.1. Khái niệm công chứng

Do đặc điểm lịch sử và điều kiện phát triển kinh tế, xã hội đất nước qua mỗi thời kỳ, khái niệm công chứng ở nước ta cũng có sự thay đổi cho phù hợp và theo hướng ngày càng hoàn thiện. Việc tìm hiểu khái niệm công chứng có nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các vấn đề khác có liên quan đến công chứng. Nước ta, hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm, kể từ khi thực dân

Pháp xâm lược nước ta. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo Sắc lệnh ngày 24 tháng 8 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ chức công chứng: Người thực hiện công chứng là công chứng viên mang quốc tịch Pháp do Tổng thống Pháp bổ nhiểm và giữ chức vụ suốt đời. Quy chế công chứng viên do Nhà nước bổ nhiệm. Công chứng viên hoạt động với tư cách là người thi hành công vụ, hoạt động mang tính chất của người hành nghề tự do.

Ngày 10/10/1987, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTPK về công tác công chứng nhà nước, đến thời điểm này hệ thống công chứng Nhà nước Việt Nam mới được hình thành, công chứng nhà nước được xác định như sau: “là một hoạt động của Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện”. Do đặc điểm tình hình đất nước, mới bước vào giai đoạn của thời kỳ đổi mới, tuy đã đưa ra được những cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động của công chứng nhà nước nhưng Thông tư số 574/QLTPK cũng còn những điểm chưa rõ ràng như chưa xác định được chủ thể, đối tượng, nội dung hoạt động công chứng, chỉ quy định một cách chung chung nên qua quá trình phát triển, hoạt động công chứng cần có một cơ sở pháp lý đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao.

Ngày 27/2/1991, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, công chứng nhà nước được xác định như sau:

“Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Tiếp đến, Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước xác định công chứng như sau:

“Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 và Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 đã đưa ra khái niệm công chứng nhưng việc quy định công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ còn mang tính chung chung. Khắc phục những vấn đề còn tồn tại, hạn chế tại các quy định trước đây, đồng thời phát triển thêm cho phù hợp với quá trình phát triển của các giao dịch dân sự, theo xu hướng chung của thế giới, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực. Nghị định này đã tách biệt 02 khái niệm công chứng và chứng thực, trong đó, công chứng là “việc phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này”)[6]. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ đã thay đổi tên gọi từ “Phòng công chứng nhà nước” thành “Phòng công chứng”, đây là tiền đề cho sự thành lập, phát triển của Văn phòng công chứng theo quy định của Luật Công chứng năm 2006.

Có thể nói, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ đã có những điểm mới phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội, có ý nghĩa quan trọng cho việc xã hội hóa công chứng, đưa tổ chức và hoạt động công chứng theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, tách biệt giữa hoạt động công chứng và hoạt động chứng thực. Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai cũng phát sinh những tồn tại, hạn chế cần khắc phục và hơn thế nữa, yêu cầu, đòi hỏi chế định công chứng cần phải được nâng lên thành luật là cơ sở để Luật Công chứng năm 2006 ra đời.

Theo quy định của Luật Công chứng năm 2006, công chứng là “việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

Việc ban hành Luật Công chứng năm 2006 là một bước tiến quan trọng trong việc thể chế hoá nội dung về hoàn thiện thể chế về công chứng ở nước ta trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Hiện nay, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 (có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2015), công chứng là “việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.

Việc ban hành Luật Công chứng năm 2014 có ý nghĩa quan trọng góp phần tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập về thể chế, nâng cao chất lượng của hoạt động công chứng, công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng, đáp ứng được chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa hoạt động công chứng phù hợp với công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Ngoài các quy định nêu trên quy định chuyên ngành về tổ chức và hoạt động công chứng, trong nhiều văn bản khác của Đảng [13, 14], Nhà nước ta như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật đất đai, Luật nhà ở … đều có những quy định liên quan đến hoạt động công chứng.

Hoạt động công chứng ở nước ta tuy ra đời muộn so với các quốc gia khác trên thế giới nhưng đã được hình thành trong môi trường rất thuận lợi đó là sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điền kiện cho chế định công chứng ngày càng phát triển, đi vào cuộc sống.

Theo tác giả Nguyễn Thị Thu Hương [18, tr.24] “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; phải chịu trách nhiệm về nội dung của hợp đồng, giao dịch, chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng của mình, bồi thường thiệt hại do mình gây ra trong qúa trình hành nghề công chứng nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch”.

Từ quy định của pháp luật hiện hành và nghiên cứu bản chất của hoạt động công chứng, có thể đưa ra khái niệm chung nhất về công chứng như sau: Công chứng là dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm, là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã hội.

1.1.1.2. Vị trí, vai trò của công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Hoạt động công chứng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội, góp phần phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch, nhu cầu chứng thực của tổ chức, cá nhân trên địa bàn, đồng thời góp phần giảm tải công tác hành chính tư pháp tại Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện.

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 3 Luật Công chứng năm 2014: “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định và phát triển kinh tế – xã hội”.

Văn bản công chứng được công chứng viên chứng nhận theo đúng trình tự, thủ tục quy định có giá trị thi hành đối với các bên liên quan kể từ ngày công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng, có giá trị chứng cứ, những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.

Việc công chứng đảm bảo sự tự nguyện, tự do ý chí của các bên khi tham gia hợp đồng, giao dịch, đảm bảo sự xác thực về chủ thể, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch, từ đó các bên tham gia tránh bị lừa dối, tránh sự nhầm lẫn về chủ thể, đối tượng, nội dung hợp đồng, giao dịch.

Theo quy định hiện hành, các giao dịch về tài sản phải được công chứng hoặc chứng thực [24], việc công chứng được thực hiện tại tổ chức hành nghề công chứng, việc công chứng các giao dịch sẽ góp phần đảm bảo cho các giao dịch được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo và tạo môi trường pháp lý an toàn pháp lý cho các bên tham gia, góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội.

Thứ hai, kể từ ngày 01/01/2015 khi Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành, công chứng viên có thêm thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ văn bản, đây cũng là thẩm quyền thực hiện của Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện theo quy định. Do vậy, khi thực hiện các công việc này, công chứng viên sẽ góp phần giảm tải công tác hành chính tư pháp tại Ủy ban nhân dân cấp xã, huyện, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi cán bộ, công chức tư pháp có thêm nhiều nhiệm vụ mới; thực hiện việc tinh giản biên chế thì vai trò này càng thêm có ý nghĩa quan trọng.

Ngoài ra, các cá nhân, tổ chức cũng có thêm sự lựa chọn để đảm bảo thực hiện các yêu cầu của mình một cách nhanh chóng, hiệu quả. Các nước có có nền công chứng phát triển (ví dụ như ở Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức…) cho thấy các giao dịch về bất động sản, thương mại và giao dịch dân sự khác trong xã hội của cá nhân, tổ chức đều được công chứng. Họ coi văn bản công chứng về thực chất như một văn bản vừa có giá trị thi hành đối với các bên, vừa có giá trị phòng ngừa vi phạm pháp luật trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được các bên thỏa thuận [16, tr.13].

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của xã hội hóa công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

1.1.2.1. Khái niệm xã hội hóa công chứng

Xã hội hóa được hiểu là “quá trình chuyển hóa, tạo lập cơ chế hoạt động và cơ chế tổ chức quản lý mới của một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội, trên cơ sở cộng đồng trách nhiệm nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của xã hội, phục vụ cho mục tiêu phát triển của đất nước” [1].

Xã hội hóa là việc xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường cung cấp dịch vụ công; mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội vào cung cấp dịch vụ; là giải pháp quan trọng thực hiện chính sách công bằng xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nước nhưng đồng thời, xã hội hóa không có nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của Nhà nước.

Từ những quan điểm trên cho thấy, xã hội hóa nói chung là quá trình Nhà nước huy động sự tham gia của toàn xã hội để chia sẻ với Nhà nước nhằm thúc đẩy sự phát triển trong một lĩnh vực nhất định, góp phần vào việc đảm bảo và thực hiện quyền, lợi ích chính đáng của người dân, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu của người dân, vì lợi ích chung của toàn xã hội.

Trong lĩnh vực công chứng, xã hội hóa công chứng là việc nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.

1.1.2.2. Đặc điểm của xã hội hóa công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Xã hội hóa công chứng được thực hiện qua những nội dung sau:

Thứ nhất, xã hội hóa công chứng là việc nhà nước xóa bỏ sự độc quyền của nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ công chứng, hiện nay, ngoài các Phòng công chứng thì còn có các Văn phòng công chứng để phục vụ nhu cầu công chứng của người dân. Cùng với việc chuyển giao thì nhà nước bằng quyền lực của mình thực hiện quản lý đối với hoạt động công chứng, tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng.

Thứ hai, xã hội hóa công chứng là một quá trình lâu dài với những bước đi phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước, phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế. Xã hội hóa công chứng là chủ trương mang tính chiến lược của nhà nước, vừa tạo tiền đề thúc đẩy nội lực vừa huy động các nguồn lực của xã hội để phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng.

Thứ ba, xã hội hóa công chứng gắn liền với việc phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động công chứng, điều này tạo điều kiện để phát huy tính năng động, chủ động, sáng tạo, khắc phục tâm lý ỷ lại, phụ thuộc và nhà nước của các công chứng viên.

1.1.3. Khái niệm về quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng

Quản lý nhà nước theo nghĩa chung nhất là sự tác động mang tính quyền lực của các chủ thể quản lý nhà nước nhằm đạt được những mục tiêu nhất định, mục tiêu quản lý nhà nước là phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững trong xã hội.

Theo nghĩa rộng quản lý nhà nước là hoạt động của các cơ quan nhà nước (bao gồm hệ thống cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp) và người có thẩm quyền trong hệ thống cơ quan nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền. Trong phạm vi nghiện cứu của luận văn tiếp cận hoạt động quản lý nhà nước của hệ thống cơ quan hành chính.

Quản lý nhà nước về công chứng nói chung và đối với hoạt động xã hội hóa công chứng nói riêng là hoạt động mang tính chất quyền lực hành chính của Nhà nước do các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật. Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng là việc nhà nước đảm bảo hoạt động công chứng theo hướng xã hội hóa theo đúng quy định, đúng định hướng, mục tiêu mà nhà nước đã định; tăng số lượng và chất lượng của hoạt động công chứng để phục vụ người dân, đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển bền vững, ổn định, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

1.2. Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hoá công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Chủ thể quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng nói chung và xã hội hóa công chứng nói riêng là các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Căn cứ vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, mỗi cơ quan có nội dung quản lý khác nhau.

Chính phủ là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng nói chung và xã hội hóa công chứng nói riêng. Để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình Chính phủ giao cho các chủ thể là các bộ, ngành, cơ quan ở địa phương như Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh…quản lý nhà nước theo ngành, lãnh thổ.

Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng, có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công chứng; Xây dựng, trình Chính phủ ban hành chính sách phát triển nghề công chứng; Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; Bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm công chứng viên; Phê duyệt Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên sau khi thống nhất ý kiến với Bộ Nội vụ; Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động công chứng theo thẩm quyền; Quản lý và thực hiện hợp tác quốc tế về hoạt động công chứng.

Bộ Ngoại giao có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện công chứng của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho viên chức lãnh sự, viên chức ngoại giao được giao thực hiện công chứng.

Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công chứng.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Tổ chức thi hành, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng, chính sách phát triển nghề công chứng; Thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn; Quyết định thành lập Phòng công chứng, bảo đảm cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho các Phòng công chứng; Quyết định việc giải thể hoặc chuyển đổi Phòng công chứng theo quy định; Ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng; Quyết định cho phép thành lập, thay đổi và thu hồi quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng, cho phép chuyển nhượng, hợp nhất, sáp nhập Văn phòng công chứng; Ban hành mức trần thù lao công chứng tại địa phương; Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về công chứng theo thẩm quyền; phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác kiểm tra, thanh tra về công chứng.

Sở Tư pháp chịu trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về công chứng tại địa phương, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định.

1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

1.3.1. Xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành và các chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Luật Công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành

Đây là nội dung cơ bản và quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác xã hội hóa công chứng. Việc xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết thi hành và các chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện Luật công chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở quan trọng để các cơ quan nhà nước thực hiện việc quản lý đối với công tác này.

Thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng nói chung và hoạt động xã hội hóa công chứng nói riêng, từ khi Luật Công chứng năm 2014 có hiệu lực thi hành đến nay, Chính phủ, Bộ Tư pháp đã xây dựng, ban hành nhiều quy định, chính sách để triển khai thực hiện, góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hóa công chứng.

Đầu tiên phải kể đến là Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện đẩy mạnh công tác xã hội hóa công chứng, chuyển đổi Phòng công chứng nhà nước thành Văn phòng công chứng.

Để triển khai Luật Công chứng năm 2014, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2250/QĐ-BTP ngày 01/10/2014 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật công chứng, góp phần triển khai thi hành Luật được đồng bộ, thống nhất và hiệu quả trên phạm vi cả nước.

Tiếp đó là Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, quy định về thủ tục đề nghị bổ nhiệm công chứng viên, đăng ký hành nghề, cấp Thẻ công chứng viên; đào tạo nghề công chứng, khoá bồi dưỡng nghề công chứng, bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm; tổ chức và hoạt động công chứng; một số mẫu giấy tờ trong hoạt động công chứng.

Một bước tiến quan trọng nhất trong việc đẩy mạnh xã hội hóa công chứng là việc Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch, trong đó có lĩnh vực công chứng. Kể từ 01/01/2019, khi Luật này có hiệu lực thì việc phát triển các tổ chức hành nghề công chứng tại địa phương không còn theo quy hoạch phát triển do Thủ tướng quy định, việc phát triển theo hướng kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

1.3.2. Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, kế hoạch về xã hội hóa công chứng

1.3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xã hội hóa công chứng

Để tổ chức triển khai các văn bản, chương trình, kế hoạch về xã hội hóa công chứng, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là nhiệm vụ hàng đầu và rất quan trọng, là cầu nối để đưa pháp luật về xã hội hoá công chứng vào cuộc sống, góp phần nâng cao nhận thức của người dân, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về xã hội hóa công chứng.

Nhiệm vụ này ở Trung ương được giao cho Bộ Tư pháp, ở địa phương được giao cho Sở Tư pháp, bên cạnh đó, các cơ quan, tổ chức có liên quan từ trung ương đến địa phương đều có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công chứng nói chung và xã hội hóa công chứng nói riêng phù hợp với chức năng, quyền hạn của cơ quan, đơn vị mình.

Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xã hội hóa công chứng được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp khác nhau như tuyên truyền, phổ biến qua hình thức tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, qua các phương tiện thông tin đại chúng, phát hành tờ rơi, tờ gấp…

1.3.2.2. Cho phép thành lập các Văn phòng công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Trọng tâm của việc xã hội hóa công chứng là việc phát triển các Văn phòng công chứng, Phòng công chứng chỉ phát triển tại các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn.

Ngày 29/12/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2104/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã triển khai đồng bộ các giải pháp, do đó, chỉ trong thời gian ngắn, các tổ chức hành nghề công chứng phát triển mạnh mẽ theo hướng xã hội hóa, có lộ trình phù hợp, phân bổ hợp lý gắn với địa bàn dân cư và đã cơ bản phủ khắp các địa bàn cấp huyện. Việc tiếp cận dịch vụ công chứng của người dân thuận tiện hơn do mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng phát triển rộng khắp thay vì chỉ tập trung tại các thị xã, thành phố như trước đây, từ đó giúp người dân hình thành ý thức tự bảo vệ mình trong các giao dịch dân sự thông qua việc yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch góp phần giảm thiểu tranh chấp, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

Hiện nay, theo quy định tại Luật Công chứng 2014 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch năm 2018, việc thành lập Văn phòng công chứng như sau:

Các công chứng viên thành lập Văn phòng công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định. Hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gồm đơn đề nghị thành lập và đề án thành lập Văn phòng công chứng, trong đó nêu rõ sự cần thiết thành lập, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện; bản sao quyết định bổ nhiệm công chứng viên tham gia thành lập Văn phòng công chứng.

Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh.

Văn phòng công chứng phải có từ hai công chứng viên hợp danh trở lên. Văn phòng công chứng không có thành viên góp vốn; người đại diện theo pháp luật của Văn phòng công chứng là Trưởng Văn phòng. Trưởng Văn phòng công chứng phải là công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng và đã hành nghề công chứng từ 02 năm trở lên; tên gọi của Văn phòng công chứng phải bao gồm cụm từ “Văn phòng công chứng” kèm theo họ tên của Trưởng Văn phòng hoặc họ tên của một công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng do các công chứng viên hợp danh thỏa thuận, không được trùng hoặc gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không được vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc; Văn phòng công chứng phải có trụ sở đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 17 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ.

Ngoài ra, khi thành lập, Văn phòng công chứng còn phải được xét duyệt, chấm điểm theo tiêu chí thành lập các văn phòng công chứng của mỗi địa phương (Điềm d khoản 1 Điều 70 Luật Công chứng năm 2014 quy định nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân các tỉnh trong việc ban hành tiêu chí xét duyệt hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng).

1.3.2.3. Chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng

Cùng với việc thành lập các Văn phòng công chứng, thì việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng là điểm nhấn, nội dung quan trọng trong công tác xã hội hóa công chứng.

Việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng được đặt ra trong trường hợp không cần thiết duy trì Phòng công chứng, trong trường hợp này, Sở Tư pháp lập đề án chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.

Mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc thực hiện chuyển đổi:

Mục tiêu, yêu cầu của việc chuyển đổi Phòng công chứng: thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước và công chứng viên, viên chức, người lao động làm việc tại Phòng công chứng được chuyển đổi; thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan, theo đúng quy định của Luật Công chứng, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, bảo đảm tiếp tục duy trì, kế thừa hoạt động của Phòng công chứng được chuyển đổi.

Nguyên tắc chuyển đổi Phòng công chứng: Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải kế thừa toàn bộ quyền, nghĩa vụ và tiếp nhận toàn bộ hồ sơ công chứng của Phòng công chứng đó; bảo đảm chế độ, chính sách đối với công chứng viên, viên chức, người lao động sau khi Phòng công chứng chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật về viên chức và pháp luật về lao động; Văn phòng công chứng được thành lập từ việc chuyển đổi Phòng công chứng phải ký hợp đồng lao động với công chứng viên, viên chức, người lao động của Phòng công chứng đó, trừ trường hợp những người này không có nhu cầu tiếp tục làm việc tại Văn phòng công chứng. Nội dung, thời hạn, điều kiện hợp đồng được thực hiện theo quy định; bảo đảm tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước đang do Phòng công chứng quản lý, sử dụng được xử lý theo đúng quy định của pháp luật, không bị thất thoát trong quá trình chuyển đổi.

Từ các nội dung trên, Sở Tư pháp phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức thực hiện, tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, quyết định việc chuyển đổi Phòng công chứng thành Văn phòng công chứng.

1.3.2.4. Cho phép thành lập tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên là tổ chức tự quản được thành lập ở cấp trung ương và cấp tỉnh để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chứng viên; ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; giám sát việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; tham gia cùng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng; tham gia kiến với cơ quan có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực hiện các nhiệm vụ khác liên quan đến hoạt động công chứng theo quy định của Chính phủ.

Cho phép thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam

Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ và các Bộ, ngành liên quan xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam và tổ chức thực hiện Đề án sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Hiệp hội công chứng viên Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, công khai, minh bạch, phi lợi nhuận, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động phù hợp với quy định của Luật Công chứng và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ. Hoạt động của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; Hội viên của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam là các Hội công chứng viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các công chứng viên; quyền và nghĩa vụ của hội viên Hiệp hội công chứng viên Việt Nam do Điều lệ Hiệp hội công chứng viên Việt Nam quy định.

Cho phép thành lập Hội công chứng viên tỉnh

Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Sở Nội vụ hướng dẫn các công chứng viên tại địa phương thành lập Ban vận động thành lập Hội công chứng viên. Ban vận động gồm 03 đến 05 công chứng viên, có nhiệm vụ xây dựng Đề án thành lập Hội công chứng viên. Đề án nêu rõ về sự cần thiết thành lập, số lượng công chứng viên hành nghề tại địa phương, dự kiến về tổ chức, nhân sự và hoạt động của Hội công chứng viên.

Hội công chứng viên được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, công khai, minh bạch, phi lợi nhuận, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động phù hợp với quy định của Luật Công chứng, Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính phủ và Điều lệ Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên.

Tổ chức và hoạt động của Hội công chứng viên chịu sự quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và hướng dẫn của Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên. Hội công chứng viên không được ban hành nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định về phí, khoản thu và các quy định khác trái với quy định của pháp luật và Điều lệ Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên. Hội viên của Hội công chứng viên là các công chứng viên hành nghề trên địa bàn. Các công chứng viên phải tham gia Hội công chứng viên trước khi đăng ký hành nghề công chứng ở những nơi đã có Hội công chứng viên; quyền và nghĩa vụ của hội viên Hội công chứng viên do Điều lệ Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của công chứng viên quy định.

1.3.3. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về tổ chức và hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

1.3.3.1. Thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng

Thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng là hoạt động cần thiết trong công tác quản lý nhà nước nhằm đánh giá tình hình tổ chức, hoạt động, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, qua hoạt động thanh tra, kiểm tra còn phát hiện được những tồn tại, hạn chế, những quy định chưa phù hợp, khả thi của hệ thống pháp luật để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế cho phù hợp.

Để đảm bảo công tác quản lý nhà nước, hàng năm các cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra về tổ chức và hoạt động công chứng, việc thanh tra, kiểm tra có thể được thực hiện theo định kỳ hoặc thanh tra, kiểm tra đột xuất khi có phản ánh, kiến nghị.

1.3.3.2. Xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Xử lý vi phạm là một trong những công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động công chứng nói riêng nhằm duy trì trật tự, kỷ cương hành chính, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo công bằng xã hội.

Trong hoạt động công chứng, việc xử lý vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức có liên quan được quy định như sau:

Xử lý vi phạm đối với công chứng viên [25].

Công chứng viên vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Xử lý vi phạm đối với tổ chức hành nghề công chứng [25].

Tổ chức hành nghề công chứng vi phạm thì bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Xử lý vi phạm đối với người có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng [25].

Người có chức vụ, quyền hạn mà có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng hoặc cản trở công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng thực hiện quyền, nghĩa vụ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Xử lý vi phạm đối với cá nhân, tổ chức hành nghề công chứng bất hợp pháp [25].

Cá nhân không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Tổ chức không đủ điều kiện hành nghề công chứng mà hành nghề công chứng dưới bất kỳ hình thức nào thì phải chấm dứt hành vi vi phạm, bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Xử lý vi phạm đối với người yêu cầu công chứng [25].

Người yêu cầu công chứng có hành vi cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật, sử dụng giấy tờ, văn bản giả mạo, sửa chữa, tẩy xóa giấy tờ, văn bản trái pháp luật hoặc có hành vi gian dối khác khi yêu cầu công chứng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Như vậy, mọi hành vi vi phạm đều phải được xử lý để đảm bảo tính răn đe, nghiêm minh của pháp luật.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như chính trị, kinh tế – xã hội, con người, pháp luật, trình độ dân trí…Mỗi yếu tố có sự ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động này.

1.4.1. Yếu tố về chính trị

Yếu tố chính trị bao gồm các quan điểm, đường lối có liên quan đến việc xã hội hóa dịch vụ công chứng, đây là yếu tố có sự ảnh hưởng quan trọng, mang tính quyết định trong việc định hướng, chỉ đạo và tác động trực tiếp đến hoạt động quản lý.

Với bản chất là quá trình quản lý nhà nước trong việc chuyển giao các công việc của Nhà nước cho xã hội, công tác này phụ thuộc rất nhiều và quan điểm, đường lối, định hướng của Đảng. Các chủ trương, đường lối phù hợp với tình hình thực tế và điều kiện phát triển, chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành kịp thời, khả thi, chặt chẽ sẽ tạo điều kiện thuận lợi, hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng sẽ đem lại hiệu quả cao, ngược lại sẽ gây khó khăn đối với hoạt động này.

1.4.2. Yếu tố con người

Quá trình quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng được thực hiện thông qua chủ thể là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan Nhà nước. Sự nhận thức và triển khai thực hiện của đội ngũ này là yếu tố quyết định hiệu quả của công tác quản lý.

Bên cạnh đó, quan điểm, nhận thức của người dân với vai trò là chủ thể thụ hưởng chính sách cũng có sự ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước, xét cho cùng hiệu quả quản lý đối với xã hội hóa công chứng cũng nhằm mục đích phục vụ người dân ngày càng tốt hơn, việc xã hội hóa dịch vụ công chứng thực hiện được hay không phụ thuộc vào ý thức, sự chấp thuận của người dân.

Sự tham gia, ủng hộ của người dân càng lớn thì hoạt động quản lý nhà nước càng có điều kiện thuận lợi để đạt được mục tiêu. Nhà nước bảo đảm các điều kiện cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, việc tham gia này đảm bảo tính khách quan trong công tác quản lý nhà nước.

1.4.3. Yếu tố  pháp luật Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật về xã hội hóa công chứng có liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong môi trường thể chế phù hợp, hệ thống pháp luật được ban hành đúng thẩm quyền, kịp thời, phù hợp với yêu cầu quản lý và trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế – xã hội, bảo đảm sự bao quát từ trung ương đến địa phương.

Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã gia nhập hoặc là thành viên cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý nhà nước.

1.4.4. Yếu tố kinh tế

Hoạt động công chứng ra đời xuất phát từ sự phát triển của nền kinh tế, các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại cần đảm bảo về mặt pháp lý, từ đó hoạt động công chứng có điều kiện phát triển. Trên thế giới cũng như ở

Việt Nam, nơi nào có nền kinh tế phát triển thì hoạt động công chứng cũng phát triển theo, ngược lại, kinh tế kém phát triển thì hoạt động công chứng cũng bị ảnh hưởng.

Hiện nay, sự phát triển của kinh tế thị trường có sự tác động trực tiếp đến hoạt động công chứng nói chung, làm cho nhu cầu về công chứng ngày càng tăng cao, ngày càng đa dạng, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động công chứng. Hoạt động quản lý nhà nước cũng chịu sự tác động nhiều từ yếu tố kinh tế.

1.4.5. Yếu tố khoa học, công nghệ và quá trình hội nhập quốc tế Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

Sự phát triển của khoa học, công nghệ góp phần rất lớn vào việc nâng cao hiệu quả quản lý trong giai đoạn hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin, các phần mềm quản lý…giúp thu hẹp khoảng cách không gian, rút ngắn thời gian và giảm các chi phí thực tế phát sinh.

Quá trình hội nhập quốc tế thúc đẩy hoạt động quản lý nhà nước về xã hội hóa công chứng theo xu thế chung của thế giới, hội nhập quốc tế đòi hỏi việc hiện đại hóa nền hành chính, nâng cao năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ quản lý.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 của luận văn, tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản liên quan đến quản lý nhà nước về xã hội hóa công chứng, bao gồm các nội dung như khái niệm công chứng, xã hội hóa công chứng, quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng; các nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng theo quy định của pháp luật hiện hành.

Từ những nghiên cứu, đã rút ra được hai khái niệm cơ bản liên quan đến nội dung nghiên cứu, đó là:

Xã hội hóa công chứng là việc nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức ngoài nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng là việc nhà nước đảm bảo hoạt động công chứng theo hướng xã hội hóa theo đúng quy định, đúng định hướng, mục tiêu mà nhà nước đã định; tăng số lượng và chất lượng của hoạt động công chứng để phục vụ người dân, đảm bảo cho hoạt động công chứng phát triển bền vững, ổn định, phù hợp với xu thế chung của thế giới.

Quản lý nhà nước về xã hội hóa công chứng chịu tác động bởi các yếu tố như điều kiện kinh tế – xã hội, thể chế pháp luật, con người, khoa học công nghệ, quá trình hội nhập quốc tế…và tại mỗi địa phương với điều kiện, yếu tố khác nhau sẽ có những tác động khác nhau đến công tác này.

Từ những nội dung đã phân tích ở chương I, sẽ là nền tảng để tác giả đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động xã hội hóa công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Luận văn: Hoạt động xã hội hóa công chứng ở tỉnh Lâm Đồng

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY    

===>>> Luận văn: Tổng quan hành nghề công chứng tại tỉnh Lâm Đồng

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x