Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Hoàn thiện hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trước tình hình kinh tế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, các quốc gia đều nhận thức được những tiềm năng và thách thức của việc hội nhập toàn cầu và luôn nỗ lực với mong muốn hòa nhập và thích nghi tốt với quá trình toàn cầu hóa. Việt Nam gia nhập WTO và ký kết các hiệp định xúc tiến thương mạng vừa đem lại cơ hội và thách thức cho các ngành kinh tế trong nước nói chung và ngành nhựa nói riêng. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Ngành nhựa được xem là ngành kinh tế chiến lược của Việt Nam trong suốt những năm gần đây, thể hiện rõ nét qua tốc độ tăng trưởng tốt và nhu cầu sản phẩm tăng nhanh. Ngành nhựa còn được Chính phủ Việt Nam lựa chọn là một trong 10 ngành ưu tiên phát triển. Theo Quy hoạch phát triển ngành nhựa của Bộ Công Thương năm 2011, mục tiêu phấn đấu phát triển sản xuất công nghiệp ngành nhựa đến 2025 đạt 390.000 tỷ đồng, phát triển ngành nhựa Việt Nam thành ngành công nghiệp tiên tiến, sản xuất được những sản phẩm có chất lượng cao, đa dạng hóa về chủng loại, mẫu mã, có tính cạnh tranh cao, thân thiện với môi trường, đáp ứng phần lớn nhu cầu của thị trường trong nước, có khả năng xuất khẩu những sản phẩm có giá trị gia tăng cao với sản lượng ngày càng cao. Cụ thể, phấn đấu tỷ trọng ngành nhựa so với toàn ngành công nghiệp đến năm 2020 đạt 5,5% và tăng lên 6% vào năm 2025.

Trong tương lai, ngành nhựa Việt Nam còn rất nhiều cơ hội để phát triển. Tuy nhiên, với đặc điểm tập trung vào phân khúc nhựa gia dụng cấp thấp, ít lợi nhuận, phụ thuộc vào nguồn nguyên vật liệu nước ngoài, những công ty có chiến lược đúng đắn, đầu tư vào công nghệ và các phân khúc sản phẩm có tiềm năng phát triển lớn sẽ trụ lại được, các doanh nghiệp nhỏ, công nghệ lạc hậu sẽ khó có khả năng tồn tại. Thị trường sản phẩm nhựa ngày càng phát triển và nhiều biến đổi, sức ép cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các công ty nước ngoài xuất phát từ việc Việt Nam gia nhập WTO. Trong những năm gần đây, một số công ty nước ngoài với nguồn lực tài chính dồi dào, chiến lược đúng đắn đã tiến vào thị trường Việt Nam và sớm khẳng định được thương hiệu của mình, gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay toàn ngành nhựa Việt Nam gồm khoảng hơn 2.000 công ty trải dài từ Bắc vào Nam và tập trung chủ yếu ở TP.HCM (chiếm hơn 84%) với hơn 99,8% là công ty tư nhân. Các công ty trong nước chiếm 85%, công ty nước ngoài tuy chỉ chiếm 15% về số lượng nhưng chiếm đến 40% về vốn đầu tư.

Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành với hơn 25 năm hoạt động trong lĩnh vực hàng nhựa gia dụng đã xây dựng được thương hiệu của mình, được người tiêu dùng biết đến, nhưng đứng trước sự cạnh tranh từ các đối thủ trong và ngoài nước đã gặp không ít khó khăn trong việc duy trì sự ổn định và ảnh hưởng đến khả năng phát triển của Công ty trong tương lai. Công ty chủ yếu tập trung vào việc sản xuất và kinh doanh các sản phẩm hàng nhựa gia dụng cấp thấp, giá trị gia tăng thấp, lợi nhuận không cao, cạnh tranh chủ yếu về giá, hệ thống phân phối sản phẩm còn dàn trải. Các hoạt động trong Công ty không đồng bộ, chưa chú trọng nghiên cứu thị trường và ít quan tâm đến quá trình làm thị trường cho sản phẩm. Do đó, khi nền kinh tế trong nước lâm vào tình cảnh trì trệ, Công ty cũng đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản lượng sụt giảm. Mặc dù Công ty đã thành lập bộ phận Marketing từ rất sớm nhưng hoạt động vẫn còn khá nhiều hạn chế, chưa chuyên nghiệp, chiến lược phát triển thị trường chưa phù hợp, hiệu quả đạt được chưa tương xứng với vị thế của Công ty. Hơn lúc nào hết Hiệp Thành cần phải nhìn nhận, xem xét lại các hoạt động Marketing có còn phù hợp với bối cảnh thị trường hiện nay.

Ngày nay, Marketing sản phẩm đã và đang khẳng định vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược Marketing cho sản phẩm là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của mỗi doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp đó phải tiến hành huy động mọi nguồn lực, phải biết điều hành tổng hợp mọi yếu tố nhằm đạt được mục tiêu đã định sẵn. Thông qua chiến lược Marketing sản phẩm, doanh nghiệp có thể phát huy hết nội lực hướng vào những cơ hội hấp dẫn trên thị trường và vì thế sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh cho sản phẩm. Song hiện tại các hoạt động Marketing của Công ty vẫn chưa được chú trọng, chưa có hệ thống rõ ràng, chưa phát triển phù hợp với quy mô hoạt động Công ty, còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do đó, nghiên cứu này sẽ giúp nhà quản trị thấy rõ thực trạng hoạt động Marketing của Công ty và khả năng ứng phó của Công ty đối với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing giúp Công ty hoạt động hiệu quả hơn.

Sản phẩm chủ lực của Công ty là sản phẩm nhựa gia dụng, phục vụ sinh hoạt thường ngày của người tiêu dùng với danh mục sản phẩm đa dạng và mẫu mã ngày càng được cải tiến, mặc dù thị phần nhựa bao bì mới là dòng sản phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất (31%), nhựa gia dụng khiêm tốn ở mức 19%, song với xu hướng người tiêu dùng hạn chế sử dụng các sản phẩm nhựa dùng một lần, túi ni-lon hoặc các sản phẩm bao bì dùng một lần, thì đây cũng vừa là cơ hội cho nhựa gia dụng phát triển, khuyến khích người tiêu dùng sử dụng các sản phẩm được tái sử dụng lâu dài, vừa là thách thức khi người tiêu dùng sẽ chuyển sang dùng các sản phẩm thủy tinh thay cho nhựa gia dụng; song nhìn chung, tầm quan trọng và tiện lợi của các sản phẩm nhựa gia dụng là không thể thay thế được vì ưu điểm giá thành rẻ, mẫu mã đẹp mắt và đa dạng. Do đó dư địa ngành nhựa nói chung và nhựa gia dụng nói riêng vẫn được đánh giá có tiềm năng phát triển tốt.

Nhận thức được những vấn đề này cùng với mong muốn phát triển Hiệp Thành ngày càng lớn mạnh, tác giả đã lựa chọn đề tài Hoàn thiện hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công Ty Cổ Phần Sản Xuất Thương Mại Nhựa Hiệp Thành làm luận văn thạc sĩ của mình.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing

2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Trước tình hình cấp thiết về vấn đề hoàn thiện hoạt động Marketing của các công ty ngành nhựa, đã có nhiều nghiên cứu về giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing của công ty ngành nhựa, một số nghiên cứu tiêu biểu như:

  • Nguyễn Văn Trung (2014), Giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing của Công ty Nhựa Duy Tân, luận văn thạc sĩ Đại học Kinh Tế TP.HCM.
  • Nguyễn Hoàn  Bảo Châu  (2016), Giải pháp hoàn thiện  hoạt  động Marketing của công ty TNHH Sản xuất Nhựa Sài Gòn, luận văn thạc sĩ Đại học Lạc Hồng.

Phần lớn các nghiên cứu đều đã bày tỏ quan điểm về tầm quan trọng của Marketing đối với hoạt động của doanh nghiệp cũng như sản phẩm, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế như sau:

Một là, phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện nên độ chính xác chưa cao. Ngoài ra, kích thước mẫu tương đối nhỏ, mặc dù thỏa điều kiện cho phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi quy nhưng tính khái quát không cao;

Hai là, các nghiên cứu thực hiện duy nhất thương hiệu cho một đối tượng thương hiệu nhất định, đối tượng khảo sát là khách hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu có thể chính xác đối với thương hiệu này nhưng có thể sai lệch đối với thương hiệu khác, tính khái quát chưa cao vì địa bàn nghiên cứu chưa được mở rộng. Do đó, để kết quả có tính đại diện, khái quát cao hơn, các nghiên cứu tiếp theo cần mở rộng phạm vi nghiên cứu lớn hơn nữa, không chỉ dành riêng cho từng doanh nghiệp, từng địa phương.

Ba là, các nghiên cứu chưa đi sâu hoặc bỏ qua các tác động từ vấn đề môi trường đến suy nghĩ của ngườu tiêu dùng về các sản phẩm đồ nhựa, thiếu phân tích và đề xuất các vấn đề liên quan đến môi trường trong việc định hướng tiêu dùng, hoạch định hướng giải quyết triển vọng ngành nhựa. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Dựa trên kết quả của một số nghiên cứu nêu trên, tác giả nhận thấy các công ty ngành nhựa tập trung Marketing sản phẩm chỉ bằng cách mở rộng kênh phân phối, thực hiện tăng doanh số bằng cách mở thêm chi nhánh, đại lý bán hàng mà chưa thực sự quan tâm đến việc nghiên cứu và cải tiến mẫu mã sản phẩm, định vị và dẫn dắt thị trường.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu tổng quát: Đề xuất các giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành

Mục tiêu cụ thể:

  • Phân tích thực trạng và đánh giá các hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành
  • Đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Marketing cho sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành từ xưa đến nay.

Phạm vi nghiên cứu:

  • Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện dựa trên khảo sát người tiêu dùng sản phẩm nhựa gia dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
  • Phạm vi thời gian: Số liệu sơ cấp được thu thập trong thời gian từ 11/2018 đến tháng  3/2019. Số liệu thứ cấp được sử dụng trong 3 năm 2016 – 2017- 2018.
  • Đối tượng khảo sát: khảo sát được thực hiện với đối tượng là người tiêu dùng sản phẩm nhựa gia dụng tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh

5. Nguồn dữ liệu Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Đề tài sử dụng đa nguồn dữ liệu như sau:

  • Dữ liệu thống kê: thu thập các thông tin thứ cấp về ngành nhựa Việt Nam và thị trường kinh doanh sản phẩm nhựa gia dụng ở Thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam.
  • Dữ liệu sơ cấp: để tìm hiểu ý kiến của người tiêu dùng về các yếu tố tác động đến hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng.

6. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như sau:

  • Phương pháp định tính: Tổng hợp, phân tích, đánh giá các dữ liệu thứ cấp về thị trường ngành nhựa Việt Nam và hoạt động Marketing cho sản phẩm nhựa gia dụng tại Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành.

Phương pháp định lượng:

  • Dựa trên các yếu tố mà các nghiên cứu trước đây xác định là có tầm ảnh hưởng đến hoạt động Marketing sản phẩm và dựa vào các nội dung cần điều tra, tác giả xây dựng bảng câu hỏi điều tra người tiêu dùng về các hoạt động Marketing đối với sản phẩm nhựa gia dụng. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành
  • Thông qua việc thống kê, phân tích dữ liệu khảo sát kết hợp với phân tích dữ liệu thứ cấp, tác giả tiến hành phân tích thực trạng hoạt động Marketing cho sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty.
  • Từ thực trạng đã phân tích, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng tại Công ty.

Trong đó, nghiên cứu tài liệu, điều tra bảng hỏi được thực hiện đồng thời, xen kẽ nhau trong toàn bộ quá trình thực hiện nghiên cứu: nghiên cứu các tài liệu cả trong nước và nước ngoài về đề tài liên quan để tìm kiếm thông tin kiến thức, học hỏi và tiếp thu, tạo nền tảng cho việc thực hiện nội dung đặc biệt là bảng hỏi. Bảng hỏi sẽ là cơ sở quan trọng nhất để thực hiện phỏng vấn nhóm đối với nhóm đối tượng nghiên cứu, từ đó dựa vào kết quả tổng hợp được sẽ tiến hành phân tích, kết luận và đề xuất những giải pháp, chiến lược tiếp cận người dùng cho những kế hoạch Marketing, truyền thông hiệu quả.

Sử dụng bảng câu hỏi/ mẫu khảo sát:

  • Với số lượng 300 bảng hỏi, sau khi thu thập và kiểm tra, 14 bảng bị loại do có quá nhiều ô trống. Vì vậy, kích thước mẫu cuối cùng là n = 286.
  • Mẫu được chọn theo phương pháp phân tầng và không theo tỉ lệ.
  • Đối tượng cụ thể : người tiêu dùng sản phẩm nhựa gia dụng tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyên nhân xác định đối tượng cho bảng hỏi là do Công ty Hiệp Thành có hơn 96 điểm bán hàng tại TP.HCM, đây là thị trường lớn nhất của Công ty trong phạm vi cả nước.

Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp với phương pháp định lượng, xây dựng bảng câu hỏi khảo sát để điều tra và thực hiện khảo sát phỏng vấn người tiêu dùng về các hoạt động Marketing đối với sản phẩm nhựa gia dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đưa ra kết quả nghiên cứu và giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing cho sản phẩm nhựa tại Công ty.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, luận văn gồm:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về Marketing.

Chương 2: Thực trạng hoạt động Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành.

Chương 3: Hoàn thiện hoàn thiện Marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành.

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MARKETING

1.1. Một số khái niệm Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

1.1.1. Khái niệm Marketing

Mặc dù các hoạt động Marketing có từ lâu đời, khái niệm này chỉ hình thành từ những năm đầu thế kỉ XX. Thuật ngữ Marketing lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1902 trên giảng đường đại học Tổng hợp Michigan ở Mỹ. Thuật ngữ này bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1980. Cho đến nay, về mặt học thuật vẫn tồn tại nhiều định nghĩa Marketing khác nhau tùy theo quan điểm.

Theo Philip Kotler, Marketing là một dạng hoạt động của con người nhằm thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của họ thông qua trao đổi.

Từ những năm 1960, Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ (America Marketing Associate) đã cho rằng “Marketing là toàn bộ hoạt động kinh doanh nhằm hướng các luồng hàng hóa và dịch vụ mà người cung ứng đưa ra về phía người tiêu dùng và người sử dụng”. Đến năm 1985, quan điểm Marketing của Hiệp hội được mở rộng: “Marketing là một quá trình hoạch định và quản lý thực hiện việc định giá, chiêu thị và phân phối các ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ nhằm mục đích tạo ra các giao dịch để thoả mãn những mục tiêu của cá nhân, tổ chức và xã hội”.

Viện Marketing Anh Quốc-UK Chartered Institute of Marketing cho rằng Marketing là quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu thực sự của người tiêu dùng về một mặt hàng cụ thể đến việc sản xuất và đưa hàng hóa đó đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm bảo đảm cho công ty thu được lợi nhuận như dự kiến.

Theo Gronroos (2007), Marketing là thiết lập, duy trì và củng cố các mối quan hệ với khách hàng và các đối tác có liên quan để làm thỏa mãn mục tiêu của các thành viên này.

Theo Philip Kotler và Gary Armstrong (2008), Marketing là quá trình mà cách công ty tạo ra giá trị cho khách hàng và xây dựng mối quan hệ bền vững để giành được giá trị từ khách hàng.

Theo Nguyễn Văn Hùng và cộng sự (2016), Marketing là tiến trình hoạch định, thực hiện sự sáng tạo, định giá, xúc tiến, phân phối những ý tưởng, hàng hoá, dịch vụ để tạo sự trao đổi, thoả mãn những mục tiêu của cá nhân và tổ chức. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Theo Philip Kotler (2013), Marketing là một quá trình quản lý mang tính xã hội, nhờ đó mà các cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn thông qua việc tạo ra, chào bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với những người khác.

Theo GS. Vũ Thế Phú (2014), Marketing là toàn bộ những hoạt động của doanh nghiệp nhằm xác định nhu cầu chưa được thỏa mãn của người tiêu dùng, để tìm kiếm các sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp có thể sản xuất được, tìm cách phân phối chúng đến những địa điểm thuận lợi với giá cả và thời điểm thích hợp nhất cho người tiêu thụ.

Nhìn chung, khái niệm Marketing luôn dựa trên những khái niệm cốt lõi gồm nhu cầu, mong muốn và yêu cầu, sản phẩm, giá trị, chi phí và sự hài lòng; trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ; thị trường, Marketing và những người làm Marketing.

Ngoài ra, trong quá trình phát triển ngành khoa học Marketing, còn có một số khía niệm tiêu biểu sau:

“Marketing là toàn bộ hệ thống các hoạt động kinh doanh từ việc thiết kế, định giá, xúc tiến đến phân phối những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu nhằm đạt được những mục tiêu đã định.” (Bruce J.W. William, Michel J.Etzel, Những nguyên tắc cơ bản của Marketing-Fundamental of Marketing).

“Marketing là khoa học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, nó căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói khác đi là lấy thị trường làm định hướng (I. Ansoff, một chuyên gia nghiên cứu về Marketing của Liên Hiệp Quốc)

“Marketing là hoạt động kinh tế trong đó hàng hóa được đưa từ người sản xuất đến người tiêu dùng.” (Học viện Hamilton, Hoa Kỳ)

“Marketing là một triết lý kinh doanh mà tiêu điểm là người tiêu dùng và lợi nhuận.” (Công ty General Electric, Hoa Kỳ)

Tóm lại, dù có rất nhiều quan điểm khác nhau về Marketing nhưng có thể khái quát Marketing là quá trình mà doanh nghệp nỗ lực nghiên cứu và thay đổi, cải tiến các hoạt động và sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của thị trường.

Qua các khái niệm trên, có thể rút ra tư tưởng chính của Marketing như sau:

  • Khâu tiêu thụ luôn được coi trọng, nghĩa là phải bán được hàng.
  • Doanh nghiệp chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái mình có.
  • Marketing là hoạt động hướng tới thỏa mãn nhu cầu khách hàng ngày một tốt hơn. Muốn biết thị trường và người tiêu dùng cần gì thì nhà sản xuất phải nghiên cứu thị trường cẩn thận và có phản ứng linh hoạt.
  • Marketing không phải là một hiện tượng mà là một quá trình xuất phát từ khâu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm nhu cầu đến khi tìm ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu đó và lặp lại quá trình đó.
  • Marketing gắn liền với tổ chức và quản lý, đòi hỏi đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh.

1.1.2. Khái niệm Marketing Mix Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Marketing Mix (hay Marketing hỗn hợp) là tập hợp các công cụ tiếp thị được doanh nghiệp sử dụng để đạt được trọng tâm tiếp thị trong thị trường mục tiêu. Thuật ngữ này được đề cập lần đầu tiên vào năm 1953 bởi Neil Borden – chủ tịch của hiệp hội Marketing Hòa Kỳ khi đó. Theo Philip Kotler thì “Marketing Mix là tập hợp các biến số mà công ty có thể kiểm soát và quản trị được. Nó được sử dụng để cố gắng gây được phản ứng mong muốn từ thị trường mục tiêu”. (Philip Kotler, 2007, trang 48) Một nhà tiếp thị nổi tiếng, E. Jerome McCarthy, đề nghị phân loại theo 4P năm 1960. Khái niệm 4P được hiểu là tập hợp các công cụ tiếp thị bao gồm: sản phẩm (Product ), giá cả (Price), phân phối (Place), chiêu thị (Promotion) đã được sử dụng rộng rãi và giải thích trong sách giáo khoa về Marketing và trong các lớp học.

Product (Sản phẩm): Quản lý các yếu tố của sản phẩm/dịch vụ (thương hiệu, chất lượng, thiết kế, bao bì, dịch vụ kèm theo, chế độ bảo hành…) và lập kế hoạch phát triển sản phẩm/dịch vụ ra thị trường.

Price (Giá cả) : Quyết định về giá sản phẩm ngoại trừ các chi phí sản xuất, điều hành còn tính tới các yếu tố khác (giá hiện tại của sản phẩm cạnh tranh, giá khuyến mãi, giá cho các đại lý, giá áp dụng cho các hình thức thanh toán khác…) để xác định giá niêm yết cho sản phẩm.

Place (Phân phối): Chọn lựa và quản lý các kênh thương mại để sản phẩm chiếm lĩnh được thị trường mục tiêu đúng thời điểm và phát triển hệ thống hậu cần (logistics) và vận chuyển sản phẩm.

Promotion (Chiêu thị): Giới thiệu và thuyết phục thị trường tiềm năng dùng sản phẩm của doanh nghiệp thông qua các loại hình quảng bá (quảng cáo qua báo chí hoặc Internet…, khuyến mại, quan hệ công chúng bán hàng cá nhân, Marketing trực tiếp).

1.2. Mục tiêu và chức năng của Marketing Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

1.2.1. Mục tiêu của Marketing

Theo Trương Đình Chiến (2012), ba mục tiêu chủ yếu của Marketing bao gồm:

Một là, thỏa mãn khách hàng: đây là vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Các nỗ lực Marketing giúp đáp ứng nhu cầu của khách hàng, tạo sự hài lòng và trung thành với công ty để thu hút khách hàng mới.

Hai là, chiến thắng trong cạnh tranh: các giải pháp Marketing giúp công ty tăng vị thế cạnh tranh, bảo đảm vị thế cạnh tranh thắng lợi trên thị trường.

Ba là lợi nhuận lâu dài: các hoạt động Marketing phải tạo ra mức lợi nhuận cần thiết giúp công ty duy trì và phát triển.

Mục tiêu Marketing là những cam kết số lượng, thường được đưa ra như là những tiêu chuẩn để đánh giá hoàn tất nhiệm vụ trong một khoảng thời gian, hoặc là những điều kiện phải hoàn thành trước một mốc thời gian được đặt ra. Tiêu chuẩn hoàn tất nhiệm vụ thường được đặt ra dưới dạng khối lượng hàng bán ra, doanh thu bán hàng hoặc những chỉ số lợi nhuận khác. Còn điều kiện phải hoàn thành thường là một tỉ lệ phần trăm thị phần và một số cam kết khác như là phần trăm trên tổng số cửa hàng thuộc mạng lưới phân phối.

Mục tiêu của Marketing đối với khách hàng, xã hội

Theo Trương Thị Hồng Giang (2015), mục tiêu của Marketing đối với khách hàng, xã hội gồm:

Một là, tối đa hóa mức độ tiêu dùng: Marketing hướng đến kích thích và tạo điều kiện dễ dàng để khách hàng tối đa hóa việc tiêu dùng, sau đó sẽ giúp doanh nghiệp phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm và tạo nhiều của cải cho xã hội.

Hai là, đạt được mức thỏa mãn người tiêu dùng cao nhất: Theo quan điểm này, mục tiêu Marketing là tối đa hóa sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng chứ không chỉ là tối đa hóa sự tiêu thụ. Đây là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Sự thoả mãn này là tiền đề cho sự trung thành của khách hàng đối với nhãn hiệu và sự tin cậy, tín nhiệm đối với doanh nghiệp. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Ba là, tối đa hóa sự lựa chọn của người tiêu dùng: Marketing còn hướng đến dành cho người tiêu dùng quyền lựa chọn lớn nhất thông qua việc cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, giá cả.

Bốn là, nâng cao chất lượng cuộc sống: Từ việc cung cấp cho xã hội những sản phẩm giá trị ngày càng cao, giúp mọi người thỏa mãn ngày càng đầy đủ, cao cấp hơn để hướng đến mục tiêu cuối cùng là nâng chất lượng cuộc sống ngày càng cao hơn.

Mục tiêu của Marketing đối với doanh nghiệp:

  • Mục tiêu lợi nhuận: Lợi nhuận là mục đích của hoạt động sản xuất kinh doanh và là mục tiêu quan trọng nhất trong các mục tiêu của chiến lược Marketing. Lợi nhuận là điều kiện vật chất để doanh nghiệp tổ chức, vận hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tái sản xuất, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức sống cho người lao động, là động lực mạnh mẽ nhất chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp.
  • Mục tiêu tăng cường thế mạnh trong kinh doanh:Các chỉ tiêu: mức độ tăng trưởng của số lượng hàng hóa và doanh số bán ra , tốc độ tăng thị phần, tỷ suất lợi nhuận, mức độ tích luỹ, quy mô kinh doanh, khả năng liên doanh, liên kết với bên ngoài, uy tín của doanh nghiệp trên thương trường… thể hiện vị thế, thế lực của doanh nghiệp trên thị trường
  • Mục tiêu an toàn trong kinh doanh: Môi trường kinh doanh an toàn là điều kiện để doanh nghiệp kinh doanh phát triển ổn định và bền vững. Thị trường có sự ổn định về an ninh chính trị, luật kinh doanh thông thoáng, quy mô thị trường lớn, giá cả thị trường ổn định và là thị trường mà doanh nghiệp có tiềm năng và thế mạnh so với những doanh nghiệp khác là thị trường an toàn.

1.2.2. Chức năng của Marketing:

Chức năng cơ bản của Marketing là dựa trên sự phân tích môi trường để quản trị Marketing, cụ thể là:

  • Phân tích môi trường và nghiên cứu Marketing: dự báo và thích ứng với những yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại; tập hợp các thông tin để quyết định các vấn đề Marketing.
  • Mở rộng phạm vi hoạt động: lựa chọn và đưa ra cách thức thâm nhập những thị trường mới.
  • Phân tích người tiêu thụ: xem xét và đánh giá những đặc tính, yêu cầu, tiến trình mua của người tiêu thụ; lựa chọn các nhóm người tiêu thụ để hướng các nỗ lực
  • Hoạch định sản phẩm: phát triển, duy trì sản phẩm, dòng và tập hợp sản phẩm, hình ảnh sản phẩm, nhãn hiệu, bao bì; loại bỏ sản phẩm yếu kém.
  • Hoạch định phân phối: xây dựng mối liên hệ với trung gian phân phối, quản lý dự trữ, tồn kho, vận chuyển, phân phối hàng hóa và dịch vụ bán sỉ và bán lẻ.
  • Hoạch định xúc tiến: thông đạt với khách hàng, công chúng, các nhóm khác thông qua các hình thức của quảng cáo, quan hệ công chúng, bán hàng cá nhân và khuyến mãi.
  • Hoạch định giá: xác định các mức giá, kỹ thuật định giá, các điều khoản bán hàng, điều chỉnh giá và sử dụng giá như một yếu tố tích cực hay thụ động.
  • Thực hiện kiểm soát và đánh giá Marketing: hoạch định, thực hiện và kiểm soát các chương trình, hoạt động Marketing; đánh giá các rủi ro, lợi ích của các quyết định và tập trung vào chất lượng toàn diện.

1.3. Các hoạt động Marketing sản phẩm Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

1.3.1. Hoạt động về sản phẩm 

Khái niệm sản phẩm

Thông thường khi nói về sản phẩm, người ta thường quy nó về một hình thức tồn tại vật chất cụ thể và do đó nó chỉ bao hàm những thành phần hoặc yếu tố có thể quan sát được. Tuy nhiên theo quan điểm Marketing thì khái niệm sản phẩm có nội dung rộng hơn: Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đưa vào một thị trường để đạt được sự chú ý, sự chấp thuận, sử dụng hoặc tiêu thụ, có khả năng thỏa mãn được một ước muốn hay một nhu cầu.

Như vậy, sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng vật chất và phi vật chất, bao gồm hàng hóa, dịch vụ, con người, nơi chốn, tổ chức, hoạt động, tư tưởng hay sự hứa hẹn thỏa mãn một hay nhiều nhu cầu của thị trường ở một thời điểm cụ thể. Với quan điểm này, các doanh nghiệp sẽ có một cái nhìn toàn diện về sản phẩm, giúp việc xây dựng hoạt động Marketing đối với sản phẩm của doanh nghiệp sẽ hoàn thiện hơn.

Theo Ths. Lê Thị Bích Ngọc, chính sách sản phẩm là những nguyên tắc chỉ đạo, quy tắc, phương pháp, thủ tục được thiết lập gắn với việc phát triển và đổi mới sản phẩm nhằm hỗ trợ và thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu đã xác định. chính sách sản phẩm bao gồm toàn bộ các giải pháp định hướng cho việc phát triển sản phẩm, làm cho sản phẩm luôn thích ứng với thị trường, đáp ứng cầu thị trường trong thời kỳ chiến lược xác định.

Chất lượng của sản phẩm có thể được hiểu là tổng hợp các đặc tính của sản phẩm tạo nên giá trị sử dụng, thể hiện khả năng mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao, trong những điều kiện sản xuất, kinh tế xã hội nhất định. Trong sản xuất kinh doanh, mục đích lớn nhất đó là phải sản xuất ra những hàng hoá đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Mà điều cốt lõi là khách hàng luôn muốn tìm cho mình một sản phẩm có chất lượng cao giá cả hợp lý đây là một điều không dễ dàng gì đối với các nhà cung ứng. Để tạo ra một sản phẩm có chất lượng không chỉ đơn thuần quan tâm đến một vài công đoạn của việc sản xuất ra sản phẩm mà bất cứ một sản phẩm nào cũng được hoàn thành theo một trình tự nhất định với nhiều nghiệp vụ khác nhau mà nếu một sự yếu kém bất kỳ nào trong trình tự ấy sẽ trực tiếp làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Các cấp độ của sản phẩm:

Cấp độ cơ bản nhất là sản phẩm cốt lõi: là phần thể hiện lợi ích hoặc dịch vụ cụ thể của sản phẩm đó.

Cấp độ thứ hai là sản phẩm cụ thể: là dạng cơ bản của sản phẩm đó, bao gồm năm yếu tố: đặc điểm, nhãn hiệu, bao bì, chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm.

Cấp độ thứ ba là sản phẩm gia tăng: bao gồm những dịch vụ và lợi ích phụ thêm để phân biệt với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, đó là các vật phẩm trang bị thêm nơi phục vụ, dịch vụ sau bán hàng và cho hưởng tín dụng.

Cấp độ thứ tư là sản phẩm tiềm năng: là những sáng tạo vượt ra khỏi cung cách cạnh tranh thông thường,vạch ra tương lai mới cho sự phát triển của sản phẩm.

Hình 1.1: Các nhân tố cấu thành sản phẩm

Hoạt động về sản phẩm

Trong Marketing, các hoạt động về sản phẩm được xem như nền tảng cho quá trình sản xuất kinh doanh, việc tìm hiểu và nghiên cứu phát triển sản phẩm mới và lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường là tiền đề cho sự tăng trưởng của doanh nghiệp. Hơn nữa, việc hoạt động về sản phẩm đúng đắn còn giúp doanh nghiệp định hướng tốt nhu cầu và kích thích nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó các hoạt động về giá, phân phối và xúc tiến cần phải được xây dựng phù hợp với hoạt động về sản phẩm. Các hoạt động về sản phẩm có thể được xây dựng dựa trên cơ sở các chiến lược về sản phẩm như sau:

Chiến lược tập hợp sản phẩm:

Nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng đa dạng và phong phú, do đó doanh nghiệp không cần phải xây dựng một tập hợp sản phẩm phù hợp bằng các cách sau:

Thứ nhất là, mở rộng tập hợp sản phẩm bằng cách tăng thêm các dòng sản phẩm mới.

Thứ hai là, kéo dài các dòng sản phẩm trong một tập hợp bằng cách tăng thêm số mặt hàng cho mỗi dòng sản phẩm tạo cho doanh nghiệp các dòng sản phẩm hoàn chỉnh.

Thứ ba là, tăng chiều sâu của tập hợp sản phẩm bằng cách tăng số mẫu biến thể của mỗi sản phẩm như thay đổi kích cỡ, mùi vị, tích hợp thêm cách chức năng phụ trợ.

Thứ tư là, tăng giảm tính đồng nhất của tập hợp sản phẩm, chiến lược này được thực hiện tuỳ thuộc doanh nghiệp muốn có uy tín vững chắc trong một lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau.

Chiến lược dòng sản phẩm

Trong kinh doanh, thông thường các doanh nghiệp sản xuất cả một dòng sản phẩm chứ không sản xuất một loại sản phẩm duy nhất dù đây có thể là một sản phẩm rất xuất sắc, nhờ đó việc hạn chế rủi ro sẽ tốt hơn. Các chiến lược về dòng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể sử dụng gồm có:

Thứ nhất là, thiết lập các dòng sản phẩm: doanh nghiệp cần phải thiết lập các dòng sản phẩm thích hợp và từng bước củng cố chất lượng sản phẩm để bảo đảm được sự an toàn và hiệu quả trong kinh doanh. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Thứ hai là, phát triển dòng sản phẩm: phát triển mở rộng các mặt hàng trong một dòng sản phẩm. Việc phát triển dòng sản phẩm có thể thực hiện theo hai cách sau:

  • Dãn rộng dòng sản phẩm: doanh nghiệp có thể dãn rộng dòng sản phẩm bằng cách: dãn xuống, dãn lên hoặc dãn ra hai phía.
  • Bổ sung dòng sản phẩm: bằng cách tăng thêm những mặt hàng mới vào dòng sản phẩm hiện có.
  • Chiến lược cho từng sản phẩm cụ thể

Có thể sử dụng các chiến lược sau:

Thứ nhất là đổi mới sản phẩm: Chiến lược này khá mạo hiểm vì mức độ thành công của đổi mới thường không cao. Để đổi mới sản phẩm có thể sử dụng hai chiến lược sau:

  • Đổi mới phản ứng: được thực hiện khi có sự thay đổi của thị trường, thực chất là chiến lược bắt chước nhanh của người thứ hai.
  • Đổi mới chủ động: được thực hiện khi chưa có sự thay đổi của thị trường nhưng doanh nghiệp vì muốn tìm kiếm một mức phát triển cao hơn.

Thứ hai là bắt chước sản phẩm: được thực hiện khi doanh nghiệp không dám đổi mới vì sợ rủi ro nhưng lại không muốn sản phẩm của mình bị lỗi thời, do đó doanh nghiệp bắt chước các sản phẩm mới mà các doanh nghiệp khác đã phát hành hiệu quả . Chiến lược này cần được thực hiện nhanh chóng vì nếu bắt chước quá chậm sẽ không có hiệu quả, chỉ làm tăng thêm sự ứ đọng hàng hoá.

Thứ ba là thích ứng sản phẩm: doanh nghiệp cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá bán nhằm đáp ứng nhu cầu khách hàng đối với các sản phẩm đã tồn tại trên thị trường. Doanh nghiệp cần quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề nhân viên, bảo đảm chất lượng nguyên vật liệu, kiểm tra và kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm.

Thứ tư là tái định vị sản phẩm: nhằm tạo ra một vị trí mới cho một sản phẩm hay cho một nhãn hiệu hiện có trên thị trường trong tâm trí của người tiêu dùng. Chiến lược này cần được thực hiện khi các đối thủ cạnh tranh có thể đã tung ra sản phẩm gần giống và lấn vào thị phần của doanh nghiệp hoặc khi sản phẩm không còn phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Có thể tái định vị bằng cách thay đổi hình ảnh sản phẩm hoặc thay đổi cả sản phẩm lẫn hình ảnh của sản phẩm.

Chiến lược về chất lượng sản phẩm Gồm có 3 loại chiến lược sau:

Một là hoàn thiện và cải tiến chất lượng sản phẩm: có thể được triển khai bằng cách hoàn thiện kết cấu kỹ thuật của sản phẩm; nâng cao tuổi thọ, tăng độ bền và độ an toàn của sản phẩm; thay đổi kiểu dáng, kích cỡ, vật liệu chế tạo; hạn chế hoặc loại trừ những chi tiết còn hạn chế, thay vào đó bằng những bộ phận, chi tiết phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hoặc tăng cường tính dễ sử dụng, dễ bảo trì bảo dưỡng, và dễ tìm phụ tùng thay thế của sản phẩm.

Hai là duy trì chất lượng sản phẩm: doanh nghiệp vẫn duy trì chất lượng ban đầu của sản phẩm, trừ trường hợp những sai sót hiển nhiên hoặc thị hiếu thay đổi.

Ba là giảm dần chất lượng: nhiều doanh nghiệp bắt đầu giảm dần chất lượng để bù vào chi phí tăng cao sau khi gây được danh tiếng và chiếm được thị phần đáng kể nhờ chất lượng sản phẩm tốt, với hy vọng khách hàng sẽ không nhận ra sự khác biệt. Điều này có thể làm tăng mức lợi nhuận hiện tại nhưng sẽ ảnh hưởng đến mức lợi nhuận lâu dài của doanh nghiệp.

1.3.2. Hoạt động về giá Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Khái niệm về giá

Theo Nguyễn Tường Huy (2015), giá là khối lượng tiền tính cho một sản phẩm hoặc là tổng giá trị mà người tiêu dùng bỏ ra để nhận được lợi ích nhờ sở hữu hay sử dụng sản phẩm.

Giá là một yếu tố có khả năng gây ra những phản ứng tức thì đối với người tiêu dùng và đối với đối thủ cạnh tranh. Đối với người tiêu dùng, giá tác động mạnh mẽ đến chi tiêu, vì vậy giá cả được xem như một tiêu chuẩn quan trọng của việc lựa chọn và mua sản phẩm. Đối với doanh nghiệp, giá có ảnh hưởng lớn đến doanh số và lợi nhuận của doanh nghiệp.

Phương pháp định giá

Về cơ bản, hoạt động định giá của doanh nghiệp là đưa ra mức giá bán sản phẩm trên thị trường. Giá sản phẩm chịu sự tác động của nhiều yếu tố như nguyên vật liệu, công nghệ sản xuất, quan hệ cung cầu trên thị trường, xu hướng tiêu dùng,…Giá cả biến động trong suốt vòng đời sản phẩm và là đặc trưng quan trọng trong hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Theo Nguyễn Tường Huy (2015), có ba phương pháp định giá chủ yếu:

  • Định giá trên cơ sở chi phí: phương pháp này hướng vào mục tiêu chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp, được xác định bằng cách cộng thêm một mức lợi nhuận dự kiến vào chi phí của một sản phẩm. Doanh nghiệp chỉ cần cộng thêm mức biên lãi vào giá thành sản phẩm để hình thành giá bán. Doanh nghiệp sử dụng điểm hòa vốn làm công cụ tính giá, đưa mức giá tương ứng với khối lượng bán để đạt lợi nhuận mục tiêu nhằm phân tích mức hòa vốn và theo lợi nhuận mục tiêu. Ưu điểm của phương pháp này là tương đối đơn giản, công bằng cho cả nhà sản xuất, nhà bán sỉ và nhà bán lẻ, nhưng nhìn chung là chưa hợp lý vì không quan tâm đến yếu tố nhu cầu và cạnh tranh trên thị trường. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành
  • Định giá dựa trên cảm nhận của người mua: Phương pháp này định giá dựa trên giá trị được nhận thức về sản phẩm của khách hàng. Cơ sở quan trọng để định giá là nhận thức của người mua về giá trị của sản phẩm, chứ không phải là chi phí của người bán. Giá mục tiêu được xác định trước, thiết kế sản phẩm và chi phí được quyết định sau. Phương pháp này bao gồm định giá hợp lý và định giá dựa trên giá trị gia tăng. Định giá hợp lý là sự kết hợp đúng mức của chất lượng và dịch vụ tốt nhất với giá cả phải chăng ( Ví dụ như chương trình Giá rẻ mỗi ngày của BigC). Định giá trên giá trị gia tăng là bổ sung tính năng, dịch vụ giá trị gia tăng để tạo nên sự khác biệt hóa của sản phẩm, từ đó sản phẩm được định giá cao hơn. Doanh nghiệp sử dụng những yếu tố phi giá cả trong Marketing hỗn hợp để xây dựng giá trị trong tâm trí của người mua.
  • Định giá dựa vào cạnh tranh: Phương pháp này ít chú ý vào chi phí hay nhu cầu của thị trường mà dựa hoàn toàn vào giá của đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể định giá bằng, cao hơn hoặc thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh. Theo Philip Kotler, khi định giá, doanh nghiệp phải cân nhắc mức giá của đối thủ cạnh tranh, bất kể mức giá cao, thấp hay trung bình thì doanh nghiệp chắc chắn rằng mình đang đem lại cho người tiêu dùng giá trị vượt trội tại mức giá đó. Phương pháp định giá này rất phổ biến, nhất là đối với những thị trường khó đo lường độ co giãn về giá.

Các hoạt động về giá

Thực chất của hoạt động giá là việc xác định mục tiêu và định hướng cho mức giá bán sản phẩm trong dài hạn của doanh nghiệp. Các hoạt động về giá có thể được xây dựng dựa trên cơ sở các chiến lược giá như sau:

Chính sách định giá cho sản phẩm mới

Doanh nghiệp phải xem xét nên áp dụng chính sách giá nào khi đưa một sản phẩm mới ra thị trường. Những chính sách phổ biến gồm:

Giá hớt váng:

Doanh nghiệp đặt ra giá bán ban đầu tương đối cao so cho những sản phẩm mới để khai thác nhu cầu của một nhóm khách hàng có sức mua cao nhằm nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận ngay. Sau khi khai thác hết nhóm khách hàng này, doanh nghiệp giảm dần giá xuống để khai thác những nhóm khách hàng có sức mua thấp hơn. Chính sách này được sử dụng với điều kiện:

  • Doanh nghiệp có vị trí độc quyền tạm thời và trong trường hợp nhu cầu của sản phẩm không có sự co giãn theo giá.
  • Nhóm khách hàng có sức mua cao đủ lớn.
  • Phí tổn trên mỗi đơn vị sản phẩm khi sản xuất với khối lượng nhỏ không quá cao.
  • Doanh nghiệp đã có uy tín hình ảnh chất lượng cao trên thị trường.
  • Các đối thủ cạnh tranh khó khăn khi trong việc gia nhập thị trường.
  • Giá cao gây ra ấn tượng về hình ảnh một sản phẩm hảo hạng.

Giá thâm nhập:

Doanh nghiệp định giá bán ban đầu tương đối thấp cho sản phẩm mới để khuyến khích người mua nhằm nhanh chóng mở rộng thị trường, tăng khối lượng tiêu thụ. Mục tiêu là sau một thời gian doanh nghiệp sẽ chiếm được thị phần lớn và có thể dẫn đầu thị trường. Chính sách này phù hợp khi:

  • Thị trường nhạy cảm với giá cả, giá thấp có thể giúp nhanh chóng mở rộng thị trường.
  • Sản phẩm có chu kỳ sống dài
  • Chi phí sản xuất tỷ lệ nghịch với quy mô.
  • Mức giá và lợi nhuận thấp sẽ không kích thích sự gia nhập của đối thủ cạnh tranh thực tế và tiềm tàng.
  • Định giá cho tập hợp sản phẩm

Định giá cho dòng sản phẩm:

Các doanh nghiệp thường sản xuất nhiều sản phẩm đa dạng hơn là một sản phẩm riêng biệt. Trong một dòng sản phẩm, khách hàng sẽ chọn mua sản phẩm tiên tiến hơn nếu không chênh lệch giá. Do đó, doanh nghiệp phải xem xét việc định các bậc giá cho các sản phẩm khác nhau trong một dòng sản phẩm.

Định giá sản phẩm tùy chọn:

Nhiều doanh nghiệp cung cấp những sản phẩm với những đặc tính tự chọn. Doanh nghiệp phải xác định bộ phận nào là phần tự chọn và quyết định giá cho phần đó. Doanh nghiệp định giá cho sản phẩm tiêu chuẩn với những tính năng cơ bản, sau đó định giá cho các phụ kiện của sản phẩm theo tùy chọn của khách hàng, thông thường doanh nghiệp định giá cao hơn cho những sản phẩm có phụ kiện độc đáo.

Định giá sản phẩm bổ sung:

Các doanh nghiệp trong những ngành sản xuất các sản phẩm phải được dùng với sản phẩm chính yếu khác. Sản phẩm chính thường được định giá thấp và sản phẩm bổ sung được định giá cao. (Ví dụ lưỡi dao lam dùng với lưỡi dao cạo râu Gillette). Các nhà sản xuất thường định giá thấp sản phẩm chính và dồn mức lời cao cho những sản phẩm bổ sung.

Định giá sản phẩm trọn gói:

Doanh nghiệp sẽ định giá cho tập hợp các sản phẩm đồng bộ và bổ sung cho nhau với mức giá thấp hơn so với mức giá của từng sản phẩm riêng lẻ nhằm kích thích người tiêu dùng mua nhiều loại sản phẩm.

Điều chỉnh giá

Tùy theo tình hình kinh doanh và biến động của thị trường, doanh nghiệp có thể điều chỉnh giá để hỗ trợ việc kinh doanh.

Định giá chiết khấu và các khoản giảm giá: thông thường doanh nghiệp sẽ giảm giá để khi khách hàng thanh toán sớm hóa đơn, mua hàng với khối lượng lớn, hoặc trong trường hợp doanh nghiệp muốn giảm lượng hàng tồn kho,… Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Các hình thức định giá chiết khấu và giảm giá:

  • Chiết khấu tiền mặt: hình thức giảm giá cho những khách hàng mua hàng thanh toán sớm nhằm mục đích cải thiện tài chính cho người bán và giảm chi phí thu nợ.
  • Chiết khấu số lượng: giảm giá cho những khách hàng mua với số lượng lớn, kích thích khách hàng mua nhiều nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
  • Chiết khấu chức năng: được sử dụng đối với các thành viên trong kênh phân phối nhằm động viên họ hoàn thành tốt công việc được giao.
  • Chiết khấu theo mùa: giảm giá cho khách hàng mua hàng hoá hay dịch vụ vào mùa thấp điểm, giúp doanh nghiệp duy trì sản xuất đều đặn suốt trong năm.
  • Khoản giảm giá thêm: là dạng khác của việc giảm giá từ giá bán lẻ, chẳng hạn giảm giá khi mua món hàng mới và trả lại món hàng cũ.
  • Định giá phân biệt: Nhiều doanh nghiệp thường thay đổi giá căn bản cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, với từng sản phẩm, khu vực tiêu thụ.

Doanh nghiệp bán một sản phẩm với nhiều mức giá khác nhau không dựa trên cơ sở chi phí khác nhau mà tùy thuộc vào đối tượng khách hàng (các nhóm khách hàng khác nhau sẽ phải trả những khoản tiền khác nhau cho cùng một sản phẩm hoặc dịch vụ); hình thức sản phẩm (các kiểu sản phẩm hay mặt hàng khác nhau được xác định các mức giá khác nhau nhưng không tỷ lệ với chi phí tương ứng của chúng); tùy vào khu vực ( mặc dù chi phí tạo ra ở mỗi khu vực đều giống nhau nhưng giá cả mỗi khu vực sẽ được xác định khác nhau) ; thời gian (giá cả được thay đổi tuỳ theo mùa, theo ngày, theo giờ) và hình ảnh sản phẩm (một sản phẩm có thể được định nhiều mức giá khác nhau).

Thay đổi giá cả

Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể phải giảm giá hoặc tăng giá để phù hợp với sự biến động của môi trường kinh doanh.

Chủ động giảm giá:

Trong những tình huống sau doanh nghiệp có thể phải giảm giá để ứng phó:

  • Công suất hoạt động của nhà máy còn dư thừa
  • Giảm giá để đối phó với những đối thủ cạnh
  • Giảm giá do nhu cầu không cao, thị phần của doanh nghiệp bị suy giảm.
  • Giảm giá do muốn khống chế thị trường.
  • Chủ động tăng giá: Việc tăng giá có thể ảnh hưởng không tốt cho việc bán hàng nhưng việc tăng giá thành công có thể làm gia tăng lợi nhuận của doanh nghiệp một cách đáng kể. Việc tăng giá có thể xuất phát từ những yếu tố sau:
  • Chi phí đầu vào (chi phí nguyên vật liệu, nhân công…) có xu hướng tăng lâu dài và có tính toàn cầu.
  • Lượng cầu quá lớn doanh nghiệp không thể cung ứng được tất cả nhu cầu cho khách hàng của mình.

1.3.3. Hoạt động phân phối Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Khái niệm về phân phối

Phân phối là một quá trình chuyển đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, thể hiện qua nhiều phương thức và hoạt động khác nhau. Phân phối làm thay đổi sở hữu sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng thông qua các thành viên trung gian. Hệ thống phân phối chính là tài sản của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo việc cung cấp các sản phẩm của công ty đến khách hàng một cách nhanh nhất, ổn định nhất và hiệu quả nhất. Hay nói một cách khác, “bản chất” của phân phối là “nghệ thuật” đưa sản phẩm ra thị trường.

Các hoạt động phân phối

Phân phối rộng rãi (phân phối đại trà):

Doanh nghiệp bán sản phẩm qua nhiều trung gian thương mại ở mỗi cấp độ phân phối. Trong trường hợp này doanh nghiệp cố gắng đưa sản phẩm và dịch vụ của mình tới càng nhiều người bán lẻ càng tốt. Các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và các loại nguyên vật liệu thường dùng cách phân phối này.

Phân phối độc quyền

Doanh nghiệp chỉ bán sản phẩm của mình qua một trung gian duy nhất trên một khu vực thị trường nhất định, cùng với quy định trung gian này không được bán sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Với cách phân phối này, doanh nghiệp sản xuất dễ dàng kiểm soát chính sách của người trung gian về việc định giá bán, tín dụng, quảng cáo và các dịch vụ khác, đề cao hình ảnh của sản phẩm và mang lại cho doanh nghiệp nhiều thành công hơn.

Phân phối chọn lọc

Doanh nghiệp bán sản phẩm qua một số trung gian thương mại được chọn lọc theo những tiêu chuẩn nhất định ở mỗi cấp độ phân phối mà không cần phân tán lực lượng ra nhiều điểm bán, nhằm giành được thị phần cần thiết với sự kiểm soát chặt chẽ và tiết kiệm chi phí. Hình thức này thường áp dụng cho loại hàng hóa có giá trị cao, khách hàng thường suy nghĩ tính toán nhiều mới quyết định mua.

1.3.4. Hoạt động chiêu thị Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Khái niệm về chiêu thị

Chiêu thị là một thành phần của tiếp thị hỗn hợp ( Marketing Mix, Kotler 1994, 2009) bên cạnh ba thành phần sản phẩm, giá và bán hàng. Chiêu thị là hoạt động thực hiện chức năng thông tin của doanh nghiệp, giúp trao đổi thông tin giữa người bán và khách hàng tiềm năng hoặc những người khác trong hệ thống phân phối – tác động đến thái độ và hành vi ứng xử của khách hàng. Theo Nguyễn Văn Tâm và cộng sự (2017), hoạt động chiêu thị là công cụ cạnh tranh, giới thiệu về sản phẩm, thương hiệu, tạo sự thuận tiện cho phân phối, xây dựng hình ảnh tích cực cho doanh nghiệp. Cũng theo Kotler, chiêu thị gồm năm hình thức chính là quảng cáo, khuyến mại, bán hàng cá nhân, quan hệ công chúng và Marketing trực tiếp.

Quảng cáo:

Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, quảng cáo là sự truyền thông trực tiếp hàng hóa, dịch vụ hay tư tưởng mà người ta phải trả tiền để nhận biết người quảng cáo. Theo Philip Kotler (2013), quảng cáo là những hình thức truyền thông trực tiếp được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và xác định rõ nguồn kinh phí. Quảng cáo là thông điệp bán hàng qua các phương tiện truyền tin trả tiền.

Theo Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Thị Bích Nguyên (2017), quảng cáo là một trong những công cụ có tác động lớn đến giá trị thương hiệu. Đây là một phương tiện có khả năng phủ sóng rộng rãi, tạo sự nhận biết và xây dựng thương hiệu tốt, tạo cơ hội cho người nhận thông tin so sánh sự khác biệt với đối thủ cạnh tranh. Mục đích của quảng cáo là thu hút sự chú ý của khách hàng, thuyết phục họ về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm nhằm thay đổi hoặc củng cố thái độ và lòng tin tưởng của người tiêu dùng về sản phẩm của doanh nghiệp, tăng lòng ham muốn mua hàng của họ và đi đến hành động mua hàng.

Để lựa chọn hình thức quảng cáo phù hợp, doanh nghiệp cần chú ý các tham số phạm vi – Reach ( chỉ số lượng người xem, nghe, đọc quảng cáo trên một phương tiện trong thị trường mục tiêu); tần suất – Frequency (số lần quảng cáo xuất hiện trên một phương tiện); tác động – Influence (bộ phận quảng cáo cũng phải quyết định mức tác động mà quảng cáo phải có được mỗi khi đến với khách hàng).

Khuyến mãi (xúc tiến thương mại):

Là một công cụ khích lệ ngắn hạn nhằm khuyến khích người tiêu dùng mua một sản phẩm vật chất hay dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của hình thức truyền thông này là đẩy nhanh ý định mua của khách hàng trở thành hành động mua. Phản ứng đáp lại nhanh chóng và có thể đo lường được hiệu quả.

Cũng theo kết quả nghiên cứu của Theo Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Thị Bích Nguyên (2017), khuyến mãi cũng có tác động tích cực đến một số thành phần của giá trị thương hiệu như liên tưởng thương hiệu và trung thành với sản phẩm của doanh nghiệp, tạo ra cho khách hàng nhiều giá trị cộng thêm, vì vậy khách hàng sẽ trung thành với thương hiệu hơn nếu có những chương trình khuyến mãi hấp dẫn và thường xuyên. Tuy nhiên, cũng cần xem xét hình thức khuyến mãi cho phù hợp với thực tế kinh doanh, tránh sử dụng quá nhiều vì điều này có thể làm giảm giá trị của sản phẩm về lâu dài. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

Bán hàng cá nhân:

Là hình thức truyền thông trực tiếp giữa nhân viên bán hàng với khách hàng nhằm giới thiệu và thuyết phục sự quan tâm của khách hàng, là kênh thông tin hai chiều giao tiếp mặt đối mặt giữa nhân viên bán hàng với khách hàng tiềm năng để trình bày, giới thiệu và bán sản phẩm. Bán hàng cá nhân cho phép xử lý các phản hồi của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác bởi vì tác động của việc bán hàng có thể được quyết định từ phản hồi của khách hàng.

Quan hệ công chúng (PR):

Là chuyển tải thông điệp truyền thông đến cộng đồng khách hàng và công chúng, tác động tích cực lên quan điểm của họ nhằm đạt được sự hiểu biết thông qua các hoạt động truyền thông. Các hình thức quan hệ công chúng doanh nghiệp có thể lựa chọn: bài viết trên báo chí, các hội thảo, bài phát biểu trên các phương tiện truyền thông đại chúng, hoạt động từ thiện, quan hệ địa phương, vận động, tài trợ, tổ chức các sự kiện đặc biệt.

Bảng 1.1: Ưu và nhược điểm của các phương tiện quảng cáo chủ yếu

Marketing trực tiếp:

Là phương thức sử dụng các phương tiện truyền thông để các doanh nghiệp có thể giao tiếp trực tiếp với khách hàng mục tiêu nhằm tạo ra sự phản hồi hay giao dịch của khách hàng tại mọi địa điểm.

Hoạt động chiêu thị

Đối với doanh nghiệp, hoạt động chiêu thị chịu ảnh hưởng của từng giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm. Hoạt động chiêu thị được xây dựng tùy theo tình hình sản phẩm trên thị trường và mục tiêu định vị sản phẩm.

  • Giai đoạn giới thiệu sản phẩm: Khách hàng chưa nhận thức về đặc điểm sản phẩm và cũng chưa hiểu rõ lợi ích của sản phẩm đối với họ. Hoạt động chiêu thị giai đoạn này nhằm thông tin và hướng dẫn khách hàng tiềm năng về sự hiện diện của sản phẩm trên thị trường, cách sử dụng và những lợi ích mà sản phẩm đem lại cho khách hàng.
  • Giai đoạn phát triển: Khách hàng đã và đang nhận biết lợi ích của sản phẩm. Sản phẩm bán chạy và có nhiều trung gian muốn phân phối chúng. Hoạt động chiêu thị giai đoạn này nhằm kích thích nhu cầu về nhãn hiệu sản phẩm, chú trọng hoạt động quảng cáo và quan hệ công chúng, hạn chế hoạt động khuyến mãi.
  • Giai đoạn trưởng thành: Sự cạnh tranh trên thị trường mạnh hơn và doanh thu không còn tăng nhanh như giai đoạn trước. Hoạt động chiêu thị được dùng để thuyết phục nhiều hơn là để cung cấp thông tin, hoạt động khuyến mãi được chú trọng nhiều hơn là quảng cáo. Mục tiêu trong giai đoạn này là duy trì lợi nhuận.
  • Giai đoạn suy thoái: Doanh thu và lợi nhuận giảm sút, những sản phẩm mới tốt hơn đã xuất hiện trên thị trường. Hoạt động chiêu thị trong giai đoạn này được cắt giảm đáng kể, chủ yếu là duy trì khách hàng bằng sự nhắc nhở. Hoạt động khuyến mãi vẫn được sử dụng mạnh.

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, tác giả trình bày cơ sở lý luận về Marketing, đề cập đến các khái niệm Marketing và marketing Mix, mục tiêu và chức năng của Marketing trong doanh nghiệp; đặc biệt tác giả đã đi phân tích sâu vào các khái niệm phân khúc thị trường, thị trường mục tiêu và hoạt động Marketing đối với các thành phần trong hệ thống Marketing…Qua đó giúp hiểu rõ hơn về vai trò và cách lựa chọn, triển khai hiệu quả các hoạt động marketing trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Cơ sở lý luận được nêu ra ở Chương 1 sẽ hỗ trợ đánh giá thực tiễn hoạt động Marketing cho sản phẩm nhựa gia dụng của Công Ty Cổ phần Sản xuất Thương mại Nhựa Hiệp Thành trong Chương 2 trên cơ sở thu thập, phân tích các nguồn thông tin thứ cấp, sơ cấp về hoạt động marketing sản phẩm nhựa gia dụng của Công Ty. Đây là một kết quả quan trọng cần đạt được để tác giả có cái nhìn tổng quan về các mặt thành công và hạn chế của các hoạt động marketing mà Công ty đang áp dụng, từ đó làm cơ sở cho các giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing sản phẩm nhựa gia dụng tại Công ty được trình bày ở Chương 3. Luận văn: Hoạt động Marketing của Cty Nhựa Hiệp Thành

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:  

===>>> Luận văn: Tổng quan chung về Công ty Nhựa Hiệp Thành

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x