Chia sẻ chuyên mục Đề tài Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Giải pháp cải thiện định hướng marketing tại Công ty TNHH XNK Hoàng Đăng Food giai đoạn 2018- 2020 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một quốc gia có dân số khoảng 93 triệu dân với hơn nửa dân số ở độ tuổi dưới 30 được xem là điều kiện thuận lợi giúp cho Việt Nam trở thành một trong những thị trường tiềm năng tiêu thụ thực phẩm hàng đầu khu vực. Theo báo cáo của Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor, Việt Nam là thị trường đứng thứ ba về hoạt động kinh doanh dịch vụ thực phẩm tại khu vực ASEAN. Lượng tiêu thụ thực phẩm hàng năm của Việt Nam ước tính chiếm khoảng 15% GDP cả nước và trong 9 tháng đầu năm 2017 đã tăng 11,9% so với cùng kì năm 2016 theo số liệu của Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương). Với việc Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do cũng tạo điều kiện cho các công ty tham gia đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp thực phẩm. Theo đó, công ty sẽ được hưởng ưu đãi về thuế và tự do thương mại tại 50 quốc gia trên thế giới, nhất là các nước trong khối G20. Bên cạnh những cơ hội thuận lợi thì công ty trong nước phải cạnh tranh trực tiếp với những công ty ngoại như tập đoàn CJ Cheil Jang, F&N, Deasang Corp,…Một số tập đoàn thực phẩm của Nhật, Thái Lan liên tục rót vốn vào Việt Nam thông qua việc góp vốn, mua lại cổ phần của các công ty nội uy tín như Cholimex Food, Sài Gòn Food, Kinh Đô…Điều này gây ra áp lực rất lớn đối với trong ngành thực phẩm Việt Nam bởi đa số công ty Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ thị phần thấp, đội ngũ bán hàng chưa chuyên nghiệp vì thế trước những đòi hỏi về sự tồn tại để phát triển và có thể cạnh tranh với các công ty ngoại thì công ty cần tự thay đổi mình không chỉ về thị phần, doanh số, lợi nhuận… mà còn phải chú trọng nhiều hơn đến khâu chăm sóc khách hàng điều mà đa số công ty Việt Nam ít quan tâm. Bên cạnh đó cạnh tranh để phát triển cũng đòi hỏi công ty phải có đội ngũ nhân viên giỏi chuyên môn cao, trung thành, cam kết gắn bó với công ty. Làm sao để đánh giá một doanh nghiệp đang làm tốt khía cạnh nào và chưa tốt ở khía cạnh nào là một thách thức không nhỏ đối với mỗi công ty nhất là khi các khía cạnh này phản ánh hiệu quả hoạt động của công ty về cả mặt tài chính và phi tài chính. Về mặt tài chính hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty thể hiện qua 7 yếu tố: lợi nhuận, doanh số, thị phần, ROA, ROS, ROI, hiệu suất tổng thể. Về mặt phi tài chính hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty thể hiện qua 2 yếu tố: sự hài lòng của khách hàng và cam kết của nhân viên (Kohli và Jaworski ,1993). Kohli và Jaworski (1993) đã chứng minh rằng định hướng Marketing thể hiện qua sự hài lòng của khách hàng, lòng trung thành của nhân viên và hiệu quả tài chính của công ty. Waris (2005) đã đưa ra mối quan hệ tỷ lệ giữa cam kết của nhân viên với định hướng Markerting và giải thích rằng lòng trung thành của họ đóng vai trò khuyến khích nhân viên nhận thức được nhu cầu của khách hàng, hành động của đối thủ cạnh tranh. Hầu hết các kết quả đều cho thấy mối quan hệ tích cực giữa định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh (Deshpande và Farley, 1998, Matsuno et al, 200; Slater và Narver, 2000). Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty phản ánh công ty có định hướng Marketing tốt (Simona Salyova,Janka Taborecka và cộng sự, 2015). Vấn đề mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để có được một định hướng Marketing tốt? Đặc biệt đối với các công ty vừa và nhỏ vốn không coi trọng điều này hay có thể nói là kém trong đó có công ty Hoàng Đăng Food. Theo Kohli và Jaworski (1990) thì một định hướng Marketing được xác định từ quan điểm hành vi là thu thập thông tin khách hàng, đối thủ cạnh tranh, thị trường liên quan đến nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng và những thông tin này phải được sử dụng một cách hiệu quả thông qua việc chia sẻ phổ biến tới từng cá nhân của các phòng ban đồng thời việc phản ứng lại với các thông tin này sẽ giúp công ty điều chỉnh kế hoạch hành động dựa theo tình hình của thị trường. Do đó, các công ty phải nhận thức được vai trò của khách hàng, đối thủ cạnh tranh và thị trường mà mình tham gia đó là chìa khóa giúp công ty nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, gia tăng sự cạnh tranh trên thị trường. Khi công ty làm hài lòng khách hàng mục tiêu thì sẽ làm cho khách hàng trung thành với sản phẩm của công ty từ đó sẽ mang lại lợi nhuận bền vững cho công ty. Bên cạnh đó, nắm rõ về đối thủ cạnh tranh sẽ giúp công ty phản ứng kịp thời với sự thay đổi của đối thủ trên thị trường và đưa ra những giải pháp phù hợp cho từng thời điểm. Những thông tin này được luân chuyển giữa các phòng ban sẽ làm cho hiệu suất hoạt động của công ty gia tăng. Những điều này có được là từ một công ty có định hướng Marketing tốt. Khi công ty nắm rõ thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh và thị trường sẽ giúp công ty chủ động chiếm lĩnh được thị trường nâng cao Doanh số lợi nhuận gia tăng được thị phần, lôi kéo khách hàng sử dụng sản phẩm của mình từ đó hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty sẽ được nâng cao. Điều này cho thấy, khi công ty đạt được hiệu quả kinh doanh cao thì phản ánh định hướng Marketing của công ty đang thực hiện là tốt và ngược lại.
Định hướng Marketing của công ty Hoàng Đăng Food chỉ ở mức độ thấp, tập trung vào định hướng bán hàng là chủ yếu, chưa chú trọng đến nhu cầu của khách hàng và xu thế của thị trường trong tương lai, sự phối hợp và truyền đạt thông tin giữa các phòng ban còn rời rạc, việc phản ứng với sự thay đổi của thị trường và của đối thủ cạnh tranh còn chậm. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty Hoàng Đăng Food ở thời điểm hiện tại chưa đạt được như kế hoạch đã đề ra trước đó. Cụ thể hơn theo số liệu của phòng hành chính nhân sự và phòng kinh doanh thì tỷ lệ nghỉ việc của nhân viên còn khá cao (20 nhân viên từ năm 2015-2017) và tỷ lệ nghỉ phép của nhân viên có chiều hướng gia tăng từ 4,2% năm 2015 đến 4,7% năm 2017 hơn thế nữa sự hài lòng và trung thành sử dụng sản phẩm của công ty của khách hàng chỉ ở mức trung bình (khách hàng không bán sản phẩm của công ty từ 39 khách hàng năm 2015 tăng lên 82 khách hàng năm 2017), sự phối hợp giữa các phòng ban còn thiếu sự liên kết, lợi nhuận, doanh số chỉ gia tăng ở mức trung bình ( doanh số từ 30 tỷ năm 2015 tăng lên chỉ 55 tỷ năm 2017 và lợi nhuận từ 3,2 tỷ năm 2015 chỉ tăng 5,6 tỷ năm 2017), công ty không quan tâm đúng mức tới các chỉ số tài chính như ROA, ROS, ROI nên công ty không đưa ra được số liệu chính xác dẫn đến việc không phân tích được hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty về mặt tài chính.
Do đó, công ty muốn nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh để có thể cạnh tranh và phát triển bền vững trong tương lai thì công ty cần phải cải thiện định hướng Marketing của mình. Làm sao để cải thiện định hướng Marketing của Hoàng Đăng Food đã và đang là vấn đề đặt ra nhất là khi Hoàng Đăng Food chưa có định hướng Marketing cụ thể. Xét trên cả 3 phương diện là thu thập thông tin ngoài thị trường, phổ biến thông tin tới các phòng ban và phản hồi lại với thị trường là một việc không phải dễ đối với một công ty vừa và nhỏ như Hoàng Đăng Food, điều này đòi hỏi phải có một công cụ đo lường khi Hoàng Đăng Food áp dụng các giải pháp điều chỉnh định hướng Marketing của mình. Và để đánh giá các điều chỉnh định hướng Marketing của Hoàng Đăng Food tốt hay không thì phải thể hiện qua hiệu quả hoạt động kinh doanh của Hoàng Đăng Food gia tăng thông qua 2 khía cạnh tài chính gồm 7 yếu tố:lợi nhuận, doanh số, thị phần, ROA, ROS, ROI, hiệu suất tổng thể; phi tài chính gồm 2 yếu tố: sự hài lòng của khách hàng và sự cam kết của nhân viên. Điều này thôi thúc tác giả thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ “Giải pháp cải thiện định hướng Marketing tại công ty TNHH XNK Hoàng Đăng Food giai đoạn 2018-2020”.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Marketing
2. Mục tiêu nghiên cứu: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Nghiên cứu của tác giả tập trung vào ba mục tiêu cụ thể sau đây:
Định hướng Marketing được thể hiện qua các khía cạnh nào.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh được thể hiện qua các khía cạnh nào.
Phân tích thực trạng Định hướng Marketing tại công ty TNHH XNK Hoàng
Đăng Food. Dựa trên cơ sở phân tích thực trạng để đề xuất giải pháp cải thiện định hướng Marketing tại công ty Hoàng Đăng Food.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu:
Các yếu tố ảnh hưởng đến Định hướng Marketing
Các yếu tố ảnh hưởng đến Hiệu quả hoạt động kinh doanh
HD Food đã thực hiện Định hướng Marketing của mình trong suốt thời gian qua như thế nào.
Đối tượng khảo sát: Các công ty sản xuất và kinh doanh trong ngành thực phẩm và công ty làm trung gian cho việc bán các sản phẩm này cho công ty tiếp theo hoặc người tiêu dùng cuối cùng tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu tại công ty TNHH Hoàng Đăng Food từ 6/2018 đến 9/2018.
Các số liệu thứ cấp được sử dụng để phân tích thực trạng công ty từ năm 2015 đến năm 2017.
Các số liệu sơ cấp được khảo sát từ tháng 6/2018 đến 9/2018.
4. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng, thống kê mô tả, so sánh và phân tích dữ liệu…v.v.
Dữ liệu thứ cấp: phân tích và tổng hợp dữ liệu từ các nguồn internet, báo chí, tạp chí, các báo cáo nội bộ của công ty Hoàng Đăng Food để trích xuất dữ liệu về định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Dữ liệu sơ cấp: thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua bảng khảo sát. Bảng khảo sát kế thừa thang đo MARKOR của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova, Gabriela Nedelova và Jaroslav Dado (2015) có điều chỉnh cho phù hợp với môi trường ngành thực phẩm tại Việt Nam và công ty Hoàng Đăng Food để đưa ra một cái nhìn thuyết phục về mối liên giữa Định hướng Marketing và Hiệu quả kinh doanh trên toàn thị trường. Từ đây kết hợp với Dữ liệu thứ cấp để đưa ra các giải pháp để cải thiện Định hướng Marketing tại Hoàng Đăng Food.
Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bằng kỹ thuật thảo luận nhóm nhằm điều chỉnh những yếu tố của định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Trên cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu liên quan cùng với thông tin sau khi thảo luận nhóm tác giả sẽ điều chỉnh thang đo theo sự thống nhất của các thành viên tham gia thảo luận nhóm.
Phương pháp nghiên cứu định lượng: được thực hiện bằng khảo sát trực tiếp qua bảng câu hỏi từ đại diện các công ty kinh doanh trong lĩnh vực thực phẩm với mục đích đo lường Định hướng Marketing thông qua Hiệu quả hoạt động kinh doanh trong thị trường các công ty kinh doanh thực phẩm, khu vực Tp.HCM.Từ kết quả thu thập được, tác giả sẽ tiến hành xử lý dữ liệu trên phần mềm SPSS 20.0 như phân tích hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân tích thống kê mô tả, tương quan, hồi quy bội để khẳng định định hướng Marketing được đo lường qua Hiệu quả hoạt động kinh doanh là phù hợp với thực tế.
5. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu:
Kết quả nghiên cứu này giúp cho Ban lãnh đạo công ty Hoàng Đăng Food hiểu rõ được vai trò của Định hướng Marketing trong thị trường thực phẩm. Từ đó đưa ra chiến lược marketing thích hợp để gia tăng sự cạnh tranh nâng cao thị phần trên thị trường, đồng thời kiên định với Định hướng Marketing của mình khi hiệu quả kinh doanh của công ty tăng trưởng mạnh.
Luận văn còn cung cấp cho các Công ty, Tập đoàn và Liên doanh ở Việt Nam trong ngành thực phẩm và các ngành khác phương pháđo lường định hướng Marketing của mình qua một thước đo tiêu biểu và đáng tin cậy nhất là Hiệu quả hoạt động kinh doanh. Từ đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp nhằm cải thiện định hướng Marketing của công ty.
6. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm có 3 chương sau:
Chương 1:CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH HƯỚNG MARKETING VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Chương 2:THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG MARKETING VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI HOÀNG ĐĂNG FOOD
Chương 3:GIẢI PHÁP CẢI THIỆN ĐỊNH HƯỚNG MARKETING TẠI CÔNG TY HOÀNG ĐĂNG FOOD GIAI ĐOẠN 2018-2020.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH HƯỚNG MARKETING VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH.
Chương 1 trình bày tổng quan lý thuyết về marketing, định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh, cũng như mối liên hệ giữa Định hướng Marketing và Hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.1. Bản chất của Marketing:
1.1.1. Khái niệm Marketing:
Trải qua trên 100 năm hình thành và phát triển, nôi dung của Marketing đã có nhiều thay đổi, khi dịch sang tiếng nước khác khó thể hiện đầy đủ và trọn vẹn. Do vậy nhiều nước vẫn giữ nguyên thuật ngữ bằng tiến Anh để sử dụng. Tại Việt Nam, thuật ngữ này thường được sử dụng thay cho từ “Tiếp thị” và nhất là trong chuyên môn.
Marketing là gì? Nhiều người bao gồm các nhà quản trị kinh doanh cho rằng marketing là bán hàng, quảng cáo, hoặc nghiên cứu thị trường. Những công việc này là những việc cụ thể của marketing, chưa bao hàm toàn bộ hoạt động marketing. Dưới đây là một số quan điểm và khái niệm về mareting hiện đại được các tổ chức, hiệp hội và các nhà nghiên cứu về Marketing trên thế giới được chấp nhận và phổ biến trong những thập niên gần đây: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Giáo trình Quản trị marketing của trường Đại học Kinh tế quốc dân đưa ra định nghĩa như sau: “Marketing là tập hợp các hoạt động của công ty nhằm thõa mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu thông qua quá trình trao đổi, giúp công ty đạt mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”.
Theo AMA (American Marketing Association, 1985): “ Marketing là tiến trình hoạch định và thực hiện sáng tạo, định giá, xúc tiến và phân phối những ý tưởng, hàng hóa và dịch vụ để tạo ra sự trao đổi và thỏa mãn những mục tiêu cá nhân và tổ chức”.
Theo CIM ( UK’S Chartered Institute of Marketing): “ Marketing là một quá trình quản trị nhận biết, dự đoán đáp ứng nhu cẩu của khách hàng một cách có hiệu quả và có lợi”.
Theo Groroos ( 1990): “ Marketing là những hoạt động thiết lập, duy trì và cũng cố lâu dài những mối quan hệ với khách hàng một cách có lợi để đáp ứng mục tiêu của các bên. Điều này được thực hiện bằng sự trao đổi giữa các bên và thỏa mãn những hứa hẹn Marketing là một hệ thống các hoạt động kinh doanh thiết kế để hoạch định, định giá, xúc tiến và phân phối các sản phẩm thỏa mãn mong muốn của thị trường mục tiêu nhằm đạt được những mục tiêu của tổ chức”.
Theo Philip Kotler ( 2008): “ Marketing là tiến trình công ty tạo ra giá trị cho khách hàng và xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ với khách hàng nhằm đạt được giá trị từ những phản ứng của khách hàng”.
Theo AMA (2007): “ Marketing là hoạt động, tập hợp các thể chế và quy trình nhằm tạo dựng, tương tác, mạng lại và thay đổi các đề xuất có giá trị cho người tiêu dùng, đối tác cũng như cả xã hội nói chung”
Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét sau:
Marketing là tiến trình quản trị. Marketing cần được xem là một bộ phận chức năng trong một tổ chức và cần có nhiều kỹ năng quản trị. Marketing là hoạch định, phân tích, sắp xếp, kiểm soát và đầu tư các nguồn lực vật chất và con người.
Toàn bộ các hoạt động Marketing hướng theo khách hàng ( Customer-oriented). Marketing phải nhận ra và thỏa mãn những yêu cầu, mong muốn của khách hàng. Marketing bắt đầu từ ý tưởng về “ sản phẩm thỏa mãn mong muốn” ( Want-satisfying product) và không dừng lại những mong muốn của khách hàng đã đạt được mà vẫn tiếp tục sau khi thực hiện thay đổi.
Để làm khách hàng hài lòng hơn, các nhà Marketing không chỉ quan tâm đến đặc trưng của sản phẩm mà còn chú ý đến những lợi ích và trải nghiệm do sản phẩm tạo ra cho khách hàng.
Marketing thõa mãn nhu cầu của khách hàng một cách có hiệu quả và có lợi. Một tổ chức không thể thỏa mãn tất cả mọi người trong một lúc, các nhà làm Marketing đôi khi phải có sự điều chỉnh. Hiệu quả ở đây có ngụ ý là các hoạt động phải phù hợp với khả năng nguồn lực của tổ chức, với ngân sách và với mục tiêu thực hiện của bộ phận Marketing.
Marketing được thực hiện trong các tổ chức phi lợi nhuận cũng như cần quản trị có hiệu quả, kiểm soát chi phí nhưng không vì lợi nhuận. Trái lại, trong các công ty khả năng tạo lợi nhuận phải được xem xét một cách chính đáng. Tuy nhiên, một số công ty chấp nhận chịu lỗ trên một vài sản phẩm hoặc khu vực thị trường để hướng đến mục tiêu chiến lược rộng hơn, lâu dài hơn nhưng điều này phải được hoạch định và kiểm soát. Nói chung, một công ty không tạo ra lợi nhuận thì không thể tồn tại. Do vậy, Marketing có nhiệm vụ duy trì và gia tăng lợi nhuận.
Trao đổi là khái niệm tạo nền móng cho Marketing. Tuy nhiên, các hoạt động Marketing lại tạo điều kiện cho quá trình trao đổi diễn ra thuận lợi nhằm mục đích thỏa mãn những đòi hỏi và ước muốn của con người. Những hoạt động Marketing thực hiện nhằm xây dựng và duy trì những mối quan hệ trao đổi có giá trị. Các nhà quản trị Marketing muốn xây dựng những quan hệ vững chắc với khách hàng phải tạo ra và cung cấp giá trị vượt trội cho khách hàng.
Nội dung Marketing bao gồm thiết kế, định giá, xúc tiến và phân phối sản phẩm. Marketing dùng những phương pháp này để kích thích sự trao đổi. Bằng việc thiết kế, tạo sự tinh tế cho sản phẩm, đưa ra giá bán hợp lý, xây dựng nhận thức và ưa thích, đảm bảo khả năng cung cấp, các nhà Marketing có thể làm gia tăng mức bán. Do vậy, Markeitng có thể được xem là một hoạt động quản trị nhu cầu thị trường.
Những khái niệm Marketing mới trong những năm gần đây nhấn mạnh hoạt động Marketing được thực hiện nhằm tạo giá trị cho khách hàng và xây dựng, duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Dưới góc độ kinh doanh, Marketing bao hàm những hoạt động xây dựng khả năng sinh lợi và những mối quan hệ trao đổi có giá trị với khách hàng. Trong tiến trình Marketing những bước đầu tiên đều tập trung vào những công việc nhằm hiểu khách hàng, tạo ra giá trị dành cho khách hàng và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Thông qua đó, công ty thu lợi nhờ tạo ra giá trị vượt trội cho khách hàng. Theo Philip Kotler, bằng việc sáng tạo giá trị dành cho khách hàng, công ty sẽ nhận được giá trị từ khách hàng thể hiện qua doanh số, lợi nhuận, hơn thế nữa là tài sản nhận được từ quan hệ với khách hàng trong dài hạn.
1.1.2. Một số khái niệm mở rộng của Marketing: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Theo Philip Kotler & Kenvin Lane Kelle (2013) thì Marketing tích hợp: diễn ra khi chuyên gia marketing chia hoạt động marketing và tập hợp các chương trình marketing để tạo dựng, truyền bá và chuyển giao giá trị cho người tiêu dùng.
Theo Philip Kotler & Kenvin Lane Kelle (2013) thì Marketing nội bộ (internal marketing): là những hoạt động diễn ra trong công ty, mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên, giữa các bộ phận chức năng, giữa nhân viên với nhân viên được giải quyết theo quan điểm của marketing. Marketing nội bộ có nhiệm vụ tuyển dụng, đào tạo và tạo ra động cơ phấn đấu cho nhân viên, những người mong muốn phục vụ khách hàng ở mức tốt nhất. Điều này cho thấy rằng, mọi người trong công ty tuân theo các nguyên tắc marketing phù hợp, đặc biệt là ban quản lý cao cấp. Công ty được coi là thị trường nội bộ và mọi người trong công ty đều là khách hàng của nhau. Những chuyên gia marketing thông minh thừa nhận rằng, các hoạt động marketing trong phạm vi công ty có thể đóng vai trò quan trọng hơn so với các hoạt động bên ngoài công ty. Công ty sẽ không thể cung cấp dịch vụ hoàn hảo cho khách hàng một khi nhân viên của công ty chưa sẵn sàng để làm việc đó. Marketing không phải đơn thuần là trách nhiệm của một bộ phận đơn lẻ nào mà là của cả công ty nhằm hướng đến tầm nhìn, sứ mệnh và hoạch định chiến lược. Marketing sẽ thu được thành công khi tất cả các bộ phận đều hợp tác cùng nhau để đạt được mục tiêu chung: khi bộ phận kỹ thuật thiết kế những sản phẩm phù hợp, bộ phận tài chính sẽ tính toán các khoản ngân sách, còn bộ phận mua hàng sẽ lo khâu nguyên vật liệu, bộ phận sản xuất sẽ tạo ra sản phẩm đúng hạn trong khi bộ phận kế toán đánh giá mức độ lợi nhuận. Tuy nhiên, sự tương tác nhịp nhàng giữa các bộ phận trong công ty có thể tạo ra sự đồng vận chỉ khi bộ phận quản lý truyền tải rõ ràng tầm nhìn về cách thức định hướng marketing của công ty và triết lý phục vụ khách hàng.
Theo Philip Kotler & Kenvin Lane Kelle (2013) thì Marketing quan hệ (Relationship marketing): mục tiêu của marketing quan hệ là hướng đến việc xây dựng mối quan hệ dài hạn đáp ứng nhu cầu của con người, công ty với các thành phần nhằm phục vụ mục tiêu kinh doanh. Bốn thành phần quan trọng trong marketing mối quan hệ là người tiêu dùng, nhân viên, các đối tác marketing (kênh, nhà cung ứng, phân phối, nhà bán buôn, đại lý) và các thành viên của cộng đồng tài chính (cổ đông, nhà đầu tư, chuyên gia phân tích). Các chuyên gia marketing cần tạo ra sự thịnh vượng cho tất cả các thành phần tham gia và cân bằng lợi nhuận cho tất cả các bên hữu quan. Và để phát triển mối quan hệ lâu dài với các thành phần này, công ty cần phải hiểu được năng lực, nguồn lực, nhu cầu, mục tiêu và mong muốn của họ. Kết quả lý tưởng của marketing mối quan hệ chính là tài sản của công ty với tên gọi là mạng lưới marketing (marketing network), bao gồm công ty và các bên hữu quan của công ty đó. Nguyên tắc vận hành khá đơn giản: xây dựng một mạng lưới hiệu quả các mối quan hệ với các bên hữu quan và lợi nhuận sẽ được tạo ra từ mối quan hệ đó. Như vậy nhiều công ty đang lựa chọn việc sở hữu thương hiệu của mình thay vì tài sản vật chất. Các công ty cũng có thể tạo ra các đề xuất, dịch vụ và thông điệp riêng biệt cho người tiêu dùng các nhân, dựa trên nguồn thông tin về các giao dịch diễn ra trong quá khứ, các yếu tố nhân khẩu học, tâm lý đồ học, truyền thông và các sở thích liên quan đến việc phân phối. Bằng việc chú trọng đến người tiêu dùng, sản phẩm và kênh phân phối có khả năng sinh lợi nhất, các công ty này hy vọng đạt được sự tăng trưởng về lợi nhuận trong khi giành được lượng khách hàng trung thành. Họ ước tính được giá trị vòng đời của người tiêu dùng cá nhân và thiết kế các đề xuất sản phẩm, dịch vụ của mình nhằm tạo ra lợi nhuận từ giá trị vòng đời người tiêu dùng đó. Các hoạt động này được giáo sư Larry Selden của Trường Kinh doanh Columbia và vợ mình – Yoko Sugiura Selden, giám đốc tư vấn kinh doanh, gọi là “hoạt động lấy khách hàng làm trọng tâm”. Bởi việc thu hút khách hàng mới có thể ngốn nhiều thời gian và chi phí so với việc duy trì khách hàng hiện hữu, tiếp thị mối quan hệ cũng chú trọng tới việc duy trì khách hàng. Các công ty xây dựng nguồn khách hàng bằng việc đề xuất nhiều sản phẩm cho khách hàng hiện hữu, đào tạo nhân viên trong lĩnh vực bán chéo sản phẩm (cross-selling) và bán gia tăng (up-selling – nghĩa là người ta trưng ra một mặt hàng nào đó với giá rất cao, sau đó trong quá trình thương thảo hạ giá thấp xuống, tùy theo biến thể của sản phẩm. Điều này sẽ hiệu quả hơn so với việc khăng khăng chỉ bán với giá tối đa ND). Tiếp thị cần phải chuẩn bị một cách thuần thục không chỉ khâu quản trị mối quan hệ khách hàng (CRM), mà còn quản trị mối quan hệ đối tác (PRM) Các công ty đang đào sâu mối quan hệ đối tác của mình với các nhà cung ứng và phân phối chủ chốt, nhìn nhận họ như những đối tác tạo ra giá trị cho người tiêu dùng, và như vậy, cuối cùng tất cả các bên đều có lợi.
Marketing quốc tế: là việc phát triển và thực hiện các chiến lược marketing ra ngoài phạm vi biên giới của thị trường nội địa. Theo Gerald Albaum và các tác giả (2002) “Marketing quốc tế là hoạt động marketing sản phẩm, dịch vụ và thông tin vượt qua biên giới của một quốc gia. Đó là việc lập kế hoạch, thực hiện các chương trình truyền thông, phân phối, giá cả và dịch vụ hỗ trợ bán hàng cho các khách hàng cuối cùng của công ty”.
Marketing Internet: đây là xu hướng hiện nay, cuộc cách mạng số đã tạo ra kỷ nguyên thông tin – kỷ nguyên hứa hẹn sẽ dẫn đến các mức độ xác đáng về sản lượng, nhiều phương tiện truyền thông mục tiêu và nhiều chế độ định giá liên quan. Các công ty có thể hoàn thiện tính hiệu quả về chi phí của mình bằng việc sử dụng marketing internet như giảm chi phí thuê điểm bán, giảm nhân sự trong đội ngũ bán hàng,…tăng hiệu quả của hoạt động marketing.
Marketing trách nhiệm xã hội: vì các hiệu ứng của marketing tồn tại bên ngoài phạm vi công ty và người tiêu dùng cũng như cả xã hội nói chung nên các chuyên gia marketing cần phải cân nhắc các khía cạnh đạo đức, môi trường, pháp lý và xã hội trong hoạt động marketing. Do đó, nhiệm vụ của công ty là xác định nhu cầu, mong muốn và lợi ích của thị trường mục tiêu, đồng thời đáp ứng các nhu cầu đó của họ một cách hiệu quả hơn so với đối thủ trong khi bảo vệ và nhân rộng niềm hạnh phúc lâu dài của người tiêu dùng cũng như xã hội.
1.1.3. Mục tiêu của Marketing:
Theo Philip Kotler & Kenvin Lane Kelle (2013) thì marketing hướng đến ba mục tiêu chủ yếu:
Sự thõa mãn của khách hàng: điều này là hiển nhiên – marketing nhằm thõa mãn cao nhất nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Qua đó làm cho họ hài lòng và gia tăng sự trung thành đối với công ty, giúp công ty thu phục thêm được khách hàng mới trong tương lai.
Gia tăng sự cạnh tranh trên thị trường: giải pháp Marketing giúp công ty đối phó với các thách thức trong cạnh tranh, ứng phó với sự thay đổi của thị trường và xu hướng mới, đảm bảo được vị thế cạnh tranh thuận lợi trên thị trường.
Lợi nhuận lâu dài hoặc những mục tiêu đo lường khác: Marketing tạo ra mức lợi nhuận cần thiết giúp công ty tích lũy và phát triển trong tương lai với sự liên quan mật thiệt về lòng trung thành của khách hàng.
1.1.4. Giá trị khách hàng: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Theo quan điểm của khách hàng: giá trị của một hàng hóa nào đó là tập hợp của tất cả các lợi ích mà khách hàng nhận được khi họ mua và sử dụng hàng hóa nào đó (theo Philip Kotler). Do đó, khách hàng được nhìn nhận từ hai khía cạnh: chi phí và lợi ích (Cost and Benefit).
Giá trị khách hàng là chênh lệch giữa những lợi ích mà một khách hàng nhận thấy từ những cái gì mà thị trường cung ứng và chi phí mà khách hàng này bỏ ra để có được những lợi ích đó.
Công thức:
Giá trị mà khách hàng nhận được = giá trị sản phẩm – tổng chi phí (của khách hàng).
Những người làm Marketing (marketers) cần tìm nhiều phương thức nhằm nâng cao lợi ích của khách hàng. Khi quan tâm đến lợi ích của khách hàng, công ty cần chú ý đến các mối quan hệ cạnh tranh.
Xây dựng mối quan hệ bền vững với khách hàng là phương thức tốt nhất nhằm tạo ra giá trị cho khách hàng – mối quan hệ đôi bên cùng có lợi. Khi công ty tập trung mọi nỗ lực của mình để thõa mãn làm hài lòng khách hàng đồng thời nhằm đạt mục tiêu của tổ chức, có thể xảy ra những tác động tiêu cực đối với xã hội. Vì vậy, công ty cần chú trọng đến trách nhiệm xã hội, hoặc phải điều chỉnh hoạt động công ty sao cho tăng cường được những tác động tích cực, đông thời giảm thiểu những khía cạnh tiêu cực đối với xã hội.
1.2. Định hướng Marketing:
1.2.1. Khái niệm định hướng Marketing:
Khái niệm định hướng Marketing nằm ở trung tâm của lý thuyết Marketing (Levitt, 1960). Theo khái niệm Marketing, mục đích của một tổ chức nhằm xác định nhu cầu và mong muốn của khách hàng và đáp ứng những nhu cầu đó hiệu quả hơn và hiệu quả hơn so với đối thủ cạnh tranh (Slater & Narver, 1998). Các tổ chức hoặc tổ chức Marketing nhằm mục đích thỏa mãn khách hàng của họ bằng cách xây dựng, điều phối các hoạt động và nỗ lực của họ xung quanh nhu cầu của khách hàng (Levitt, 1960). Về bản chất, phương pháp tiếp cận theo định hướng Marketing tập trung chủ yếu vào việc cải thiện mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp, được tôn trọng trong văn hóa của một tổ chức, giá trị chung và niềm tin về việc tập trung vào lợi ích của khách hàng (Deshpande & Farley, 1999). Định hướng Marketing có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau: như một tập hợp các niềm tin hình thành thái độ và văn hóa kinh doanh cụ thể (Hooley và cộng sự, 1990, Avlonitis và Gounaris, 1997, p. 385) hoặc như một khái niệm marketing (McCarthy và Perreaylt, 1990). Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ định hướng hướng Marketing và định hướng thị trường được xem là một. Một số tác giả đánh đồng hai thuật ngữ này, một số khác lại thích một trong số đó. Hunt và Morgan (1995) phân biệt định hướng thị trường và định hướng Marketing, mặt khác Avlonitis và Gounaris (1999) coi chúng là từ đồng nghĩa. Tuy nhiên, họ thích định hướng Marketing hơn vì sử dụng rộng rãi của nó, trong khi ngôn ngữ nó đề cập đến khái niệm Marketing (Schwamm et al, 2009, p.260).
Định hướng Marketing đã được kiểm tra cả về quan điểm hành vi lẫn quan điểm văn hóa.Narver và Slater (1990) hỗ trợ phương pháp tiếp cận văn hóa liên quan đến các đặc tính cơ bản của một tổ chức. Họ đã xác định định hướng Marketing thông qua ba chiều của văn hóa bao gồm, định hướng của khách hàng, định hướng cạnh tranh và phối hợp liên ngành cho thấy tầm quan trọng của việc phối hợp hoạt động trong tất cả các phòng ban của tổ chức và phối hợp sử dụng tài nguyên cho mục đích tạo ra giá trị to lớn hơn cho khách hàng (Panayides, 2004, trang 46-47). Tuy Narver và Slater (1990) thừa nhận tầm quan trọng của văn hóa, nhưng trọng tâm chính của họ vẫn là về hành vi, đặc biệt trong đo lường. Ví dụ như “hiểu nhu cầu của khách hàng”, “phản ứng nhanh với hành động của đối thủ cạnh tranh”,…
Mặt khác, Kohli và Jaworski (1990) mô tả định hướng Marketing là kết hợp bởi ba thành phần hành vi, cụ thể là, tạo ra trí thông minh, phổ biến thông minh và phản hồi. Đó là việc xác định các hoạt động kinh doanh theo định hướng Marketing, thu thập thông tin về thị trường liên quan đến nhu cầu hiện tại và tương lai của khách hàng, phổ biến thông tin này trên tất cả các phòng ban của một tổ chức và khả năng của tổ chức để đáp ứng thông tin này.Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Hình 1.1: Định hướng Marketing theo Kohli và Jaworski (1990)
Trên cơ sở đó tác giả kế thừa định nghĩa Marketing theo quan điểm hành vi là thu thập thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh và xu hướng mới của thị trường trong tương lai, phổ biến các thông tin này tới cá nhân của các phòng ban của công ty và khả năng công ty đáp ứng những thông tin này.
Vấn đề là làm sao để đo lường định hướng Marketing theo quan điểm hành
Hai trong số các biện pháp đo lường định hướng Marketing được sử dụng rộng rãi nhất đó là thang đo “ MARKOR” được phát triển bởi Kohli, Jaworski và Kumar ( 1993) và thang đo “MKTOR” được phát triển bởi Narver và Slater (1990).
Kaworski và Kohli (1993) đã phát triển thang đo MARKOR trong đó các câu hỏi riêng biệt được đánh giá chủ yếu bằng cách sử dụng thang đo Likert ( Caruana, 1999, trang 248). Thang đo MARKOR bao gồm ba thành phần: tạo ra thông tin thị trường, phổ biến thông tin và khả năng đáp ứng. Thang đo MARKOR có thể thu được thông tin về các phản ứng hành vi cụ thể của công ty trên các khía cạnh quan trọng của thị trường như đối thủ cạnh tranh , khách hàng, quy định, xã hội và kinh tế vĩ mô (Day và Wensley, 1988; Jaworski và Kohli, 1996; Kohli et al, 1993). Mặt khác, thang đo MKTOR ít được định hướng theo quy trình hơn và được vận hành hoàn toàn theo cách hành vi. Nó được mô tả là phương pháp đo lường định hướng Marketing dựa trên điểm trung bình từ ba phần được đo lường, cụ thể là định hướng khách hàng, định hướng cạnh tranh và phối hợp liên ngành (Slater và Narver, 1994; Rojas-Mendez, Rod,2013, trang 29-30). Với mục đích đo lường định hướng Marketing theo phương pháp này, thang đo MKTOR đãsử dụng quy mô Likert nhằm nắm bắt thái độ của người trả lời đối với các hoạt động của công ty (O’Sullivan và Butler, 2009, trang 1352). Nhiều học giả (Deshpande và Farley, 1998; Dobni và Luffman, 2000; Langerak, 2001) đã sử dụng thang đo MARKOR sửa đổi hoặc kết hợp thang đo MARKOR và MKTOR trong nghiên cứu của mình. Cả hai phương pháp đều cho rằng công tyđã chứng minh được định hướng Marketingcó hiệu quả ảnh hưởngkhi mà khái niệm này được thực hiện trongcông ty và đồng thời hiệu quả hoạt động kinh doanh của công tycũng bị ảnh hưởng( Kohli và Jaworski, 1990; Narver và Slater, 1990, Reukert, 1992).
1.3. Hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Các tác giả có cách tiếp cận khác nhau để đo lường hiệu quả kinh doanh. Thứ nhất, trong các nghiên cứu đã sử dụng các chỉ số tài chính và phi tài chính khác nhau làm tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh doanh. Về cơ bản, có hai phương pháp đo lường hiệu quả kinh doanh: bằng các biện pháp chủ quan (tự báo cáo) và khách quan (con số thực tế), nơi sự khác biệt giữa chúng bị phai mờ bởi yếu tố con người (Kohli và Jaworski, 1993). Mặc dù, hầu hết các biện pháp khách quan đều dựa trên dữ liệu tài chính, việc báo cáo thông tin tài chính có thể được xây dựng một cách chủ quan. Khó khăn trong việc thu thập dữ liệu khách quan góp phần vào việc sử dụng rộng rãi các biện pháp chủ quan (Cano và cộng sự, 2004, trang 184). Hooley et al (2003, trang 96) cho rằng một phương pháp nghiên cứu giá trị của các chỉ số hiệu quả kinh doanhgồm cả tài chính, phi tài chính được ưu tiên nếu nó là cần thiết để có được giá trị của các chỉ số từ một loạt các công ty. Các nhà quản lý thường rất bận rộn và có nguy cơ là những câu hỏi như vậy sẽ không được trả lời và các nhà quản lý có thể miễn cưỡng đưa ra các giá trị số tương đối của các chỉ số được khảo sát. Đôi khi nếu không phải là một công ty niêm yết trên sàn chứng khoán thì có thể nhà quản lý cũng không công bố các chỉ số tài chính này. Giá trị số tuyệt đối của các chỉ số cũng không thể so sánh giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, hoạt động trong các phân khúc khác nhau, sử dụng các chuẩn mực kế toán khác nhau và xác định thị trường theo những cách khác nhau,… . Avlonitis và Gounaris (1997) đãkết luận rằng các nghiên cứu sử dụng cả hai biện pháp khách quan và chủ quan về hiệu quả hoạt động kinh doanh(Venkatraman và Ramanujam, 1986; Child, 1986), đã tìm thấy mối tương quan chặt chẽ giữa chúng.
Vì thế, hiệu quả hoạt động kinh doanh có thể được đo lường thông qua các chỉ số phi tài chính, cụ thể là cam kết của nhân viên đối với tổ chức, sự hài lòng của khách hàng và thông qua các chỉ số tài chính gồmHiệu suất, Thị phần, Doanh số, Lợi nhuận, Lợi tức đầu tư, Lợi nhuận trên tài sản, Lợi tức bán hàng (Narver và Slater, 1990; Kohli và Jaworski, 1993;Simona Salyova et al., 2015). Theo các nghiên cứu của các học giả khác (Narver và Slater, 1990; Kohli và Jaworski, 1993), các chỉ số tài chính này bao gồm hiệu suất tổng thể, Doanh số, lợi nhuận, lợi tức đầu tư (ROI), lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận bán hàng (ROS). Bên cạnh đó hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng được đo lường thông qua thị phần là chỉ số phi tài chính nhưng được đo giống như chỉ số tài chính (Simona Salyova et al., 2015) . Theo các nghiên cứu của các học giả khác (Pitt và cộng sự, 1996, Puledran và cộng sự, 2003; Kara và cộng sự, 2005), việc đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh sẽ sử dụng các biện pháp chủ quan gồm 9 chỉ số, chia làm 2 nhóm chính với nhóm chỉ số phi tài chính gồm 2 chỉ số là Cam kết của nhân viên với tổ chức và Sự hài lòng của khách hàng. Trong khi chỉ số tài gồm 7 chỉ số lần lượt là Hiệu suất, Thị phần, Doanh số, Lợi nhuận, Lợi tức đầu tư, Lợi nhuận trên tài sản, Lợi tức bán hàng.
1.3.1 Chỉ số phi tài chính Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
1.3.1.1 Cam kết của nhân viên với tổ chức
Cam kết của nhân viên với tổ chức được định nghĩa một cách khái quát như sau “ Sự gắn kết với tổ chức là sức mạnh tương đối về sự đồng nhất của nhân viên với tổ chức và sự tham gia tích cực của nhân viên trong một tổ chức nhất định (Theo Mowday và cộng sự ,1979) và là nhân tố tạo ra sự kết nối giữa người lao động và tổ chức (Mayer và cộng sự, 1997). Theo đó sự cam kết này bao gồm sự đồng nhất, nỗ lực và lòng tận tâm trung thành với tổ chức. Dựa trên mối quan hệ sâu sắc tích cực với tổ chức làm động lực giúp nhân viên luôn sẵn sàng đầu tư công sức để đóng góp cho sự phát triển và thành công của tổ chức. Do đó sự cam kết không chỉ là ở lời nói và niềm tin mà còn là những hành động thiết thực trong công việc của nhân viên. Cam kết của nhân viên với tổ chức có mối quan hệ tích cực với những thành công của tổ chức như kết quả thực hiện công việc, sự thõa mãn của người lao động (Youseft, 2000) và Doanh số của tổ chức ( Powell và Meyer, 2004).
Các nhân viên làm việc cho một công ty định hướng Marketing có cảm thấy khác với nhân viên làm việc cho các công ty ít định hướng Marketing hơn không? Vấn đề này đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu tương đối ít. Jaworski và Kohli (1993) cung cấp một số bằng chứng cho thấy định hướng Marketing có liên quan đến tinh thần đồng đội của nhân viên và cam kết với tổ chức. Nghiên cứu của Siguaw, Brown và Widing (1994) cho thấy định hướng Marketing ảnh hưởng đến định hướng khách hàng của người bán hàng, căng thẳng trong vai trò, sự hài lòng công việc và cam kết của tổ chức. Điều quan trọng cần lưu ý là hai vấn đề trong lĩnh vực này. Đầu tiên, mặc dù có lý do để cho rằng định hướng Marketing ảnh hưởng đến thái độ của nhân viên (ví dụ, tinh thần đồng đội, sự hài lòng, cam kết), một lập luận mạnh mẽ có thể được thực hiện cho hiệu quả tương hỗ. Cụ thể, thái độ của nhân viên “hữu ích” sẽ dẫn đến sự đáp ứng phối hợp và nhanh hơn với sự phát triển của thị trường. Các hiệu ứng nhân quả đối ứng này không phải là chủ đề của thực nghiệm. Thứ hai, sẽ rất thú vị và hữu ích khi xem định hướng Marketing có ảnh hưởng đến nhân viên ở các khu chức năng khác nhau (marketing, R & D) khác nhau hay không. Một ý kiến có thể được đưa ra rằng một số nhân viên R & D có thể làm việc nhiệt tình hơn trong các công ty tập trung vào nội bộ có định hướng Marketing.
Thang đo Cam kết của nhân viên bao gồm các yếu tố sau:
- Mối quan hệ giữa công ty và nhân viên của họ yếu kém.
- Nhân viên làm việc vượt ra ngoài nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự phát triển của công ty.
- Nhân viên làm việc vượt ra ngoài nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự phát triển thịnh vượng của công ty.
- Nhân viên làm việc vượt ra ngoài nhiệm vụ của mình để đảm bảo sự phát triển thịnh vượng của công ty.
- Một điều hiển nhiên là nhân viên thích công ty của chính họ.
- Mọi người trong công ty chúng tôi lo lắng về những nhu cầu và vấn đề liên quan đến đồng nghiệp của họ.
- Tinh thần đồng đội chiếm ưu thế trong công ty chúng tôi.
- Làm việc cho công ty này giống như một phần trong đại gia đình.
1.3.1.2 Sự hài lòng của khách hàng:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về sự hài lòng của khách hàng nhưng nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là sự khác biệt giữa kì vọng và cảm nhận thực tế về sản phẩm của khách hàng.
Theo Philip Kotler (2003), sự thỏa mãn – hài lòng của khách hàng là mức độ trạng thái cảm giác của một người bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ với kì vọng của chính họ.
Theo Hansemark và Albinsson (2004), sự hài lòng của khách hàng là một thái độ tổng thể của khách hàng đối với một nhà cung cấp dịch vụ, hoặc một cảm xúc phản ứng với sự khác biệt giữa những gì khách hàng dự đoán trước và những gì họ tiếp nhận, đối với sự đáp ứng một số nhu cầu, mục tiêu hay mong muốn.”
Sự hài lòng của khách hàng là một đánh giá chủ quan của họ dựa cơ sở những kinh nghiệm tích lũy khi mua sắm và sử dụng sản phẩm dịch vụ. Họ sẽ đánh giá giữa kỳ vọng và hiện thực cảm nhận để đưa ra nhận xét. Đó là một dạng cảm giác về tâm lý sau khi nhu cầu được thỏa mãn. Nếu cảm nhận đáp ứng được kì vọng thì khách hàng sẽ hài lòng còn nếu cảm nhận vượt quá sự kì vọng thì sẽ làm cho khách hàng thích thú. Hầu hết những nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ hài lòng càng cao thì sự trung thành càng cao. Những khách hàng này không chỉ lặp lại sự mua hàng mà còn quảng bá cho những người khác về sự trải nghiệm của mình đối với sản phẩm.Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Trong bảng điểm cân bằng được thảo luận bởi Kaplan và Norton (1992), quan điểm của khách hàng bao gồm các số liệu như chất lượng và giá trị của khách hàng, mức độ dịch vụ của khách hàng và thời gian giao hàng dựa trên khách hàng. Thật thú vị, có rất ít nghiên cứu liên kết định hướng Marketing với sự hài lòng của khách hàng với chất lượng, giá trị, thời gian thực hiện, v.v. Pelham và Wilson (1995) đến gần nhất để giải quyết vấn đề này bằng cách cho thấy định hướng Marketing liên quan đến nhận thức của người quản lý về chất lượng sản phẩm. Có lẽ quan sát nổi bật nhất về ảnh hưởng của định hướng Marketing đối với khách hàng là số lượng nghiên cứu thực nghiệm về đề tài này. Cần lưu ý rằng mặc dù các mối liên kết này khá trực tiếp, nhưng nghiên cứu chúng sẽ thu thập dữ liệu từ khách hàng và kết hợp chúng với dữ liệu từ người cung cấp thông tin nội bộ (người quản lý) để báo cáo về văn hóa và hành vi nội bộ. Hơn nữa, các yêu cầu trong lĩnh vực này sẽ có lợi nhất nếu họ có thể xác định các điều kiện theo đó định hướng Marketing chịu tác động mạnh bởi sự hài lòng của khách hàng và có lẽ quan trọng hơn đối với lòng trung thành của khách hàng. Một lưu ý cảnh báo đối với việc xác định các khách hàng riêng biệt cũng như người cung cấp thông tin. Cụ thể, các công ty thường cung cấp các mức dịch vụ và sự đáp ứng khác nhau trên các khách hàng tùy thuộc vào tầm quan trọng của họ. Hơn nữa, các công ty cũng tập trung vào các phân khúc khách hàng riêng biệt và điều chỉnh các sản phẩm và dịch vụ của họ để chủ yếu thu hút các phân khúc đó và bằng cách ngụ ý, không hấp dẫn các khách hàng khác. Vì vậy, cùng một công ty có thể được đánh giá rất khác nhau bởi các khách hàng khác nhau tùy thuộc vào việc họ thuộc về “trong nhóm” hay “ngoài nhóm”.
Thang đo Sự hài lòng của khách hàng bao gồm các yếu tố sau:
- Khách hàng của chúng tôi hài lòng với chất lượng sản phẩm / dịch vụ của chúng tôi.
- Khách hàng của chúng tôi hài lòng với việc định giá sản phẩm của chúng tôi.
- Chúng tôi hiếm khi nhận được những than phiền từ khách hàng của mình.
- Thật dễ dàng để chúng tôi có được những khách hàng mới?
- Chúng tôi phục vụ rất nhiều khách hàng giống nhau mà chúng tôi đã phục vụ trong quá khứ.
- Khách hàng của chúng tôi thường quay lại với chúng tôi.
- Chúng tôi có nhiều khách hàng thường xuyên hơn so với đối thủ cạnh tranh.
1.3.1. Chỉ số tài chính
Hiệu suất tổng thể.
Doanh số.
Lợi nhuận.
Lợi tức đầu tư (ROI).
Lợi nhuận trên tài sản (ROA).
Lợi nhuận bán hàng (ROS).
Thị phần.
Sử dụng các chỉ số tài chính này để đo lường Định hướng Marketing của một công ty là tốt hay xấu không phải là một việc dễ dàng đặc biệt khi đo lường các chỉ số tài chính này một cách khách quan (con số cụ thể). Theo các nghiên cứu của các học giả khác (Narver và Slater, 1990; Kohli và Jaworski, 1993), các chỉ số tài chính này bao gồm hiệu suất tổng thể, Doanh số, lợi nhuận, lợi tức đầu tư (ROI), lợi nhuận trên tài sản (ROA) và lợi nhuận bán hàng (ROS).
Thang đo chỉ số tài chính với 7 yếu tố này được đo lường như sau:
- Toàn bộ kết quả kinh doanh của chúng tôi đã gia tăng trong vòng 3 năm qua.
- Thị phần của đơn vị kinh doanh của chúng tôi đã tăng lên trong ba năm qua.
- Doanh số của đơn vị kinh doanh của chúng tôi đã tăng lên trong ba năm qua.
- Lợi nhuận của đơn vị kinh doanh của chúng tôi đã tăng lên trong ba năm qua.
- Lợi tức đầu tư (ROI) đã tăng trong ba năm qua.
- Lợi nhuận trên tài sản (ROA) đã tăng trong ba năm qua.
- Lợi nhuận trên doanh thu (ROS) đã tăng trong ba năm qua.
1.4 Các nghiên cứu về định hướng Marketing và hiệu quả kinh doanh của nước ngoài:
1.4.1 Khảo sát nghiên cứu định hướng thị trường (1995-2008) “ Shu-Hsien Liao/ Wen- Jung Chang Chi – Chuan Wu, Jerome M. Katrichis Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Từ năm 1990, định hướng thị trường đã nhận được sự chú ý đáng kể trong các tài liệu tiếp thị. Một vài nghiên cứu cho đến nay cung cấp thông tin sơ bộ và hữu ít để tạo điều kiện cho sự hiểu biết về định hướng thị trường . Nghiên cứu này trình bày một khảo sát toàn diện về các tài liệu tiếp thị còn tồn tại sử dụng loại từ khóa từ năm 1995 đến năm 2008. Nó phục vụ như một hướng dẫn nhằm mục đích giúp nhà nghiên cứu hoặc người học viên mới bắt đầu tiếp cận định hướng thị trường, bao gồm các định nghĩa, ứng dụng và vấn đề trong lĩnh vực khác. Dựa trên phạm vi 514 bài báo định hướng thị trường cho thấy rằng số lượng ấn phẩm trên định hướng thị trường đã tăng đáng kể từ năm 2001 với mức tăng trưởng ổn định trong những năm gần đây. Ngoài ra, các bài báo được chọn này nằm rải rác trên 153 tạp chí và chủ yếu được xuất bản trong 10 tạp chí khoa học. Sự đóng góp của nghiên cứu này cung cấp một phương tiệnđể khái niệm hóa và bao hàm vận hành của định hướng thị trường.
1.4.2 Định hướng thị trường và hiệu quả kinh doanh: Trong ngành nhượng quyền thương mại “ Yong-Ki Lee, Soon- Ho Kim, Min- Kyo Seo, S.Kyle Hight”
Bài viết này xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố quản lý hàng đầu, định hướng thị trường nhượng quyền, chiến lược cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh trong bối cảnh các công ty nhượng quyền ở Hàn Quốc. Có 156 công ty nhượng quyền thương mại dịch vụ thực phẩm cung cấp cơ sở cho cuộc điều tra thực nghiệm này. Kết quả cho thấy rằng các yếu tố quản lý hàng đầu như nhấn mạnh về quản lý và rủi ro có thể dẫn đến định hướng thị trường. Định hướng thị trường nhượng quyền đã được tìm thấy để dẫn dắt các chiến lược khác biệt và chi phí, từ đó, tăng hiệu quả kinh doanh tài chính và phi tài chính. Ngoài ra, định hướng thị trường trực tiếp làm tăng hiệu quả kinh doanh tài chính và phi tài chính. Bối cảnh của ngành công nghiệp nhượng quyền khác với các ngành khác, bài nghiên cứu thảo luận về những tác động của những phát hiện này cho các nhà nghiên cứu và các nhà quản lý trong ngành công nghiệp nhượng quyền thương mại.
1.4.3 Định hướng thị trường, năng lực hiểu biết và đổi mới “ H.Erkan Ozkaya Cornelia Droge, G. Tomas M.Hult, Roger Calantone Elif Ozakaya”
Nghiên cứu này tập trung vào hai khía cạnh của định hướng thị trường và các khía cạnh tương ứng của năng lực hiểu biết thị trường: nghĩa là khoảng cách của khách hàng và đối thủ cạnh tranh. Nghiên cứu kiểm tra xem liệu định hướng khách hàng và đối thủ cạnh tranh có được chuyển đổi thành sự đổi mới dựa trên thị trường cótác động trực tiếp hay gián tiếp thông qua các khách hàng và đối thủ cạnh tranh.
Những phát hiện này hỗ trợ năng lực kiến thức thực sự là trung gian của các mối quan hệ tích cực giữa các định hướng và đổi mới dựa trên thị trường. Ngoài ra, đổi mới dựa trên thị trường trung gian các mối quan hệ tích cực giữa khách hàng và năng lực kiến thức về đối thủ cạnh tranh và hiệu suất tổng thể của công ty. Một so sánh xuyên quốc gia cho thấy rằng, ở Hoa Kỳ so với các công ty Trung Quốc, định hướng khách hàng (hoặc đối thủ cạnh tranh) dẫn đến cả năng lực kiến thức của khách hàng cao hơn (hoặc đối thủ cạnh tranh) và cải tiến dựa trên thị trường nâng cao; nói cách khác, điểm mạnh mối quan hệ của mô hình lớn hơn ở các công ty Mỹ, cho thấy rằng họ có thể tận dụng tốt hơn định hướng của khách hàng (hoặc đối thủ cạnh tranh) để có được kết quả về hiệu suất.
1.4.4 Nghiên cứu của Bernard J.Jaworski (1996) về định hướng thị trường: Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Trong 10 năm qua, tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong khu định hướng thị trường. Sự chú ý của học giả đã tập trung vào định nghĩa, đo lường và tác động của định hướng thị trường. Sự chú ý cũng đã tập trung vào các trình điều khiển tổ chức của định hướng thị trường và nâng cao của nó. Mặc dù có tiến bộ, vẫn còn nhiều thách thức nghiên cứu và cơ hội phong phú tồn tại để tiếp tục làm việc trong khu vực. Bài viết này phê bình đánh giá “hiện đại nhất” và cung cấp một lộ trình cho công việc trong tương lai trong khu vực. Đánh giá chủ yếu tập trung vào (1) ý nghĩa định hướng thị trường, (2) mối quan hệ của nó với một số chủ đề và chủ đề mới nổi trong tài liệu (ví dụ: xử lý thông tin thị trường, học tập tổ chức, sử dụng kiến thức, tầm nhìn thị trường và thị trường lái xe), (3) ) chất lượng của các hành vi theo định hướng thị trường, (4) tác động của định hướng thị trường và (5) các vấn đề trong việc nâng cao định hướng thị trường. Nghiên cứu kết luận với một khái niệm tổng hợp và các đề xuất phương pháp luận.
1.4.5 Nghiên cứu của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015) về định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh:
Về lý thuyết, định hướng Marketing thể hiện khái niệm đã được thiết lập bằng cách sử dụng hàng loạt các phương pháp tiếp cận, cách thức,công cụ và nó có thể được coi như là một chiến lược để đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững. Mặc dù khái niệm này đã được kiểm tra kỹ lưỡng trong nhiều nghiên cứu khác nhau nhưng có một khoảng cách nghiên cứu về bối cảnh ở Slovakia. Mục đích của nghiên cứu này nhằm để kiểm tra và đánh giá mức độ định hướng Marketing trong các công ty từ ngành công nghiệp thực phẩm ở Slovakia và xác định mối quan hệ giữa định hướng Marketing và hiệu quả kinh doanh. Nghiên cứu đã áp dụng phép phối cảnh hành vi để đo lường định hướng tiếp thị bằng cách sử dụng quy mô MARKOR làm cơ sở. Kết quả của nghiên cứu xác nhận giả thuyết về sự phụ thuộc giữa đinh hướng Marketing của công ty và thành công của họ trên thị trường thông qua các chỉ số hiệu quả kinh doanh đã chọn với giả định rằng các công ty nào có định hướng Marketing cao hơn thì sẽ có kết quả thị trường tài chính và kinh tế tốt hơn. Những phát hiện này sẽ giúp công ty xác định các yếu tố có lợi của đinh hướng Marketing có thể được thực hiện với mục đích cải thiện hiệu quả kinh doanh và vị thế trên thị trường.
1.5 Mô hình thực tiễn đo lường Định hướng Marketing qua Hiệu quả hoạt động kinh doanh.Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
Trên cơ sở lý thuyết về định hướng Marketing, hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty và những nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty, tác giả kế thừa nghiên cứu của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015) để đề xuất mô hình thực tiễn đo lường Định hướng Marketing thông qua hiệu quả hoạt động kinh doanh. Giải thích cho sự lựa chọn này, tác giả đánh giá rằng nghiên cứu của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015)về ảnh hưởng của hiệu quả hoạt động kinh doanh đến Định hướng Marketing của các công ty trong ngành thực phẩm có tính bao quát và phù hợp với ngành nghề mà công ty Hoàng Đăng Food đang kinh doanh. Cụ thể, định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh trong mô hình của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015) đã xác nhận sự tồn tại của mối quan hệ giữa định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty trong ngành thực phẩm. Sự tồn tại của mối quan hệ này đã được chứng minh trong nhiều thập kỷ qua kết quả của nhiều nghiên cứu quốc tế được thực hiện ở các quốc gia khác nhau trên thế giới, trên các công ty có quy mô khác nhau hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Phương pháp nghiên cứu của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015) chủ yếu dựa trên phương pháp luận của Kohli, Jaworski và Kumar (1993) và đưa ra trong một môi trường mới do mẫu được chọn là các công ty tại quốc gia Slovakia. Do đó, tác giả đã lựa chọn mô hình của Simona Salyova, Janka Taborecka-Petrovicova và cộng sự (2015) để áp dụng tại một bối cảnh mới là quốc gia Việt Nam và chọn mẫu là các công ty đang hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm. Từ đó tìm ra mối liên hệ giữa Định hướng Marketing và hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Dựa trên kết quả đó, tác giả sẽ đưa ra các giải pháp cải thiện định hướng Marketing cho công ty Hoàng Đăng Food nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty. Để đo lường định hướng Marketing, tác giả sử dụng thang đo MARKOR đã sửa đổicụ thể bằng thang đo Likert 7 độ (1=hoàn toàn không đồng ý, 7= hoàn toàn đồng ý). Tác giả cũng tiến hành đo hiệu quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ sốtài chính, đặc biệt có bổ sung thêm các chỉ số phi tài chính. Đây là điều mà rất ít nghiên cứu tại Việt Nam thực hiện. Theo các nghiên cứu của các học giả khác (Narver và Slater, 1990; Kohli và Jaworski, 1993), tác giả kế thừa và chọn các chỉ số tài chính bao gồm: hiệu suất tổng thể, doanh số, lợi nhuận, lợi tức đầu tư (ROI), lợi nhuận trên tài sản (ROA), lợi nhuận bán hàng (ROS) và thị phần.Với các chỉ số phi tài chính để đo lường hiệu quả hoạt động kinh doanh gồm cam kết của nhân viên và sự hài lòng của khách hàng. Theo các nghiên cứu của các học giả khác (Pitt và cộng sự, 1996, Puledran và cộng sự, 2003; Kara và cộng sự, 2005), tác giả đã quyết định sử dụng các biện pháp chủ quan về hiệu suất. Từ đây mô hình nghiên cứu thực tiễn đo lường Định hướng Marketing qua Hiệu quả hoạt động kinh doanh có hình dạng như sau:
Hình 1.2: Mô hình nghiên cứu
Trong đó:
- H1: Cam kết của nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H2: Sự hài lòng của khách hàng có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H3: Hiệu suất tổng thể có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H4: Thị phần công ty có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H5: Doanh số bán hàng có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H6: Lợi nhuận công ty có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H7: Lợi tức đầu tư (ROI) có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H8: Lợi nhuận trên tài sản (ROA) có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing.
- H9: Lợi tức bán hàng (ROS) có ảnh hưởng tích cực đến Định hướng Marketing. Luận văn: Định hướng marketing tại Cty Hoàng Đăng Food
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Luận văn: Thực trạng marketing tại Công ty Hoàng Đăng Food