Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư
Để có TTCK hoạt động hiệu quả, đòi hỏi phải có khuôn khổ pháp luật thống nhất, đồng bộ với hệ thống văn bản pháp quy đầy đủ, rõ ràng, điều chỉnh các mặt hoạt động của TTCK và các chủ thể tham gia thị trường. Trong đó CTCK và NĐT là hai chủ thể giữ vai trò đặc biệt quan trọng quyết định sự ổn đinh, bền vững và phát triển của thị trường. Đây là hai chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau về lợi ích trong suốt quá trình tham gia thị trường. Quyền lợi của hai chủ thể này vừa thống nhất vừa có khả năng xung đột lẫn nhau. Vì vậy, việc pháp luật điều chỉnh hoạt động của hai chủ thể này phải được thực hiện trên những nguyên tắc nhất định:
Thứ nhất, đảm bảo tính kế thừa trong quá trình hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động động kinh doanh CTCK để bảo vệ lợi ích hợp pháp của NĐT
Hiện nay, hệ thống pháp luật về CK và TTCK nói chung, pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK và NĐT nói riêng đã đạt được những thành tựu và kết quả quan trọng góp phần tạo nên những bước phát triển vượt bậc của TTCK Việt Nam. Theo đó, hệ thống pháp luật về CK và TTCK đã tạo ra cơ sở pháp lý và môi trường minh bạch, an toàn để các chủ thể yên tâm tham gia thị trường từ đó khẳng định và làm tăng vai trò của TTCK tập trung – kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, góp phần cải thiện cơ cấu hệ thống tài chính, làm cho nền kinh tế bớt sự phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng; tạo cơ sở pháp lý làm tiền đề xây dựng hệ thống các tổ chức trung gian hoạt động trên thị trường CK (trong đó có CTCK), các tổ chức lưu ký CK và ngân hàng chỉ định thanh toán, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức này hoạt động kinh doanh, giao dịch CK. Mặt khác, hệ thống pháp luật về CK và TTCK đã duy trì và thể chế hóa nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT trong hầu hết các hoạt động kinh doanh của CTCK bằng việc thiết lập nên những nguyên tắc, yêu cầu, quy định mà các CTCK phải tuân thủ nhằm mục đích hạn chế, giảm bớt xung đột lợi ích giữa CTCK và NĐT. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Pháp luật đặt ra các điều kiện chặt chẽ khi CTCK khi nộp hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, trong đó có các điều kiện về số vốn pháp định, về điều kiện đối với người lãnh đạo, quản lý, điều hành, người hành nghề kinh doanh, về điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật, về quy trình giao dịch, kiểm soát nội bộ. Bên cạnh đó, trong suốt quá trình hoạt động CTCK phải tuân thủ các quy định liên quan đến việc ký kết hợp đồng cung cấp dịch vụ cho khách hàng; tách bạch tài khoản tự doanh của CTCK với tài khoản giao dịch của khách hàng; ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh của mình; nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kinh doanh CK tại công ty hoặc trích lập quỹ bảo vẹ NĐT để bồi thường thiệt hại cho NĐT do sự cố kỹ thuật và sơ suất của nhân viên công ty; công bố thông tin trong trường hợp CTCK là một bên đối tác của khách hàng. Ngoài ra, pháp luật giành riêng một Nghị định để để hướng dẫn giải quyết quyền lợi của NĐT khi CTCK lâm vào tình trạng phá sản. Tất cả những quy định này đã góp phần nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của CTCK, qua đó tạo tâm lý yên tâm cho các NĐT tích cực tham gia TTCK. Vì vậy, trong quá trình hoàn thiện các quy định điều chỉnh quá trình thành lập, tổ chức, hoạt động của CTCK, các nhà làm luật cần tiếp tục ghi nhận, kế thừa những kết quả tích cực mà hệ thống pháp luật về CK và TTCK đã đạt được, từ đó tiếp tục phát huy và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để CTCK phát triển nhưng vẫn phải duy trì và đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi để các CTCK hoạt động ổn định, hiệu quả nhưng vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT CTCK là một thiết chế trung gian không thể thiếu trên thị trường CK, với vai trò cầu nối bắt buộc giữa các NĐT khi tham gia thị trường CK tập trung, CTCK tham gia thị trường với tư cách là một chủ thể kinhh doanh, cung cấp dịch vụ CK cho khách hàng. Vì vậy cũng giống như tất cả các chủ thể kinh doanh khác, các quyền của họ phải được pháp luật ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ. Mặc dù trong mối quan hệ với NĐT, CTCK có những ưu thế nhất định và thậm chí có khả năng xung đột lợi ích song không phải vì thế mà pháp luật lại được quyền thiết lập những quy định được áp đặt, cấm đoán ảnh hưởng đến các quyền cơ bản của CTCK. Chẳng hạn, để hạn chế tình trạng CTCK thành lập tràn lan, Nhà nước có thể thiết lập và ban hành quy định về điều kiện thành lập CTCK theo hướng chặt chẽ và khắt khe hơn đối với năng lực của các chủ thể xin cấp phép, nhưng nếu các chủ thể này đáp ứng được tất cả các điều kiện của pháp luật thì các cơ quan quản lý vẫn phải cho phép họ được tổ chức thành lập và hoạt động. Sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước không phải là can thiệp duy ý chí mà phải tôn trọng các quy luật khách quan, bảo đảm sự dân chủ, tạo điều kiện cho CTCK tự do, tự chủ trong hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, quản lý TTCK nói chung, quản lý, giám sát mối quan hệ pháp lý giữa CTCK và NĐT nói riêng là tạo ra sự minh bạch, công khai thông tin và kỷ luật thị trường nghiêm ngặt, đồng thời phải tuyên truyền, giáo dục các chủ thể tham gia thị trường những kiến thức tối thiểu về đầu tư CK. Cần hạn chế tối đa những can thiệp hành chính. Trường hợp bắt buộc phải can thiệp hành chính thì phải công bố một cách công khai, có lộ trình hoặc phải có các giải pháp khắc phục hậu quả của chính sách. Trong thời gian vừa qua, vai trò của Nhà nước trong việc quản lý thị trường nói chung và bảo vệ quyền lợi của NĐT trên TTCK nói riêng đã được thể hiện thông qua các hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, thanh tra và xử lý vi phạm trong hoạt động CK và TTCK (trong đó có hoạt động của CTCK) và đặc biệt cơ quan quản lý đã đưa ra những quyết định hành chính nhằm điều chỉnh thị trường như: điều chỉnh biên độ dao động giá cổ phiếu trên các sàn giao dịch nhằm ngăn chặn sự sụt giảm giá liên tục của CK hay chỉ đạo Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước thực hiện việc mua vào một số cổ phiếu tốt nhằm bình ổn thị trường, chỉ đạo các tổ chức tín dụng trong việc kéo dài thời hạn giải chấp cầm cố CK, kêu gọi các CTCK không bán ra. Đây là những biện hành chính tác động đến thị trường không phản ánh đúng các quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Do vậy, thời điểm áp dụng, đối tượng áp dụng cần phải được cơ quan quản lý nghiên cứu kỹ lưỡng để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực đến quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường.
Bảo vệ quyền lợi của NĐT là mục tiêu xuyên suốt toàn bộ hoạt động CK và TTCK, tuy nhiên ngay trong bản thân các quy định nhằm ghi nhận và bảo vệ quyền lợi của NĐT, pháp luật cũng nên tác động theo hướng tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan, có tính đến yếu tố công bằng và cân bằng về lợi ích giữa các chủ thể trong mối quan hệ với NĐT. NĐT được tự do tham gia thị trường, được tự do ý chí trong việc ra quyết định đầu tư nhưng họ cũng phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của thị trường và phải tự chịu trách nhiệm về những rủi ro và trách nhiệm pháp lý phát sinh từ hoạt động đầu tư của mình. NĐT phải là người phải biết tự nhận thức về quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình đồng thời phải luôn luôn có ý thức trong việc tự bảo vệ, đấu tranh với các hành vi vi phạm chứ không chỉ trông chờ vào việc “bảo trợ” của Nhà nước.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận Văn Thạc Sĩ Luật Học
3.2. Giải pháp hoàn thiện cụ thể
Phát triển các tổ chức trung gian như CTCK là một trong những mục tiêu của Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 ban hành kèm theo Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 02/08/2007. Bên cạnh đó, Đề án cũng xác định mục tiêu tổng quát của việc phát triển thị trường vốn ở nước ta là “Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó TTCK đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phấn đấu đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các nước trong khu vực”. Để thực hiện tốt cả hai mục tiêu trên, cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp sau:
3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh của Công ty chứng khoán Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
3.2.1.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động môi giới CK
Thứ nhất, hoàn thiện quy định của pháp luật đảm bảo quyền tham gia thị trường của NĐT
Quyền được tham gia thị trường là một trong những quyền cơ bản, quan trọng của NĐT. Tuy nhiên, trên TTCK tập trung, quyền tham gia thị trường của NĐT bị chi phối và quy định bởi nguyên tắc trung gian. Nghĩa là, mọi giao dịch của NĐT phải thực hiện thông qua một CTCK. Vì vậy, pháp luật cần tạo ra các cơ chế và quy định cụ thể nhằm tạo điều kiện thuận lợi để NĐT thực hiện tốt quyền này mà không vi phạm nguyên tắc trung gian trên TTCK.
Theo quy định hiện hành, để có thể tham gia giao dịch, NĐT bắt buộc phải mở một tài khoản CK tại một CTCK. Quy định hạn chế số lượng tài khoản được phép mở để giao dịch CK là không khả thi, không phù hợp với nhu cầu thực tiễn trong quá trình đầu tư của NĐT. Trên thực tế, một NĐT có thể mở nhiều tài khoản cùng một lúc tại nhiều CTCK khác nhau hoặc có thể mở nhiều tài khoản tại một CTCK nhưng chủ thể ký kết hợp đồng mở tài khoản là người khác (người sẽ ủy quyền cho NĐT giao dịch). Xuất phát từ thực tế này mà Luật CK nên sửa đổi theo hướng cho phép NĐT tự do lựa chọn quyết định CTCK và số lượng tài khoản giao dịch CK. Quy định này một mặt vẫn đảm bảo tuân thủ nguyên tắc trung gian trên thị trường đồng thời sẽ tạo điều kiện tốt nhất để NĐT có cơ hội lựa chọn và tận dụng tối đa thế mạnh và những ưu đãi do các nhà trung gian môi giới mang lại trong quá trình các chủ thể này cung cấp dịch vụ. Các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK bước đầu đã nhận thức được bất cập này thể hiện ở việc trong dự thảo phương án sửa đổi, bổ sung Luật CK năm 2006 mà UBCKNN đang trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa đổi đã xóa bỏ quy định hạn chế số lượng tài khoản mà một NĐT được phép mở tại một CTCK.
Khi tham gia thị trường, các NĐT phải được đối xử như nhau, không phân biệt NĐT tổ chức hay NĐT cá nhân, NĐT có quy mô vốn đầu tư lớn hay nhỏ. Để đảm bảo quyền tự do tham gia thị trường của NĐT, pháp luật cần có những quy định nhằm khắc phục tình trạng phân biệt đối xử giữa các NĐT trong quá trình cung cấp dịch vụ môi giới của các CTCK bằng việc các cơ quan quản lý cần tăng cường các biện pháp thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và có chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi của CTCK gây cản trở hoặc hạn chế quyền tham gia gia thị trường của NĐT. Ngoài ra, trong quá trình xem xét, chấp thuận hồ sơ xin phép thành lập các CTCK, UBCKNN cũng cần xem xét, thẩm định chặt chẽ các điều kiện về cơ sở vật chất, công nghệ, nhân sự của CTCK nhằm đảm bảo các CTCK có đủ khả năng cung ứng dịch vụ cho khách hàng đặc biệt là vào những thời điểm thị trường phát triển mạnh với sự tham gia đông đảo của các NĐT.
Thứ hai, hoàn thiện quy định của pháp luật để đảm bảo quyền của khách hàng được CTCK cung cấp thông tin
Để cung cấp dịch vụ môi giới CK, pháp luật yêu cầu CTCK phải ký hợp đồng mở tài khoản giao dịch CK với khách hàng. Theo đó, các nội dung trong hợp đồng do các bên tự do thỏa thuận nhưng các thỏa thuận này phải đảm bảo nguyên tắc không được tạo ra những điều khoản bất lợi cho khách hàng và không tạo ra những quy định nhằm trốn trách trách nhiệm của CTCK. Bên cạnh đó, để đảm bảo nguyên tắc khách quan trong quá trình cung cấp dịch vụ môi giới CK, pháp luật yêu cầu CTCK phải công bố với khách hàng khi mình là một bên tham gia giao dịch. Đây là nghĩa vụ công bố thông tin bắt buộc đối với tất cả các CTCK trước khi ký kết hợp đồng mở tài khoản với khách hàng. Mặt khác, CTCK là bên biết rõ danh mục tài khoản của NĐT nhưng NĐT lại không có quyền biết danh mục tài khoản tự doanh của CTCK. Do pháp luật chưa ghi nhận quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin về danh mục tài khoản tự doanh như một nghĩa vụ bắt buộc đối với CTCK trong hợp đồng mở tài khoản với khách hàng nên rất khó để khách hàng có căn cứ yêu cầu CTCK cung cấp thông tin về tài khoản tự doanh. Vì vậy, để đảm bảo tính công bằng, bảo vệ quyền lợi của NĐT, khi kiến nghị Bộ tài chính sửa đổi, bổ sung Quyết định 27/2007/NĐ-CP về ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK, UBCKNN cần bổ sung quy định về nghĩa vụ công bố thông tin liên quan đến danh mục tài khoản tự doanh của CTCK là một nghĩa vụ bắt buộc và phải ghi nhận trong hợp đồng mở tài khoản với khách hàng.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về quản lý tách bạch tài khoản của khách hàng Quản lý tách bạch tài khoản của khách hàng với tài khoản tự doanh của CTCK là yêu cầu bắt buộc, có ý nghĩa thiết thực trong việc đảm bảo tính minh bạch, an toàn trong quá trình CTCK thực hiện quản lý tài sản ủy thác của khách hàng. Theo đó, pháp luật CK yêu cầu tất cả các CTCK phải thực hiện việc kết nối với một ngân hàng thương mại để ngân hàng thương mại này đứng ra mở tài khoản tiền gửi giao dịch CK cho khách hàng của CTCK. Để đạt được hiệu quả tối ưu nhất, CTCK và ngân hàng phải thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi đến từng tài khoản của NĐT chứ không chỉ dừng lại ở việc mở một tài khoản tổng của tất cả các khách hàng và tài khoản này tách biệt với tài khoản của CTCK. Luật CK quy định quản lý tách bạch tài khoản của NĐT với tài khoản tự doanh là một nghĩa vụ bắt buộc đối với CTCK. Tuy nhiên, một số CTCK lớn vẫn còn “chần chừ” trong việc kết nối với ngân hàng, các CTCK này viện dẫn nhiều khó khăn như hệ thống hạ tầng kỹ thuật giữa CTCK và ngân hàng là chưa tương thích với nhau, thời gian kết nối kéo dài do số lượng tài khoản của khách hàng hiện hữu của công ty quá lớn, các rủi ro trong xảy ra sau khi kết nối… Có thể vì thực tế này mà UBCKNN đã “điều chỉnh” quy định của Luật CK theo hướng chỉ yêu cầu các CTCK phải mở một tài khoản tổng của tất cả các khách hàng chứ không nhất thiết phải mở tài khoản đến từng tài khoản. Cách làm này đã tạo ra sự không thống nhất giữa các CTCK với nhau trong quá trình thực hiện và vô hình chung, cơ quan quản lý về CK và TTCK đã tạo ra sự đối xử bất công bằng giữa các CTCK với nhau vì chi phí mà CTCK bỏ ra để quản lý tài khoản đến từng tài khoản của NĐT cao hơn rất nhiều so với trường hợp chỉ quản lý tài khoản tổng. Mặt khác, như đã phân tích ở chương 2, xét ở vị trí của NĐT thì quyền lợi và độ an toàn đối với tài sản của họ trong trường hợp được mở một tài khoản riêng tại ngân hàng rõ ràng tốt hơn so với trường hợp tài khoản của họ bị gộp chung vào cùng một tài khoản tổng. Thiết nghĩ, các cơ quan quản lý về CK và TTCK cần sớm có sửa đổi văn bản hướng dẫn quy định về quản lý tài khoản tiền gửi của khách hàng theo hướng yêu cầu các CTCK quản lý tách bạch đến từng tài khoản của khách hàng đúng với tinh thần của Luật CK. Thực hiện được điều này sẽ góp phần đảm bảo nguyên tắc pháp chế và tạo ra tính thống nhất trong quá trình thực thi pháp luật. Hơn nữa, nó cũng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT trong mối quan hệ với CTCK.
Thứ tư, hoàn thiện quy định về đăng ký, lưu ký, thanh toán và bù trừ CK Quy trình lưu ký CK đang được áp dụng hiện nay là quy trình lưu ký hai bước, theo đó, CK của NĐT được lưu ký tại CTCK nơi khách hàng mở tài khoản, sau đó, CTCK lưu ký CK tại trung tâm lưu ký. Tuy nhiên, vì CK của NĐT được hạch toán vào tài khoản của thành viên lưu ký (CTCK) mà không được hạch toán một cách độc lập đến tài khoản của từng NĐT nên rất dễ dẫn đến tình trạng CTCK hạch toán, sử dụng tài khoản CK của NĐT không minh bạch hoặc không đúng mục đích. Vì vậy, để đảm bảo tối ưu quyền lợi của NĐT, nhà nước cần nghiên cứu và từng bước thay đổi quy trình đăng ký, lưu ký CK theo hướng cho phép NĐT được mở một tài khoản lưu ký CK trực tiếp tại Trung tâm lưu ký CK thay vì phải lưu ký thông qua tài khoản lưu ký của CTCK như hiện nay.
Về chu kỳ thanh toán, bù trừ: Đối với một giao dịch điện tử thông thường (không phải giao dịch thỏa thuận) thì chu kỳ thanh toán hiện đang được áp dụng là T + 3. Với đặc điểm của một TTCK ngày một phát triển lớn mạnh như Việt Nam hiện nay thì dường như chu kỳ này đã tỏ ra không còn thực sự phù hợp khi nó không còn đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu giao dịch và yêu cầu về tính thanh khoản ngày càng cao của thị trường. Các cơ quan quan lý Nhà nước về CK và TTCK của Việt Nam cũng đã nắm bắt và nhận thức được yêu cầu về sự cần thiết phải thay đổi chu kỳ thanh toán. Tuy nhiên, các cơ quan này lý giải rằng: với thực tế hạ tầng kỹ thuật của Trung tâm lưu ký CK như hiện nay rất khó để thực hiện thanh toán bù trừ giao dịch với thời gian ngắn hơn. Vì vậy, nên hoàn thiện các quy định pháp lý về chu kỳ thanh toán theo hướng từng bước rút ngắn thời gian thanh toán song song, tương ứng với quá trình đổi mới, nâng cấp hệ thống kỹ thuật phục vụ hoạt động lưu ký với mục tiêu ban đầu có thể là rút ngắn chu kỳ thanh toán xuống còn T + 2 sau đó là T + 1. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ năm, hoàn thiện các quy định về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với người hành nghề CK.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT, Luật CK đã quy định CTCK có nghĩa vụ phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh CK tại CTCK. Quy định này là cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế và xu hướng phát triển của TTCK Việt Nam. Có thể coi loại hình bảo hiểm này là công cụ bảo vệ hữu hiệu cho các NĐT, các CTCK và toàn TTCK nói chung. Nghị định 36/2006/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK đã đưa ra chế tài xử phạt đối với hành vi của các CTCK không thực hiện nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh doanh của mình. Tuy nhiên, hầu như chưa có CTCK bị xử phạt về vi phạm quy định này. Thực tế này có nguyên nhân là Luật kinh doanh bảo hiểm hiện nay chưa có quy định cụ thể nào về loại hình bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp này với tính cách là một loại hình bảo hiểm bắt buộc. Chính phủ cũng chưa có nghị định hướng dẫn cụ thể về loại hình bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của tổ chức và người hành nghề kinh doanh CK. Vì chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ nên chưa có nhiều các tổ chức kinh doanh bảo hiểm mạnh dạn cung cấp, triển khai loại sản phẩm bảo hiểm này. Trên thị trường bảo hiểm hiện nay mới có một số công ty bảo hiểm triển khai loại hình bảo hiểm này. Trong đó, đối tượng được bảo hiểm và chi trả bảo hiểm hiện nay là các CTCK trong khi khách hàng lại là đối tượng phải gánh chịu các rủi ro (nếu có) xảy ra trong quá trình CTCK và nhân viên CTCK tác nghiệp. Vì vậy, pháp luật cần ghi nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với CTCK là một trong những loại hình kinh doanh chính mà các tổ chức kinh doanh bảo hiểm được phép triển khai, đồng thời, chính phủ cần sớm ban hành Nghị định hướng dẫn cụ thể loại hình bảo hiểm này trong đó xác định CTCK là chủ thể bắt buộc phải tham gia bảo hiểm như một loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc và người thụ hưởng là khách hàng của CTCK.
Thứ sáu, hoàn thiện quy định về giao dịch đối với các CK phái sinh
Các dịch vụ CK phái sinh như repo CK, bán khống CK, cho vay ứng trước CK, cho vay cầm cố CK… là những giao dịch đem lại nhiều tiện ích cho các NĐT, làm gia tăng tính thanh khoản và hấp dẫn của thị trường. Thông qua các giao dịch phái sinh này, đồng vốn của NĐT có điều kiện và cơ hội để luôn chuyển, tái đầu tư nhanh chóng qua đó góp phần nâng cao hiệu suất sử dụng vốn của NĐT. Tuy nhiên, bản thân các hoạt động này tiềm ẩn nhiều rủi ro. Về nguyên tắc, Luật CK năm 2006 đã bước đầu cho phép các CTCK được triển khai thực hiện nghiệp vụ bán khống. Tuy nhiên thời điểm và cách thức triển khai chưa có quy định hướng dẫn. Mặt khác, repo CK, cho vay ứng trước, cho vay cầm cố là những giao dịch liên quan trực tiếp đến nhiều bên như CTCK, Trung tâm lưu ký CK, Trung tâm giao dịch CK, ngân hàng và NĐT nhưng nội dung các quan hệ này chưa được chính thức điều chỉnh bởi một văn bản thống nhất giữa các bên. Vì vậy, liên quan đến các giao dịch CK phái sinh, cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn cụ thể chi tiết các giao dịch này để các bên có căn cứ pháp lý xác định quyền hạn và phân định rõ trách nhiệm của mình trong quá trình tham gia giao dịch qua đó hạn chế vướng mắc, rủi ro trong quá trình thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT.
Thứ bảy, để đảm bảo hoạt động an toàn cho CTCK, pháp luật cần tăng cường các biện pháp giám sát, kiểm tra phát hiện và xử lý nghiêm khắc tình trạng các CTCK cho khách hàng vay tiền, CK.
Cho vay ứng trước, cho vay cầm cố CK là nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Theo luật CK, CTCK không có chức năng cho vay, bất kể tài sản cho vay là tiền hay CK. Quy định này là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động của CTCK nói riêng, TTCK và quyền lợi của NĐT nói chung. UBCKNN cần tăng cường các biện pháp giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động của các CTCK ngăn ngừa tình trạng CTCK cho khách hàng vay tiền, CK vì điều này sẽ dễ dẫn đến khả năng CTCK lạm dụng tài khoản của khách hàng để cho vay hoặc sử dụng tài khoản tự doanh của mình để cho vay ảnh hưởng tiêu cực đến tỷ lệ vốn khả dụng của CTCK.
Thứ tám, hạn chế các rủi ro trong quá trình CTCK tiếp nhận và xử lý lệnh của khách hàng.
Luật CK và các văn bản pháp luật khác có liên quan như Luật giao dịch điển tử, Bộ luật tố tụng dân sự cho phép CTCK được phép nhận lệnh của khách hàng thông qua các phương tiện điện tử, viễn thông như internet, điện thoại. Bằng chứng ghi nhận các phương thức giao dịch này như bản ghi âm, dự liệu phần mềm lưu trữ kết quả giao dịchcó thể được coi là chứng cứ. Tuy nhiên, các bằng chứng này lại do chính CTCK ghi nhận, lưu giữ nên họ có thể hủy nó bất cứ lúc nào. Trong trường hợp có tranh chấp, khiếu nại với CTCK, NĐT không có khả năng chủ động cung cấp chứng cứ. Vì vậy, để hạn chế rủi ro xảy ra trong quá trình xử lý lệnh của khách hàng, UBCKNN cần phối hợp với các SGDCK yêu cầu tất cả các CTCK là thành viên giao dịch của Sở phải thực hiện việc lập, lưu giữ đầy đủ chứng từ giao dịch đối với các khách hàng đặt lệnh trực tiếp, đồng thời, CTCK phải đưa ra giải pháp xác nhận với các khách hàng đặt lệnh qua điện thoại, internet về tất cả các lệnh mà khách hàng đã đặt (gồm cả lệnh mua, bán, sửa, hủy và kể cả các lệnh đã khớp thành công hay chưa khớp. Tuân thủ chặt chẽ yêu cầu này sẽ giúp NĐT có căn cứ xác nhận chính xác thời điểm đặt lệnh, nội dung các lệnh đã đặt, hạn chế tối đa rủi ro trong quá trình yêu cầu CTCK thực hiện giao dịch.
3.2.1.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ nhất, yêu cầu các CTCK ký kết hợp đồng tư vấn với khách hàng khi cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư, trong đó, xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia hợp đồng. Trường hợp CTCK cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư cho một nhóm khách hàng hoặc toàn bộ khách hàng mở tài khoản tại CTCK mà không tư vấn riêng đến từng khách hàng thì CTCK bắt buộc phải quy định các điều khoản liên quan đến dịch vụ tư vấn đầu tư trong hợp đồng mở tài khoản môi giới giao dịch CK như điều khoản quy định trách nhiệm của CTCK trong việc tìm hiểu thông tin về khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, điều khoản xác định trách nhiệm đối với các báo cáo phân tích do CTCK xây dựng và công bố.
Thứ hai, nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng phân tích, khả năng nhận định thị trường của nhân viên môi giới CK.
Quy chế hành nghề kinh doanh CK hiện nay mới chỉ đề cập đến hai loại chứng chỉ hành nghề kinh doanh CK là chứng chỉ hành nghề môi giới CK và chứng chỉ hành nghề phân tích CK. Trong đó, chứng chỉ hành nghề mối giới CK được cấp chung cho nhân viên làm nghiệp vụ tại bộ phận môi giới và bộ phận tư vấn đầu tư CK. Tại các CTCK hiện nay, nhân viên môi giới thường đảm nhiệm luôn nhiệm vụ tư vấn đầu tư cho khách hàng. Điều này là cần thiết và thuận tiện cho cả CTCK và NĐT. Tuy nhiên, nhân viên môi giới tại CTCK cần phải được đào tạo sâu và kỹ hơn nữa các kiến thức liên quan đến kỹ năng phân tích, nhận định thị trường bên cạnh các kỹ năng, thao tác về kỹ thuật trong quá trình cung cấp dịch vụ cho khách hàng. Có thể hoàn thiện quy chế cấp chứng chỉ hành nghề theo hướng cấp chứng chỉ hành nghề đến từng nghiệp vụ kinh doanh của CTCK. Theo đó, sẽ có các loại chứng chỉ hành nghề sau: môi giới CK (tập trung đào tạo về quy trình giao dịch, quỳ trình lưu ký CK), chứng chỉ chỉ tư vấn đầu tư CK (tập trung đào tạo kiến thức, kỹ năng phân tích nhận định thị trường), chứng chỉ tự doanh (tập trung đào tạo kiến thức quản lý tài chính và đầu tư), chứng chỉ phân tích CK (tập trung đào tạo kỹ năng lập các báo cáo phân tích, kỹ năng phân tích, tổng hợp vi mô và vĩ mô…).
Thứ ba, trong tương lai, Nhà nước cần từng bước nghiên cứu tách biệt hoạt động tư vấn đầu tư với hoạt động môi giới và tự doanh CK. Theo đó, CTCK chỉ chuyên hoạt động tư vấn đầu tư CK thay vì được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh như hiện nay. Thực hiện vấn đề này sẽ góp phần nâng cao tính chuyên sâu, khách quan, minh bạch trong hoạt động tư vấn đầu tư CK góp phần bảo vệ lợi ích của khách hàng. Đây cũng là kinh nghiệm lập pháp của các nước có TTCK phát triển.
3.2.1.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động tự doanh Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm hạn chế xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng
So với khách hàng, CTCK là chủ thể có ưu thế hẳn về khả năng và điều kiện tiếp cận với thông tin về tình giao dịch của thị trường. Vì vậy, trong quá trình thực hiện đồng thời hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh CK, khi khách hàng đặt lệnh giới hạn, CTCK không được mua hoặc bán cùng loại CK đó cho chính mình ở mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá của khách hàng trước khi lệnh của khách hàng được thực hiện. Mặc dù quy định như vậy song thực tế quy trình giao dịch tại các CTCK hiện nay dường như đã bỏ qua nguyên tắc này. Mỗi khi nhận được quyêt định đầu tư của phòng đầu tư (hay phòng tự doanh), bộ phận môi giới gần như thực hiện ngay lập tức mà không cần phải kiểm tra, đối chiếu với danh sách lệnh của khách hàng (danh sách lệnh mua/bán chuẩn bị thực hiện) nên rất dễ dẫn đến tình trạng CTCK “chèn” lệnh của khách hàng. Vì vậy, để quy định này được triển khai áp dụng trên thực tế đòi hỏi các cơ quan quản lý, giám sát giao dịch (Phòng giám sát giao dịch của các SGDCK) phải nâng cao trách nhiệm trong quá trình giám sát giao dịch của các thành viên để phát hiện kịp thời và kiến nghị UBCKNN xử lý các giao dịch vi phạm nguyên tắc trên. Mặt khác, UBCKNN cũng cần kiểm tra, rà soát quy trình giao dịch môi giới, quy trình nghiệp vụ tự doanh theo hướng tách bạch và hạn chế xung đột lợi ích giữa hai hoạt động này. Theo đó, yêu cầu các CTCK khi hết giờ giao dịch phải thực hiện công bố công khai kết quả giao dịch của mình (thời gian, số lượng CK đã thực hiện) cho khách hàng biết khi CTCK cùng mua/bán một hoặc một số mã CK giống khách hàng.
Thứ hai, hoàn thiện quy định pháp luật theo hướng ghi nhận và nâng cao vai trò của CTCK là nhà trung gian bình ổn và tạo lập thị trường
Nguyên tắc trung gian bình ổn và tạo lập thị trường phải được ghi nhận thành một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của CTCK. Theo đó, pháp luật yêu cầu CTCK phải trích lập một tỷ lệ tối thiểu trên tổng số vốn tự doanh để thực hiện nghĩa vụ này. Điều này đồng nghĩa với việc CTCK phải có đủ năng lực về vốn, đặc biệt là nguồn vốn tự doanh để vừa đảm bảo có đủ khả năng đầu tư, kinh doanh vừa thực hiện được chức năng điều tiết, bình ổn thị trường. Vì vậy, luật CK cần phải sửa đổi theo hướng nâng mức vốn pháp định đối với hoạt động tự doanh lên trên 100 tỷ đồng (mức tăng cụ thể sẽ căn cứ vào tỷ lệ mà CTCK phải giành ra để trích lập quỹ điều tiết, bình ổn thị trường). Mặt khác, thời điểm, cách thức sử dụng quỹ này cũng cần phải được hướng dẫn cụ thể để có thể triển khai được trên thực tế.
3.2.1.4. Hoàn thiện quy định pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành
Hiện nay, Quyết định 27/2007QĐ-BTC về quy chế tổ chức và hoạt động của CTCK mới chỉ đề cập đến phương thức bảo lãnh cam kết chắc chắn thông qua việc quy định các điều kiện để CTCK được triển khai nghiệp vụ này. Điều này có dẫn đấn cách hiểu là CTCK được tự do thực hiện các phương thức bảo lãnh khác (các phương thức mà luật không quy định điều kiện CTCK phải đáp ứng để thực hiện)? Thiết nghĩ, để tạo ra cách hiểu thống nhất và để tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ và vững chắc để các CTCK có cơ sở thực hiện, Quyết định 27/2007QĐ-BTC nên bổ sung quy định theo hướng cho phép CTCK được thực hiện các phương thức bảo lãnh với cố gắng tối đa và bảo lãnh với hạn mức tối thiểu đồng thời thiết lập các điều kiện mà CTCK phải đáp ứng để được tiến hành (những điều kiện này sẽ thấp hơn so với các điều kiện đặt ra vơi phương thức bão lãnh với cam kết chắc chắn). Bổ sung này một mặt tạo điều kiện để CTCK linh hoạt hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, mặt khác, nó cũng góp phần giúp tổ chức phát hành và NĐT có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận và tham gia thị trường vốn.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
3.2.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán
Về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 131 Luật CK thì tranh chấp phát sinh trong hoạt động CK và TTCK tại Việt Nam có thể giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Luật CK năm 2006 trao quyền cho SGDCK, TTGDCK làm trung gian hòa giải theo yêu cầu của thành viên giao dịch khi phát sinh tranh chấp liên quan đến giao dịch CK. Tuy nhiên, tính dến thời điểm hiện tại chưa có quy định cụ thể nào của pháp luật điều chỉnh phương thức thương lượng, hòa giải với vai trò trung gian hòa giải là SGDCK, TTGDCK. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần ban hành các quy định cụ thể về thẩm quyền, nguyên tắc và thủ tục hòa giải đối với các tranh chấp về đầu tư CK để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các thành viên (CTCK) và NĐT khi tham gia thị trường. Bên cạnh đó, luật CK dường như chưa tính đến các trường hợp tranh chấp phát sinh giữa SGDCK với các thành viên và NĐT. Khi đó, nếu áp dụng phương thức hòa giải thì thẩm quyền đứng ra hòa giải sẽ thuộc về ai? Thiết nghĩ, pháp luật nên sửa đổi theo hướng quy định thẩm quyền hòa giải của UBCKNN đối với các tranh chấp phát sinh giữa SGDCK và các chủ thể khác nhằm đảm bảo tính khách quan và khả thi. Mặt khác, về chủ thể có quyền yêu cầu SGDCK đứng ra làm trung gian hòa giải. Pháp luật hiện nay mới chỉ trao quyền được yêu cầu hòa giải cho các CTCK là thành viên của SGDCK. Quy định này chưa tạo ra sự bình đẳng, chưa bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT với tư cách là một bên tranh chấp. Vì vậy, pháp luật CK cần phải được sửa đổi theo hướng cho phép NĐT cũng có quyền yêu cầu SGDCK làm trung gian hòa giải các tranh chấp giữa NĐT với các chủ thể tham gia thị trường.
Về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại pháp luật cũng cần có hướng dẫn cụ thể để khắc phục vướng mắc liên quan đến việc xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại. Nếu theo quy định của pháp lệnh trọng tài thương mại; Luật thương mại năm 2005 và Bộ luật Tố tụng dân sự thì tranh chấp các tranh chấp trong lĩnh đầu tư CK chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại khi tranh chấp đó phát sinh giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. Quy định này là không phù hợp vì NĐT tham gia đầu tư trên thị trường có thể là NĐT cá nhân, cũng có thể là NĐT tổ chức, do vậy, không nhất thiết NĐT phải đăng ký kinh doanh thì tranh chấp giữa họ với CTCK mới được giải quyết theo phương thức trọng tài. Pháp luật nên có quy định mở rộng thẩm quyền cho Trọng tài thương mại được giải quyết tất cả các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư CK khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài hợp pháp để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các NĐT khi tham gia thị trường. Điều này có nghĩa thiết thực đối với các tranh chấp có bản chất kinh tế như tranh chấp giữa NĐT với các chủ thể có liên quan trên TTCK.
Về phương thức giải quyết tranh chấp thông qua tòa án, vấn đề vướng mắc hiện nay liên quan đến việc xác định thẩm quyền của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về đầu tư CK. Nếu căn cứ theo quy định tại điểm e, khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự hiện nay thì rất dễ xảy ra tình trạng tòa án không thụ lý hoặc trả lại đơn khởi kiện vì cho rằng tòa án không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn (có thể là thông tư liên tịch giữa Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao) cụ thể về tranh chấp về đầu tư trên TTCK trong mối quan hệ với các “tranh chấp về mua, bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác” để giúp cơ quan tiến hành tố tụng, NĐT, CTCK và các chủ thể có liên quan nhận diện tranh chấp, xác định có quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó, văn bản hướng dẫn cũng cần phân định rõ thẩm quyền của tòa án nhân dân các cấp trong việc giải quyết các tranh chấp về đầu tư CK tạo thuận lợi cho NĐT trong quá trình tiến hành các thủ tục giải quyết tranh chấp.
3.2.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý các hành vi phi phạm trên thị trường chứng khoán Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ nhất, tăng cường mức xử phạt đối với các biện pháp xử lý mang tính hành chính, kinh tế
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật trên TTCK diễn ra phổ biến như hiện nay có nguyên nhân do chế tài xử phạt vi phạm hành chính áp dụng đối với các hành vi này còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi Nghị định và thông tư hướng dẫn xử phạt lý vi phạm hành chính nói chung, xử lý hành vi vi phạm của CTCK nói riêng theo hướng tăng mức xử phạt. Theo đó, đối với những hành vi vi phạm mà hậu quả của nó có khả năng tác động đến nhiều người, gây thiệt hại lớn, để tăng cường sức răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm thì mức xử phạt nên áp dụng bằng n số lần của thiệt hại xảy ra.
Thứ hai, tăng cường tính khả thi trong việc áp dụng các hành vi đã được Bộ luật hình sự tội phạm hóa
Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009 đã ghi nhận một số tội danh trong lĩnh vực CK và TTCK. Tuy nhiên, để các quy định của Bộ luật hình sự được triên khai trên thực tế đòi hỏi phải có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể của các cơ quan có liên quan (đó có thể là thông tư liên tịch giữa Bộ tài chính Bộ Công an) xác định mặt khách quan của hành vi được coi là tội phạm. Bởi vì việc thực hiện các hành vi thao túng giá CK, hành vi sử dụng thông tin nội bộ thường mang nhiều tính kỹ thuật và tính tổ chức nên rất khó xác định. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước về CK và TTCK (thanh tra UBCKNN) với các cơ quan Cảnh sát điều tra của Bộ Công An để việc xác minh hành vi vi phạm được tiến hành chính xác và đúng luật, qua đó, góp phần đảm bảo cho các hoạt động của thị trường diễn ra an toàn, hiệu quả; quyền lợi của NĐT được tôn trọng, bảo vệ.
3.2.2.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về phá sản Công ty chứng khoán Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Thứ nhất, xác định chính xác tư cách đại diện của NĐT khi tham gia vào tổ thanh lý, quản lý tài sản khi CTCK lâm vào tình trạng phá sản.
Theo Nghị định 114/2008/NĐ-CP, khi CTCK lâm vào tình trạng phá sản, nếu NĐT vẫn còn tiền và CK trong tài khoản thì họ đương nhiên trở thành chủ nợ của CTCK và họ có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố phá sản. NĐT cũng có quyền cử đại diện của mình tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản. Mặc dù nghị định 114 đã đưa ra tiêu chí xác định người đại diện của NĐT tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản là “tổ chức, cá nhân có số nợ lớn nhất trong số các chủ nợ” nhưng việc xác định ai là chủ nợ có số nợ lớn nhất lại là điều không dễ bởi vì bản thân giá trị tài sản nợ (CK) là loại tài sản có giá trị biến động hàng ngày. Vì vậy, nghị định 114 cần có hướng dẫn cụ thể hơn về căn cứ, tiêu chí xác định người có đủ tư cách đại diện cho NĐT tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản theo hướng ấn định một thời điểm cụ thể (chẳng hạn như thời điểm tòa án thụ lý giải quyết phá sản) để xác định NĐT nào có tài sản nợ lớn nhất. Bên cạnh đó, nghị định cũng cần xác định chủ thể có thẩm quyền đề xuất, xác nhận người có đủ tư cách làm đại diện cho các chủ nợ. Việc đề xuất có thể được thực hiện bởi các NĐT (sau khi được CTCK xác nhận về số dư tài khoản của NĐT có tài sản nợ lớn nhất) nhưng việc chấp thuận tư cách của chủ nợ phải do tòa án thực hiện. Ngoài ra, nghị định cũng cần xác định tiêu chí rõ ràng cho trường hợp thay thế người đại diện chủ nợ tham gia vào tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Thứ hai, sửa quy định về thẩm quyền can thiệp của UBCKNN trong quá trình chuyển giao quyền và nghĩa vụ của CTCK mất khả năng thanh toán sang CTCK mới.
Như đã phân tích, việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ từ CTCK đang lâm vào tình trạng phá sản sang CTCK mới là hoạt động cần thiết, nhằm đảm bảo quyền lợi của các NĐT. Tuy nhiên, bản thân việc chuyển giao này lại ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của CTCK chuyển giao, CTCK nhận chuyển giao và NĐT. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi quy định về thẩm quyền của UBCKNN trong việc xem xét, chấp thuận việc chuyển giao theo hướng UBCKNN cho phép CTCK được tự do thỏa thuận việc chuyển giao, trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được, UBCKNN sẽ chỉ định CTCK nhận chuyển giao. Quy định như vậy sẽ tạo điều kiện cho các CTCK linh hoạt hơn trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản, đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ chuyển giao và NĐT.
Thứ ba, sửa đổi, thống nhất các quy định về hoạt động của CTCK trước và sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản
Sửa đổi quy định về việc áp dụng các biện pháp áp dụng đối với CTCK trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản theo hướng đặt CTCK vào tình trạng cảnh báo nhưng vẫn cho phép CTCK được phép thực hiện các hoạt động kinh doanh một cách bình thường (chỉ trừ hoạt động tự doanh). Đồng thời, sửa quy định về việc áp dụng các biện pháp đối với CTCK sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản theo hướng chỉ nên đặt CTCK vào tình trạng bị giám sát bắt buộc đối với tất cả các hoạt; niêm phong tạm thời một phần hoặc toàn bộ tài khoản tự doanh; không cho phép CTCK được mở thêm tài khoản để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán. Trong giai đoạn này, CTCK có nghĩa vụ thỏa thuận, đàm phán với CTCK nhận chuyển giao nhưng sẽ không phong tỏa tài khoản tiền và CK của khách hàng mà nên cho phép NĐT được phép chuyển tài khoản sang CTCK khác trước thời điểm chuyển giao chính thức.
3.2.3. Biện pháp nâng cao nhận thức, kiến thức của nhà đầu tư khi tham gia thị trường chứng khoán Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Một trong những nguyên tắc cơ bản của TTCK là “bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NĐT”. Khi tham gia thị trường, NĐT có tự do lựa chọn hàng hóa, toàn quyền quyết định giá trị và thời hạn đầu tư tùy thuộc vào khả năng tài chính, mục tiêu và chiến lược đầu tư của mình. Những quyền năng này được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, bản thân mỗi NĐT đều phải tự chịu trách nhiệm về các quyết định đầu tư của mình vì bản thân hoạt động đầu tư CK luôn luôn tiềm ẩn yếu tố rủi ro. NĐT cũng cần phải biết tự bảo vệ mình trước nhữn nguy cơ bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Muốn vậy, NĐT phải có hiểu biết, kiến thức và kỹ năng nhất định về đầu tư để kiểm soát và xử lý thông tin về CK và TTCK. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước phải có trách nhiệm tạo ra cơ chế bảo đảm việc cung cấp thông tin đó được đầy đủ, chính xác và kịp thời. Đặc biêt, trong mối quan hệ với các tổ chức trung gian trên thị trường, pháp luật cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của các chủ thể này trong việc bảo đảm cung cấp dịch vụ cho khách hàng một cách trung thực, đầy đủ, kịp thời vì quyền lợi của khách hàng.
Để nâng cao năng lực tự bảo vệ của các NĐT, pháp luật cần tạo ra cơ chế thuận lợi cho các tổ chức tự quản của NĐT được thành lập và hoạt động hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay đã hình thành một số tổ chức tự quản của NĐT như Hiệp hội các nhà kinh doanh CK, Hiệp hội các NĐT tài chính, Câu lạc bộ các NĐT CK… Các tổ chức này đã khá tích cực vào việc quản lý, giám sát TTCK nói chung, hoạt động của CTCK nói riêng, góp phần đảm bảo tính ổn định và sự phát triển bền vững của thị trường, bảo vệ quyền lợi của NĐT. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong thời gian vừa qua các tổ chức này chưa phát huy được đầy đủ vai trò của mình trong việc quản lý, giám sát thị trường, hiệu quả hoạt động chưa cao, chưa thực sự là thiết chế hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi cho các NĐT, chưa có sự phối hợp tốt giữa các tổ chức tự quản và cơ quan quản lý Nhà nước trong việc quản lý, giám sát thị trường.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng cần phải chỉ đạo UBCKNN phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để nâng kiến thức, kỹ năng cho NĐT đồng thời tăng cường cảnh báo cho NĐT về các nguy cơ, rủi ro mà họ có thể gặp phải. Để triển khai việc này, Trung tâm Nghiên cứu Khoa học và đào tạo CK- Cơ quan nghiên cứu, đào tạo CK trực thuộc UBCKNN cần tăng cường các lớp đào tạo mà đối tượng được đào tạo là các NĐT chứ không chỉ đơn thuần là nhân viên các CTCK, công ty tài chính, công ty quản lý quỹ. Mặt khác, bản thân các NĐT cũng cần phải tự trau dồi, học hỏi, nghiên cứu để nâng cao kiến thức, kỹ năng và tâm lý trước và trong quá trình tham gia thị trường để có thể đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp không bị kéo theo xu hướng đầu tư “phong trào” hay “đám đông”.. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Ngoài ra, NĐT phải tự ý thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình để tự bảo vệ hoặc viện đến những biện pháp pháp lý phù hợp khi các chủ thể có liên quan có hành vi làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng, hợp pháp của mình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Để bảo vệ NĐT thì hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh của CTCK là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật cũng cần thực hiện trên cơ sở và những nguyên tắc nhất định. Theo đó, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật phải đảm bảo tính kế thừa các nội dung mà pháp luật hiện hành đã làm được. Bên cạnh đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT nhưng vẫn phải đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất cho các hoạt động kinh doanh của CTCK.
Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của NĐT là thực hiện đồng bộ các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện các quy định về hoạt động kinh doanh của CTCK và các quy định pháp luật có liên quan. Đồng thời, các cơ quan quản lý và hiệp hội NĐT CK cũng cần triển khai các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức của NĐT khi tham gia thị trường CK.
KẾT LUẬN
TTCK là một định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế và nguyên tắc riêng. Trên TTCK có nhiều chủ thể tham gia, trong đó CTCK và NĐT là những chủ thể quan trọng nhất, giữ vị trí trung tâm. Giữa hai chủ thể này có mối quan hệ biện chứng với nhau trong quá trình tham gia thị trường. Quyền lợi của CTCK và NĐT vừa thống nhất, vừa có xu hướng xung đột với nhau. Liên quan đến hai chủ thể này, pháp luật CK và TTCK ghi nhận đồng thời cả hai nguyên tắc: nguyên tắc trung gian trên TTCK và nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT. Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định về hoạt động kinh doanh của CTCK và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó chỉ ra những điểm hạn chế, bất cập của các quy định này trong việc bảo vệ quyền lợi của NĐT là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần xây dựng và phát triển TTCK ổn định, bền vững, thực sự trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh của CTCK được xem xét trong mối quan hệ với việc bảo vệ quyền lợi của NĐT, kết hợp sử dụng hài hòa các phương pháp nghiên cứu, nội dung của luận văn đã giải quyết được những vấn đề cơ bản mà mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra. Kết quả nghiên cứu cả trên phương tiện lý luận và thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của CTCK với mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCKđã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề sau:
TTCK nói chung và TTCKTT nói riêng là một bộ phân quan trọng của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. NĐT là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại và phát triển của TTCK. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT trong mối quan hệ với các chủ thể trên thị trường là vấn đề cốt yếu để đảm bảo cho TTCK hoạt động một cách có hiệu quả. Trong đó, cần đặc biệt quan tâm bảo vệ NĐT trong mối quan hệ với CTCK vì hoạt động đầu tư của NĐT trên TTCK tập trung bắt buộc phải thực hiện thông qua CTCK. CTCK là chủ thể có ưu thế hơn NĐT trong quá trình thực hiện giao dịch, chuyên môn, nhân lực và khả năng tài chính. Mặt khác, giữa CTCK và NĐT có khả năng xung đột với nhau về lợi ích.
Trên thế giới, ở mỗi quốc gia, do có sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, truyền thống văn hóa, lịch sử, truyền thống lập pháp nên pháp luật về TTCK nói chung và pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT trên TTCK tập trung nói riêng cũng có sự khác biệt. Có quốc gia ban hành Luật về bảo vệ NĐT CK riêng biệt (Mỹ là một ví dụ). Ở nhiều quốc gia, các quy định về bảo vệ NĐT được quy định trong Luật Chứng khoán và rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tuy nhiên, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của NĐT luôn là vấn đề được pháp luật của tất cả các nước chú trọng, xác định là mục tiêu của việc ban hành Luật Chứng khoán và là nguyên tắc cơ bản của hoạt động CK và TTCK. Luật CK Việt Nam ghi nhận và bảo đảm quyền lợi của NĐT thông qua việc quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể khác, trong đó có CTCK.
Hệ thống pháp luật về CK và TTCK Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý và tạo điều kiện cho CTCK hoạt động kinh doanh, giao dịch CK. Đông thời, pháp luật CK đã thiết lập các nguyên tắc và nghĩa của CTCK trong quá trình hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi của NĐT như: nghĩa vụ bảo vệ tài sản của khách hàng, thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế xung đột lợi ích với khách hàng, xây dựng và áp dụng các quy trình kỹ thuật, quy trình quản trị nội bộ, quản lý rủi ro qua đó hạn chế rủi ro cho khách hàng, ưu tiên khách hàng trước CTCK, tìm hiểu thông tin về khả năng tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro của khách hàng. Các quy định này đã góp phần hạn chế rủi ro cho các NĐT khi tham gia thị trường và đặc biệt là trong mối quan hệ với CTCK. Do đó đã thu hút được các NĐT trong đó có các NĐT nước ngoài tham gia thị trường; góp phần tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh và minh bạch cho các CTCK hoạt động, qua đó, góp phần bảo vệ NĐT; tạo hành lang pháp lý để cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện chức năng quản lý, giám sát TTCK.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, pháp luật về CK và TTCK điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK vẫn còn một số điểm hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NĐT như: các quy định về việc mở tài khoản của khách hàng; quản lý tách bạch tài khoản của CTCK với tài khoản của từng khách hàng; nghĩa vụ tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của các CTCK; về chu kỳ, phương thức thanh toán bù trừ CK; quy định liên quan đến việc giao dịch các loại CK phái sinh; về chất lượng, trách nhiệm của hoạt động tư vấn đầu tư CK; về các phương thức bảo lãnh phát hành; vai trò của CTCK trong quá trình thực hiện tự doanh CK; về xử lý hành vi vi phạm của CTCK; về giải quyết quyền lợi của khách hàng khi CTCK phá sản.
Việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động kinh doanh của CTCK để bảo vệ quyền lợi của NĐT trên TTCK là một nhu cầu tất yếu. Để hoàn thiện pháp luật, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Hoàn thiện các quy định về hoạt động kinh doanh của CTCK
Luận văn khẳng định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT cần thiết phải thực hiện sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt động kinh doanh của CTCK. Luận văn đã nêu và phân tích các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật CK và các văn bản pháp luật có liên quan để đạt được mục tiêu bảo vệ quyền lợi của NĐT trong mối quan hệ với CTCK.
Nâng cao năng lực tự bảo vệ NĐT của chủ thể bao gồm: nâng cao năng lực quản lý TTCK của các cơ quan quản lý Nhà nước; nâng cao năng lực của các tổ chức tự quản; nâng cao năng lực tự bảo vệ của các NĐT. Luận văn: Giải pháp hoàn thiện HĐKD của Cty chứng khoán
XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY
===>>> Luận văn: Pháp luật Việt Nam về HĐKD của Cty chứng khoán