Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

Trong 10 năm trở lại đây, quy mô huy động vốn qua Thị trường chứng khoán Việt Nam  đáp ứng khoảng 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tương đương gần 60% so với cung tín dụng qua thị trường tiền tệ – tín dụng. Điều này cho thấy Thị trường chứng khoán tại Việt Nam đang ngày càng trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, góp phần dần hình thành một hệ thống tài chính hiện đại trên nền tảng hài hòa giữa Thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ – tín dụng.

Để đáp ứng nhu cầu ngày một phát triển của Thị trường chứng khoán Việt Nam, rất nhiều luật cũng như nghị định, thông tư hướng dẫn được sửa đổi ban hành nhằm điều chỉnh, quản lý kịp thời các hoạt động trên Thị trường chứng khoán. Khóa luận tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ tại Việt Nam sau năm 2009 (tức giai đoạn hậu khủng hoảng) nhằm tìm ra những bất cập qua đó góp ý sửa đổi bổ sung các quy định về hoạt động này để tháo gỡ khó khăn cho việc huy động vốn của các tổ chức phát hành trong giai đoạn hộ nhập kinh tế thế giới hiện nay.

LCK ra đời nhưng lại bỏ sót không điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ, đây là một thiếu sót lớn của Luật Chứng Khoán 2006, Nghị định 52/2006/NĐCP cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trong khi hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ vẫn diễn ra hàng ngày, khối lượng và giá trị ngày càng tăng, diễn ra khá phức tạp, đặt ra đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của nhà nước. Đáp ứng đòi hỏi của thực tế, ngày 23/8/2008 thủ tướng chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg về tăng cường quản lý thị trường chứng khoán. Chỉ thị quy định cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ. Nhằm cụ thể hóa chỉ thị của thủ tướng chính phủ về hoạt chào bán chứng khoán riêng lẻ quy định tại Chỉ thị số 20/2008/CT-TTg, ngày 26/11/2008 Bộ tài chính và Uỷ ban chứng khoán đã ban hành công văn 14285/BTC-UBCK hướng dẫn Chỉ thỉ thị số 20/2008/CT-TTg. Công văn đưa ra khái niệm cháo bán chứng khoán riêng lẻ, và hồ sơ báo cáo kế hoạch chào bán chứng khoán riêng lẻ. Sau một thời gian hình thành và phát triển, hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ đã xảy ra nhiều vấn đề cần sự quản lý và giám sát của nhà nước. Chính vì vậy, Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2010/NĐ-CP nhằm thắt chặt hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Tuy nhiên, sau một thời gian có hiệu lực Nghị định 01/2010/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế. Trước những vướng mắc của các cơ quan, tổ chức, cá nhân về những hạn chế trong Nghị định 01/2010/NĐ-CP về hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ đồng thời trả lời công văn của Sở kế hoạch đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 27/01/2011 Ủy ban chứng khoán đã ban hành Công văn số 350/UBCK-QLPH về việc hướng dẫn thực hiện Nghị định số 01/2010/NĐ-CP. Và cũng nhằm giải đáp một số vướng mắc trên thực tế đang gặp phải trong quá trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán riêng lẻ. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Nhằm khắc phục những thiếu sót của Luật Chứng Khoán năm 2006 và tháo gỡ những vướng mắc do Nghị định 01/2010/NĐ-CP và Nghị định 52/2006/NĐ-CP, ngày 24/11/2010 Quốc hội đã ban hành Luật số 60/2010/QH để sửa đổi bổ sung Luật Chứng Khoán năm 2006 (sau đây gọi tắt là Luật Chứng Khoán năm 2010) để thay thế. Luật Chứng Khoán sửa đổi đã bổ sung thêm quy định về điều kiện và thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ vào Luật Chứng Khoán năm 2010 tại điều 10a. Đây là lần đầu tiên hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định vào trong luật. Theo đó, nội hàm hoạt động chào bán chứng khoán bao gồm chào bán chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Kế tiếp đó, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 90/2011/NĐ-CP cụ thể hóa pháp luật điều chỉnh hoạt động dành cho chào bán trái phiếu của Doanh nghiệp mà phạm vi quy định tại Khoản 1 Điều 1 là quy định việc phát hành trái phiếu riêng lẻ trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế của Doanh nghiệp nghĩa là Chính phủ đã ban hành riêng một nghị định điều chỉnh cho hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ của Doanh nghiệp, sau đó đến Nghị định 58/2012/NĐ-CP thay thế cho Nghị định 14/2007/NĐ-CP, Nghị định 84/2010/NĐ-CP, Nghị định số 01/2010/NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chứng Khoán năm 2010. Ngày 26 tháng 06 năm 2015, Chính Phủ tiếp tục ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 58/2012/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Chứng Khoán (Khóa luận dưới đây em sẽ nói chung là Nghị định 58/2012/NĐ-CP, nếu có quy định nào được sửa đổi bổ sung và hủy bỏ bởi Nghị định 60/2015/NĐ-CP sẽ được nêu rõ).

LCK năm 2010 định nghĩa: Chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc tổ chức chào bán chứng khoán cho dưới một trăm nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc Internet.

Theo đó: Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Khoản 1 Điều 4 Nghị định 01/2010/NĐ-CP thì: “Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán cổ phần hoặc quyền mua cổ phần trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng cho một trong các đối tượng đó là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp hoặc dưới 100 nhà đầu tư không phải nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp”. Tuy nhiên khi được thay thế bởi Nghị định 58/2012/NĐ-CP và sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 60/2015/NĐ-CP thì khái niệm về chào bán cổ phần riêng lẻ lại không hề được quy định.

Khoản 4 Điều 2 Nghị định 90/2011/NĐ-CP thì: “Phát hành trái phiếu riêng lẻ là việc phát hành trái phiếu cho dưới một trăm (100) nhà đầu tư, không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp và không sử dụng phương tiện thông tin đại chúng hoặc internet”.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Nhận Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.1. Chủ thể của chào bán chứng khoán riêng lẻ

2.1.1. Quy định về chủ thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ

Về cơ bản Công ty cổ phần với đặc điểm cổ phần được chia thành mệnh giá tương đương nhau, quyền lợi của cổ đông nhận được tương ứng với số cổ phần sở hữu, mặt khác lợi thế của Công ty cổ phần so với các loại hình công ty khác là có thêm một phương thức huy động vốn là chào bán cổ phiếu. Trên thực tế những Công ty cổ phần mới thành lập thường mong muốn được thực hiện phương thức chào bán cổ phiếu riêng lẻ để huy động vốn vì chào bán cổ phiếu riêng lẻ không cần đến “vị trí – uy tín thương trường” nhiều như chào bán cổ phiếu ra công chúng. Tuy nhiên với những điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ được đặt ra thì không dễ dàng đến thế.

Trước đây theo quy định của Nghị định 01/2010/NĐ-CP thì chủ thể chào bán cổ phần riêng lẻ bao gồm: Công ty cổ phần; các Doanh nghiệp chuyển đổi thành Công ty cổ phần, ngoại trừ DN 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành Công ty cổ phần. Theo công văn 14285/BTCUBCK về thực hiện một số điều của chỉ thị 20/2008/CT-TTg thì chủ thể chào bán chứng khoán riêng lẻ bao gồm: công ty đại chúng;Công ty cổ phần chứng khoán; ngân hàng thương mại cổ phần; công ty tài chính cổ phần;Công ty cổ phần bảo hiểm; công ty không phải là Công ty cổ phần. Mặc dù quy định về các chủ thể này có điểm cụ thể nhất định tuy nhiên lại không mang tính khái quát, gói gọn được như quy định tại Nghị định 01/2010/NĐ-CP. Khi so với Nghị định 01/2010/NĐ-CP thì Điều 3 Nghị định 58/2012/NĐ-CP có sự thay đổi về chủ thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ bao gồm:Công ty cổ phần được thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp (LDN) và các văn bản pháp luật liên quan; công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) chào bán cổ phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành Công ty cổ phần. Có thể thấy, lúc này phạm vi chủ thể chào bán cổ phần riêng lẻ đã được xác định rõ ràng và cụ thể hơn. Nhưng Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung cho Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã xóa bỏ Điều 3 của Nghị định 58/2012/NĐ-CP và thay vào đó là thu hẹp hơn về đối tượng áp dụng quy định về chào bán riêng lẻ tại Nghị định 58/2012/NĐ-CP, theo đó, chỉ bao gồm công ty đại chúng và tổ chức kinh doanh chứng khoán để đảm bảo phù hợp với quy định tại Điều 123 uật Doanh nghiệp  năm 2014. Như vậy công ty chưa đại chúng không còn bị coi “ là bị bỏ quên” như ở Nghị định 58/2015/NĐCP nữa mà Chính phủ chính thức chỉ quy định hướng dẫn đối với công ty đại chúng và tổ chức kinh doanh chứng khoán mà thôi. Còn lại với các Công ty cổ phần không phải làCông ty cổ phần đại chúng thì thực hiện theo quy định tại Điều 123 luật Doanh nghiệp  năm 2014. Vì thế, các chủ thể có quyền chào bán cổ phiếu riêng lẻ bao gồm:Công ty cổ phần không phải là Công ty cổ phần đại chúng; công ty đại chúng; tổ chức kinh doanh chứng khoán (pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của tổ chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính không nằm trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ chủ yếu được Doanh nghiệp thực hiện khi tiến hành thành lập hoặc tiến hành huy động vốn:

  • Khi thành lập

CTCP có hai dạng chính là dạng được đăng ký từ khi đăng ký kinh doanh hoặc do kết quả của quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu, loại hình công ty.

Khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập tiến hành góp vốn, mua cổ phần. Các cổ đông có thể cùng nhau mua toàn bộ cổ phần hoặc chào bán cổ phần ra bên ngoài để bảo đảm góp đủ số vốn cần thiết. Luật Doanh Nghiệp năm 2014 (LDN năm 2014) quy định cụ thể, chi tiết hoạt động góp vốn, mua cổ phần, chào bán, thanh toán cổ phần… của cổ đông sáng lập khi thành lập Công ty cổ phần.

Điều 119 luật Doanh nghiệp  năm 2014 quy định: “Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán tại thời điểm đăng ký Doanh nghiệp”. Như vậy, tại thời điểm tiến hành đăng ký kinh doanh Công ty cổ phần đã thực hiện hoạt động chào bán cổ phần của công ty cho các thành viên sáng lập hoặc ngoài thành viên sáng lập với mục đích đáp ứng số vốn đăng ký điều lệ. Hoạt động chào bán cổ phần này thực chất chính là hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ.

  • Khi tăng vốn điều lệ

Trước khi Nghị định 01/2010/NĐ-CP được thay thế, khó khăn đối với Doanh nghiệp không chỉ đơn giản là việc nắm bắt, tuân thủ những quy định thường xuyên thay đổi, khó dự báo mà trực tiếp và dễ thấy hơn trong trường hợp này đó là những thiệt hại về tiền, về kinh tế từ những quy định hạn chế nói trên. Vì vậy, để tránh việc lúng túng như trong việc áp dụng Nghị định 01/2010 và quy định liên quan… Doanh nghiệp chỉ biết chờ, trong lúc các kế hoạch huy động vốn, tăng vốn, các dự án đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh cần vốn cũng chờ theo, thiệt hại về kinh tế là điều khó tránh khỏi.

Trong quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh của mình Công ty cổ phần có quyền thực hiện thêm nhiều đợt chào bán cổ phần của mình để huy động thêm vốn với mục đích mở rộng kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tư, tìm kiếm và giữ chân các đối tác chiến lược của công ty. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Hiện nay, Điều 122 luật Doanh nghiệp  năm 2014 quy định: “Chào bán cổ phần là việc công ty tăng thêm số lượng cổ phần được quyền chào bán và bán các cổ phần đó trong quá trình hoạt động để tăng vốn điều lệ. Chào bán cổ phần có thể thực hiện theo một trong các hình thức sau đây: (a) Chào bán cho các cổ đông hiện hữu; (b) Chào bán ra công chúng; (c) Chào bán cổ phần riêng lẻ.

Điều 124 luật Doanh nghiệp  năm 2014 cũng quy định về việc chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu. Như vậy, hành vi này cũng có một phần bản chất của hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ (được hiểu là chào bán trong nội bộ công ty) vì đối tượng được chào bán là các cổ đông hiện hữu, không có sự tham gia của nhà đầu tư bên ngoài (Trừ trường hợp số lượng cổ phần dự kiến chào bán không được cổ đông và người nhận chuyển quyền ưu tiên mua đăng ký mua hết thì Hội đồng quản trị có quyền bán số cổ phần được quyền chào bán còn lại đó cho cổ đông của công ty hoặc người khác theo cách thức hợp lý với điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã chào bán cho các cổ đông). Quy định này góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông chiến lược khi Doanh nghiệp chào bán chứng khoán riêng lẻ.

 Về hạn chế đối tượng chào bán riêng lẻ: Cụ thể, theo quy định tại Nghị định 60/2015/NĐ-CP đối với chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy cổ phiếu của Công ty cổ phần chưa đại chúng hoặc chào bán cho một hoặc một số cổ đông xác định để hoán đổi cổ phiếu của công ty đại chúng khác hoặc chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy phần vốn góp tại công ty TNHH thì tổ chức phát hành không phải là công ty mẹ của tổ chức được chào bán cổ phiếu; hoặc cả hai tổ chức này không phải là các công ty con của cùng một công ty mẹ. Đây là một quy định hợp lý. Việc xác định mối quan hệ mẹ – con giữa hai Doanh nghiệp không quá khó khăn nhờ các thông tin trên báo cáo tài chính của công ty đại chúng. Tuy nhiên, mối quan hệ “anh – em”, các công ty con của cùng một công ty mẹ lại hiếm khi được công khai nếu công ty mẹ không có nghĩa vụ công bố thông tin. Việc phát hành cổ phiếu, đặc biệt trường hợp phát hành cổ phiếu cấn trừ công nợ, không hiếm trường hợp xuất hiện nhà đầu tư được chào bán là “người quen” của tổ chức phát hành. Việc hạn chế các đối tượng có liên quan tới tổ chức phát hành (gồm công ty con của tổ chức phát hành và các công ty cùng công ty mẹ với tổ chức phát hành) sẽ giúp hạn chế dòng vốn chạy vòng quanh và những rủi ro do sở hữu chéo.

2.1.2. Quy định về chủ thể chào bán trái phiếu riêng lẻ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Theo quy định của luật Doanh nghiệp  và pháp luật khác có liên quan thì chủ thể chào bán trái phiếu riêng lẻ bao gồm:Công ty cổ phần, công ty nhà nước, công ty TNHH, Chính phủ, Chính quyền địa phương với quyền năng chào bán trái phiếu riêng lẻ khác nhau. Chính phủ cũng như chính quyền đia phương chào bán trái phiếu riêng lẻ phục vụ cho đầu tư phát triển, bù đắp thiếu hụt tạm thời cho ngân sách nhà nước. Hoạt động chào bán trái phiếu của các chủ thể này thường có quy định riêng, không thuộc phạm vi nghiên cứu của khóa luận. Trong đó, công ty TNHH có phần vốn góp được chia thành nhiều phần bằng nhau nhưng không thể hiện dưới hình thức cổ phần và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài (Điều kiện chuyển nhượng vốn góp nội bộ theo Điều 53 luật Doanh nghiệp  năm 2014). Chủ thể này không được huy động vốn bằng chào bán cổ phiếu. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động công ty TNHH được chào bán trái phiếu để tăng vốn vay.

Như vậy, so với chào bán cổ phiếu riêng lẻ thì hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ có phạm vi chủ thể chào bán rộng hơn.

2.2. Quy định về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

2.2.1. Quy định về điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ

Trước đây, Điều 8 Nghị định 01/2010 có quy định điều kiện chào bán cổ phần riêng lẻ gồm: (a) Là Doanh nghiệp thuộc đối tượng quy định tại Điều 2 Nghị định này (CTCP; các Doanh nghiệp chuyển đổi thành Công ty cổ phần, ngoại trừ các Doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chuyển đổi thành Công ty cổ phần). (b) Có quyết định thông qua phương án chào bán cổ phần riêng lẻ và phương án sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị theo Điều lệ công ty hoặc ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông cho Hội đồng quản trị (đối với Công ty cổ phần); hoặc Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty (đối với công ty TNHH chuyển thành Công ty cổ phần); hoặc chủ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, Hội đồng quản trị Doanh nghiệp liên doanh (đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần); Phương án chào bán phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu tư được chào bán dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng 01 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán; Trường hợp chào bán cho các đối tác chiến lược, tổ chức chào bán phải xây dựng tiêu chí xác định, lựa chọn đối tác chiến lược. Đối tác chiến lược là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có năng lực tài chính, quản trị Doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với Doanh nghiệp; Những người có quyền lợi liên quan đến đợt chào bán riêng lẻ không được tham gia biểu quyết thông qua Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông về việc này. (c) Có hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ đầy đủ và hợp lệ theo quy định tại Điều 9 Nghị định này gửi tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền chậm nhất 20 ngày trước ngày dự kiến thực hiện việc chào bán, trừ trường hợp pháp luật chuyên ngành có quy định khác. (d) Trường hợp tổ chức chào bán là Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực ngành, nghề kinh doanh có điều kiện, ngoài việc phải đáp ứng các quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều này, phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan. (e) Các đợt chào bán riêng lẻ phải cách nhau ít nhất sáu tháng.

(f) Đảm bảo tuân thủ các quy định về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư, trong trường hợp có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Với những quy định đó thấy rằng pháp luật Việt Nam vẫn còn nặng nề trong các yêu cầu về thủ tục hành chính mà một Công ty cổ phần phải thực hiện khi chào bán cổ phần riêng lẻ. Theo nguyên lý nói trên thì quyền chào bán cổ phần là quyền có tính chất tự nhiên, tạo nên đặc trưng của Công ty cổ phần. Do đó, pháp luật chỉ nên can thiệp vào quyền này ở một mức độ nhất định nếu việc chào bán riêng lẻ đã được nhận diện thông qua mối quan hệ giữa công ty chào bán và hầu hết các nhà đầu tư (thông thường là người lao động trong công ty, cổ đông hiện hữu của công ty hoặc các nhà đầu tư có mối quan hệ kinh doanh với công ty). Lãnh đạo một công ty chứng khoán cho biết: “Nhiều năm trở về trước, khi tiếp xúc Doanh nghiệp, các nhà đầu tư tổ chức đều tỏ ý sẵn sàng làm nhà đầu tư dài hạn, đối tác tin cậy của Doanh nghiệp. Nhưng với diễn biến của Thị trường chứng khoán thời gian vừa qua, các nhà đầu tư tổ chức ngần ngại đưa ra cam kết đầu tư dài hạn”. Nguyên nhân là gì? Là bởi thời hạn một năm là quá dài và có thể xuất hiện nhiều rủi ro. Vì vậy, thay vì tham gia mua cổ phần phát hành riêng lẻ, nhà đầu tư chuyển sang mua chứng khoán trên thị trường tập trung hoặc tập trung vào kênh đầu tư khác để vừa tránh được rủi ro thanh khoản, vừa không bị hạn chế thời gian chuyển nhượng. Như vậy, rõ ràng quy định này đang ảnh hưởng đến kế hoạch huy động vốn của hàng chục ngàn Công ty cổ phần.

Về việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối thiểu trong vòng một năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán riêng lẻ thì vừa có ưu điểm lẫn hạn chế nhất định. Một mặt nó khắc phục vấn đề Doanh nghiệp chào bán cổ phiếu để trở thành công ty đại chúng dù chưa đủ điều kiện; một mặt lại khiến Doanh nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề thu hút vốn đầu tư và là quá dài để Doanh nghiệp gặp rủi ro; hạn chế về tính khả thi của phương án chào bán cổ phần dù là cổ đông hiện hữu hay cổ đông mới, làm mất đi sức hấp dẫn của Thị trường chứng khoán riêng lẻ. Cổ phần được chào bán là để huy động thêm vốn cho Công ty cổ phần phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của Doanh nghiệp, việc có thay đổi cổ đông sau đó do chuyển nhượng không ảnh hưởng gì đến nguồn vốn và hoạt động của Công ty cổ phần. Nhà đầu tư có chuyển nhượng hay không thì tiền từ đợt chào bán cổ phần cũng là tiền của Công ty cổ phần nên ai nắm giữ cổ phần rõ ràng không ảnh hưởng đến số tiền đó.

Quy định về các đợt chào bán cách nhau ít nhất 06 tháng đồng nghĩa với một Doanh nghiệp đủ điều kiện hoàn toàn chỉ có quyền chào bán hai đợt cổ phần riêng lẻ trong một năm mà nhu cầu huy động vốn lại không như thế.

Như vậy, Nghị định 01/2010/NĐ-CP đã bộc lộ nhiều bất cập và cần phải thay thế. Do đó, Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã ra đời. Về cơ bản thì Nghị định 58/2012/NĐ-CP một mặt hầu như kế thừa tinh thần của các Nghị định 14/2007/NĐ-CP, Nghị định 84/2010/NĐ-CP, Nghị định số 01/2010/NĐ-CP một mặt dựa theo Luật Chứng Khoán năm 2010. Để khắc phục những hạn chế trước đó đã quy định điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ với ba trường hợp cụ thể đó là: (i)Công ty cổ phần chưa đại chúng; (ii) Công ty đại chúng; (iii) công ty TNHH chào bán cổ phiếu riêng lẻ để chuyển đổi thành Công ty cổ phần. Tuy nhiên sang đến Nghị định 60/2015/NĐCP chỉ quy định về điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng, gồm: (i) Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng; (ii) Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ để hoán đổi các khoản nợ của công ty đại chúng; (iii) Điều kiện chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy cổ phiếu của Công ty cổ phần chưa đại chúng hoặc chào bán cho một hoặc một số cổ đông xác định để hoán đổi cổ phiếu của công ty đại chúng khác hoặc chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy phần vốn góp tại công ty TNHH; (iv) Điều kiện tổ chức kinh doanh chứng khoán. Mà theo Điều 123 luật Doanh nghiệp  năm 2014 lại không có quy định về điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ của Công ty cổ phần không phải là Công ty cổ phần đại chúng mà chỉ quy định về hồ sơ và thủ tục của loại hình này. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Đối với các tổ chức phát hành là công ty đại chúng, Nghị định 60/2015/NĐ-CP cũng xóa bỏ các quy định về hạn chế chuyển nhượng trong thời hạn tối thiểu 01 năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán cho một số nhà đầu tư nhất định như Nghị định 58/2012/NĐ-CP, bao gồm: cán bộ công nhân viên Doanh nghiệp, chuyển nhượng giữa cá nhân với nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, giữa nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp với nhau, theo quyết định của Tòa Án hoặc kế thừa theo quy định của pháp luật. Mặc dù, quy định về thời hạn được phép thực hiện đợt chào bán tiếp theo vẫn là cách nhau ít nhất 06 tháng. Nếu tiếp cận từ nhu cầu về vốn của Doanh nghiệp thì nhận thấy quy định này cần được xóa bỏ và sửa đổi thành một thời hạn hợp lý hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho Doanh nghiệp phát triển bởi nguồn vốn Doanh nghiệp cần là luôn luôn và liên tục, hôm nay Doanh nghiệp có một cơ hội đầu tư, họ chào bán cổ phần huy động vốn và bố trí được nguồn vốn nắm bắt được cơ hội đầu tư đó và có thể là ngay ngày mai họ có một cơ hội đầu tư khác tiếp tục cần vốn để triển khai họ sẽ phải chờ sáu tháng sau để chào bán cổ phần huy động vốn. Rõ ràng, hạn chế này triệt tiêu cơ hội đầu tư của các Doanh nghiệp.

So với quy định tại Điều 114 luật Doanh nghiệp  năm 2014 thì việc quy định về thời gian chuyển nhượng là 01 năm có mâu thuẫn như sau: đó là luật Doanh nghiệp  năm 2014 đề cao tính tự do chuyển nhượng cổ phần giữa các cổ đông (trừ các trường hợp: Trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho cổ đông sáng lập khác và chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông. Trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó; Điều lệ công ty có quy định hạn chế chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp Điều lệ công ty có quy định hạn chế về chuyển nhượng cổ phần thì các quy định này chỉ có hiệu lực khi được nêu rõ trong cổ phiếu của cổ phần tương ứng.) Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Thêm vào đó, điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng được bổ sung những quy định quan trong liên quan đến nhà đầu tư như sau: Phương án chào bán và sử dụng vốn phải xác định rõ mục đích, nhà đầu tư được chào bán hoặc tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chào bán, số lượng nhà đầu tư và quy mô dự kiến chào bán. Trong các trường hợp dưới đây, phương án phải xác định rõ nhà đầu tư được chào bán để Đại hội đồng cổ đông thông qua và chỉ được thay đổi sau khi được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận: (a) Chào bán cho một tổ chức, cá nhân hoặc một nhóm tổ chức, cá nhân và người có liên quan của tổ chức, cá nhân đó dân đến tỷ lệ sở hữu của các đối tượng này vượt mức sở hữu được quy định tại Khoản 11 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; (b) Chào bán cho một tổ chức, cá nhân hoặc một nhóm tổ chức, cá nhân và người có liên quan của tổ chức, cá nhân đó từ 10% trở lên vốn điều lệ của tổ chức phát hành trong một đợt chào bán hoặc trong các đợt chào bán trong 12 tháng gần nhất. Các quy định này là hoàn toàn hợp lý, chứng tỏ Chính phủ đã bước đầu có những quy định quyết liệt hơn trong việc thắt chặt quy định đối với nhà đầu tư.

Nghị định 60/2015/NĐ-CP còn quy định điều kiện đối với chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy cổ phiếu của Công ty cổ phần chưa đại chúng hoặc chào bán cho một hoặc một số cổ đông xác định để hoán đổi cổ phiếu của công ty đại chúng khác hoặc chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy phần vốn góp tại công ty TNHH. Về cơ bản thì thời hạn chuyển nhượng vẫn là 01 năm và thời gian chào bán cổ phiếu riêng lẻ vẫn cách nhau ít nhất 06 tháng – Quy định này tượng tự như phân tích trên cần được thay đổi. Ngoài ra còn hạn chế chủ thể phát hành là: “Tổ chức phát hành không phải là công ty mẹ của công ty có cổ phần hoặc phần vốn góp được hoán đổi; hoặc cả hai tổ chức này không phải là các công ty con của cùng một công ty mẹ”. Như đã phân tích trong phần quy định chủ thể chào bán cổ phiếu riêng lẻ bên trên, quy định này là hợp lý. Theo Nghị định 60/2015/NĐ-CP, hoạt động này phải có “sự góp mặt” của kiểm toán. Cụ thể, khoản nợ được phép hoán đổi phải là khoản nợ đã được trình bày trong báo cáo tài chính kiểm toán gần nhất. Đối với phát hành cổ phiếu hoán đổi, báo cáo tài chính của công ty góp vốn được hoán đổi phải được kiểm toán với ý kiến chấp thuận toàn bộ, không ngoại trừ. Đây là quy định hợp lý thể hiện được việc nhà nước dần quan tâm đến loại hình công ty chưa đại chúng hơn trước đây. Ví dụ như trong trường hợp Công ty cổ phần Đức Long Gia Lai phát hành cổ phiếu hoán đổi cổ phần của Mass Noble, Mass Noble phải cung cấp được báo cáo tài chính kiểm toán với ý kiến chấp thuận toàn bộ. Thương vụ phát hành cổ phiếu SHN hoán đổi cổ phần của Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư An Bình (ABG) thực hiện vào quý III/2015, ABG cũng cần cung cấp báo cáo tài chính kiểm toán mới đáp ứng điều kiện phát hành.

Nhìn chung thì Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi đã quy định cụ thể và chi tiết hơn về điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ so với Nghị định 58/2012/NĐ-CP và thay đổi để phù hợp với luật Doanh nghiệp  năm 2014. Có thể thấy, quy định về điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ nằm rải rác và còn có chồng chéo mâu thuẫn đối với luật Doanh nghiệp  năm 2014. So với điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng theo quy định thì điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ hiện nay ngày càng được quy định chi tiết và có phần tối giản chủ thể, cụ thể về điều kiện hơn so với những quy định mang tính chất “khái quát và nhiều chủ thể” trong Nghị định 58/2012/NĐ-CP.

2.2.2. Quy định về điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Trước đây, Điều 17 của Nghị định 52/2006/NĐ-CP quy định Doanh nghiệp chỉ được phát hành trái phiếu riêng lẻ khi có đủ các điều kiện sau: (i) Là Doanh nghiệp thuộc đối tượng phát hành trái phiếu riêng lẻ; (ii) Có thời gian hoạt động tối thiểu trong 01 năm kể từ ngày Doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động; (iii) Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán. Tuy nhiên để đảm bảo báo cáo tài chính của Doanh nghiệp là một văn bản có tính trung thực cao cần có những quy định về tiêu chuẩn kiểm toán và tổ chức kiểm toán; (iv) Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi; (v) Có phương án phát hành trái phiếu được các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua.

Sau đó, Nghị định 52/2006/NĐ-CP được thay thế bởi Nghị định 90/2011/NĐ-CP bởi bộc lộ một số bất cập. Theo Điều 13 Nghị định 90/2011/NĐ-CP quy định điều kiện phát hành trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp như sau:

Đối với trái phiếu không chuyển đổi:

(i) Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là một (01) năm kể từ ngày Doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động; đối với việc phát hành trái phiếu để đầu tư cho các chương trình, dự án, Doanh nghiệp phát hành phải đảm bảo duy trì tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu là 20% trong tổng mức đầu tư của chương trình, dự án (khoản 4 Điều 4);

Quy định về thời gian hoạt động của Doanh nghiệp tối thiểu là một năm là hoàn toàn hợp lý để đảm bảo quyền của nhà đầu tư. Với bản chất là chứng khoán nợ, khi nhà đầu tư sở hữu trái phiếu trong tay họ phải được đảm bảo về khả năng trả nợ.

Việc quy định thời gian hoạt động tối thiểu như trên vừa thúc đẩy nhà đầu tư mua trái phiếu tăng khả năng về vốn cho Doanh nghiệp vừa phù hợp với nguyên tắc phát hành trái phiếu Doanh nghiệp từ đó nâng cao ý thức của Doanh nghiệp với khoản vốn vay và việc sử dụng vốn. Mục đích của những quy định này nhằm đảm bảo tính thanh khoản cũng như chất lượng của trái phiếu. Nếu so sánh với quy định về chào bán trái phiếu ra công chúng tại Luật Chứng Khoán năm 2010 thì điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ có một điểm khác cơ bản: không quy định mức vốn tối thiểu của Doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Đây là một điểm khá phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam: chủ yếu các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, mức vốn điều lệ thấp. Nếu quy định điều kiện trên thì các chủ thể này khó có khả năng huy động nguồn vốn thông qua trái phiếu. Điều này sẽ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh. Thêm vào đó hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ chỉ được thực hiện trong một bộ phận công chúng, không phải thông báo công khai nên chỉ cần Doanh nghiệp đảm bảo khả năng trả nợ cho nhà đầu tư là được. Quy định này nhằm bảo đảm các Doanh nghiệp phải có năng lực tài chính, có khả năng trả nợ mới được phát hành trái phiếu để huy động vốn. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Bên cạnh đó, Nghị định 90/2011/NĐ-CP yêu cầu Doanh nghiệp phát hành phải có 20% vốn tự có trong dự án huy động vốn, nhưng Thông tư 211/2012/TT-BTC cũng không giải thích được là yêu cầu 20% vốn này được tính tại thời điểm phát hành, phải duy trì trong quá trình thực hiện dự án, hay tính tại thời điểm dự án kết thúc.

(ii) Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Báo cáo tài chính được kiểm toán của Doanh nghiệp phát hành phải là báo cáo kiểm toán nêu ý kiến chấp nhận toàn phần. Trường hợp Doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01 tháng 4 hàng năm chưa có báo cáo tài chính năm của năm liền kề được kiểm toán thì phải có: (a) Báo cáo tài chính được kiểm toán của năm trước năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi; (b) Báo cáo tài chính quý gần nhất với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được kiểm toán (nếu có); (c) Báo cáo tài chính của năm liền kề với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi được Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty phê duyệt theo Điều lệ hoạt động của công ty.

Dễ dàng thấy được vấn đề về điều kiện “Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi theo báo cáo tài chính được kiểm toán bởi Kiểm toán Nhà nước hoặc tổ chức kiểm toán độc lập được phép hoạt động hợp pháp tại Việt Nam” thì bộc lộ rõ bất cập từ thực tế thực hiện Nghị định số 52/2006/NĐ-CP cho thấy đa số các Doanh nghiệp không đủ điều kiện để được phát hành trái phiếu vào quý Iý do chưa có báo cáo tài chính được kiểm toán của năm liền kề trước năm phát hành, nhất là đối với các Doanh nghiệp hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con, mặt khác, để phù hợp với quy định của các Luật liên quan có quy định về thời hạn kiểm toán (LCK, Luật các tổ chức tín dụng…) và gần như “bất khả thi” đối với các công ty non trẻ. Đến Nghị định 90/2011/NĐ-CP , mặc dù đã bổ sung thêm quy định cho các Doanh nghiệp phát hành trái phiếu trước ngày 01 tháng 04  thì cần điều kiện là Báo cáo tài chính của năm liền trước năm liền kề có lãi,… quy định này vẫn không khác gì việc làm khó doanh nghiệp. Như vậy có hai vấn đề đặt ra là: “có lãi” thì làm khó doanh nghiệp trong điều kiện kinh doanh mang tính duy trì là phần nhiều và “báo cáo tài chính qua kiểm toán” thì ngay cả những Doanh nghiệp lớn cũng bị vướng với báo cáo kiểm toán “sạch”, đặc biệt là những Doanh nghiệp có nhiều công ty con. Nhiều công ty mẹ dù có báo cáo riêng lẻ “sạch”, nhưng báo cáo hợp nhất lại bị kiểm toán viên nêu ý kiến ngoại trừ chỉ vì một trong các công ty con, dẫn tới kết quả là công ty mẹ không thể phát hành trái phiếu Doanh nghiệp. Vì thế, quy định kiểm toán cần đi đôi với thanh tra, giám sát. Đồng thời các Doanh nghiệp cũng cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ, kiểm soát nội bộ.

Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền, Doanh nghiệp phát hành ngoài việc đáp ứng các điều kiện về trái phiếu không chuyển đổi nêu trên còn phải đáp ứng một số điều kiện trong đó có điều kiện: Các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất sáu (06) tháng. Quy định này thay đổi để phù hợp với Luật Chứng Khoán hiện hành và được xem là hợp lý tránh trường hợp các Doanh nghiệp lạm dụng hoán đổi nợ thành cổ phần. Từ đó nảy sinh ra vấn đề cần có quy định về kiểm soát và xác thực các khoản nợ để đảm bảo. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Có thể nói, sang đến Nghị định 90/2011/NĐ-CP có thế thấy được sự rõ ràng và chi tiết hơn trong mỗi quy định đồng thời bổ sung thêm một số yếu tố như: Báo cáo tài chính của năm trước năm liền kề, quý liền kề, sự kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước,… Nhằm nâng cao trách nhiệm của Doanh nghiệp khi huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư mua trái phiếu của doanh nghiệp, Nghị định 90/2011/NĐ-CP đã quy định các điều kiện phát hành trái phiếu Doanh nghiệp theo hướng chặt chẽ hơn so với quy định hiện hành. Tuy nhiên, Nghị định 90/2011/NĐ-CP cũng bất lộ quá nhiều điểm hạn chế sau 5 năm thực hiện. Đó là những hạn chế về điều kiện phát hành trái phiếu được coi là “quá chặt” đối với Doanh nghiệp. Và lẽ dĩ nhiên, “chặt” quá sẽ dẫn đến “không minh bạch”. Doanh nghiệp sẽ “làm đẹp” kết quả kinh doanh để được phép phát hành trái phiếu. Nói cách khác, tính minh bạch của thị trường vô tình bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi các quy định quá chặt. Cần trả lời câu hỏi: Vậy có cần thiết phải quy định cần có báo cáo tài chính năm liền kề trước năm phát hành phải có lãi hay không?.

Vì thế việc rà soát lại và ban hành văn bản thay thế cho Nghị định 90/2011/NĐ-CP đã không phải là việc “được quyền” chậm trễ nữa.

2.3. Phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ

2.3.1. Phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ

LDN năm 2014 quy định, phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ được thực hiện theo quy định của Luật Chứng Khoán. Mà Luật Chứng Khoán năm 2010 không quy định cụ thể phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ gồm những phương thức nào. Nghị định 01/2010/NĐ-CP chỉ nêu rằng: Chào bán cổ phần riêng lẻ là việc chào bán hay quyền mua cổ phần trực tiếp. Nhưng Nghị định 58/2012/NĐ-CP, Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung cũng lại không hề có quy định hay bất cứ khái niệm nào có thể ngầm hiểu về phương thức chào bán cổ phần riêng lẻ mà chỉ quy định phương thức này phải được thông qua bởi Đại hội đồng cổ đông. Cổ phần của Doanh nghiệp bao gồm: Cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi (Cổ phần ưu đãi biểu quyết; Cổ phần ưu đãi cổ tức; Cổ phần ưu đãi hoàn lại; Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định). Ví dụ như với công ty đại chúng có nguyên tắc chào bán công khai. Trong đó có hai hoạt động được hiểu là chào bán cổ phiếu riêng lẻ đó là việc mua cổ phần của cổ đông sáng lập và chào bán cho cổ đông hiện hữu. Phương thức chào bán hầu như được hiểu là chào bán trực tiếp.

Như vậy có thể hiểu theo như pháp luật hiện hành rằng chào bán cổ phiếu riêng lẻ có thể chào bán theo tất cả các phương thức như: chào bán trực tiếp, chào bán thông qua đấu giá, chào bán thông qua đấu thầu, chào bán thông qua bảo lãnh phát hành, chào bán thông qua đại lý phát hành. Quy định này xét theo tính chất và yêu cầu của hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ thì không có gì là bất hợp lý. Tuy nhiên dù sao thì ban hành hướng dẫn cụ thể thay vì “ngầm hiều” vẫn được cho là tốt hơn cả. Ở Việt Nam, chào bán cổ phần riêng lẻ thường được thực hiện bằng phương thức chào bán trực tiếp. Hay có thể nói dựa vào tính chất của Doanh nghiệp mà áp dụng phương thức chào bán phù hợp.

2.3.2. Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Theo quy định tại Nghị định số 52/2006/NĐ-CP, Doanh nghiệp phát hành trái phiếu theo một trong 3 phương thức: Đấu thầu phát hành, Bảo lãnh phát hành và Đại lý phát hành. Đến nay, Nghị định 90/2011/NĐ-CP bổ sung thêm phương thức phát hành trái phiếu của tổ chức tín dụng. Cụ thể từng phương thức được quy định trong Điều 5 Thông tư 211/2012/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 90/2011/NĐ-CP ngày 14/10/2011 của Chính phủ về phát hành trái phiếu Doanh nghiệp quy định về Phương thức phát hành trái phiếu tại thị trường trong nước.

Pháp luật Việt Nam không công nhận phương thức đấu giá trái phiếu như một số nước trên thế giới. Quy định này tương đối hợp lý và đến nay trong thực tiễn thực hiện cũng không tồn tại khó khăn nào cho Doanh nghiệp trong việc chào bán trái phiếu riêng lẻ bằng bốn phương thức kể trên.

2.4. Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ

Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán riêng lẻ bao gồm nội dung cơ bản sau: (i) Làm thủ tục đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (ii) Công bố thông tin; (iii) Phân phối chứng khoán (Việc sử dụng các phương thức sử dụng để thực hiện hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ gọi chung là phân phối chứng khoán).

2.4.1. Đối với chào bán cổ phiếu riêng lẻ

Theo đó thủ tục được quy định tại Điều 5 Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định 58/2012/NĐ-CP đó là:

(i)Tổ chức phát hành gửi hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ tới Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng được quy định chi tiết trong Nghị định 60/2015/NĐ-CP với từng mục đích chào bán khác nhau sẽ có hồ sơ khác nhau: Hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng; hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ để hoán đổi khoán nợ; hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ để hoán đổi cổ phần của Công ty cổ phần hoặc phần vốn góp tại công ty TNHH; hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức kinh doanh chứng khoán là Công ty cổ phần. Có thể thấy, hệ thống văn bản pháp luật về hồ sơ thủ tục đang dần được chi tiết hóa. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

(ii)Trường hợp hồ sơ đăng ký chào bán riêng lẻ chưa đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 5 ngày (trước đây là 10 ngày) kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phải có ý kiến bằng văn bản yêu cầu tổ chức phát hành bổ sung, sửa đổi hồ sơ. Thời gian nhận hồ sơ đầy đủ và hợp lệ được tính từ thời điểm tổ chức phát hành hoàn thành việc bổ sung, sửa đổi hồ sơ.

(iii)Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầy đủ và hợp lệ, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước thông báo cho tổ chức phát hành và công bố trên trang thông tin điện tử xác nhận việc đã tiếp nhận đầy đủ hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức phát hành.

(iv)Tổ chức phát hành phải mở một tài khoản phong tỏa và tiếp nhận vốn huy động theo quy định tại Khoản 3 Điều 21 Luật Chứng Khoán (Tiền mua chứng khoán phải được chuyển vào tài khoản phong toả mở tại ngân hàng cho đến khi hoàn tất đợt chào bán và báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước), trừ trường hợp chào bán để hoán đổi các khoản nợ, hoặc để hoán đổi lấy cổ phần hoặc phần vốn góp tại công ty khác.

Quy định về tài khoản phong tỏa đã loại bỏ đi nhiều khe hở nên việc giám sát số vốn thực góp làm cho việc giám sát của Nhà nước gặp nhiều khó khăn trước đây bởi khi không có các quy định về tài khoản phong tỏa đối với chào bán cổ phần riêng lẻ thì việc giám sát sử dụng vốn từ các đợt huy động vốn lớn là không thể rõ ràng. Tuy nhiên thì quy định áp dụng mở tài khoản phong tỏa vẫn nên áp dụng cho cả trường hợp chào bán để hoán đổi các khoản nợ, như vậy thì việc quản lý sẽ dễ dàng hơn.

(v)Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành gửi báo cáo kết quả đợt chào bán theo Mẫu số 02 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 58/2012/NĐ – CP cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, kèm theo xác nhận của ngân hàng thương mại nơi mở tài khoản phong tỏa về số tiền thu được từ đợt chào bán. Đối với các trường hợp chào bán cổ phiếu riêng lẻ để hoán đổi các khoản nợ của công ty đại chúng; chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy cổ phiếu của Công ty cổ phần chưa đại chúng hoặc chào bán cho một hoặc một số cổ đông xác định để hoán đổi cổ phiếu của công ty đại chúng khác hoặc chào bán cổ phiếu để hoán đổi lấy phần vốn góp tại công ty TNHH, báo cáo kết quả chào bán phải được gửi kèm theo văn bản xác nhận của các bên tiếp nhận cổ phần hoán đổi. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Quy định này được coi là hợp lý bởi các bước và những hồ sơ yêu cầu cần có đều có. Những tài liệu này đảm bảo được sự quản lý, giám sát của nhà nước trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của Doanh nghiệp. Thời gian thủ tục thì được tối giản hơn cho Doanh nghiệp.

Điều 123 luật Doanh nghiệp  năm 2014 về Chào bán cổ phần riêng lẻ quy định về việc chào bán cổ phần riêng lẻ của Công ty cổ phần không phải là Công ty cổ phần đại chúng gồm:

(i)Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định chào bán cổ phần riêng lẻ, công ty phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ với Cơ quan đăng ký kinh doanh. Kèm theo thông báo chào bán cổ phần riêng lẻ phải có các tài liệu sau đây: (a) Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông về chào bán cổ phần riêng lẻ; (b) Phương án chào bán cổ phần riêng lẻ đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua (nếu có).

So sánh với Nghị định 58/2012/NĐ-CP sửa đổi bổ sung bởi Nghị định 60/2015/NĐ-CP thấy rằng luật Doanh nghiệp  năm 2014 đã chính thức nới “lỏng” hơn cho các Công ty cổ phần không phải là Công ty cổ phần đại chúng với việc cung cấp “Phương án chào bán cổ phần riêng lẻ” – không bắt buộc có và hơn nữa lại không quy định thêm về tài liệu kèm theo là phương án sử dụng vốn. Tuy nhiên, chính sự “lỏng” này lại không cần thiết và có thể là nguồn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhà đầu tư, ảnh hưởng đến quản lý của nhà nước. Phương án chào bán và sử dụng vốn chưa bao giờ được coi là thừa đối với các chủ thể mua và sự giám sát của các chủ thể khác có thẩm quyền. Tài liệu cần được quy định là bắt buộc đối với mọi loại hình công ty, mọi hình thức công ty kể cả quy mô có nhỏ hay không chuyên nghiệp đi chăng nữa. Có vậy thì các Doanh nghiệp mới không “vin” vào các quy định này để tránh “lách” luật.

Trước đây Nghị định 01/2010/NĐ-CP chỉ quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ chào bán chứng khoán riêng lẻ phải được niêm yết tại cơ quan có thẩm quyền mà không có hướng dẫn cụ thể dẫn đến hàng ngàn doanh nghiệp đang “tắc” trong quá trình phát hành chứng khoán riêng lẻ, đặc biệt là các công ty chưa phải là công ty đại chúng. Các cơ quan áp dụng thì vẫn phải từ chối hồ sơ của doanh nghiệp và nghe những lời phàn nàn từ phía doanh nghiệp. Nhiều cơ quan gửi đơn lên cơ quan cấp trên để xin hướng dẫn, như trường hợp sở kế hoạch đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi công văn lên Bộ kế hoạch đầu tư. Tuy nhiên, câu trả lời vẫn là chờ hướng dẫn của Chính phủ, một số cơ quan đang cố vận dụng các quy định pháp luật tương tự nhằm giải quyết. Nhưng tất cả chỉ là giải pháp tạm thời. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Do vậy, Nghị định 58/2012/NĐ-CP đã sửa đổi và bổ sung được thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ đăng ký chào bán cổ phần riêng lẻ, theo đó: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý chào bán cổ phần riêng lẻ (sau đây gọi chung là cơ quan nhà nước có thẩm quyền) bao gồm: (i) Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: trong trường hợp tổ chức chào bán cổ phần riêng lẻ là tổ chức tín dụng (nghĩa là các tổ chức tín dụng không phải là công ty đại chúng); (ii) Bộ Tài chính: trong trường hợp tổ chức chào bán là Doanh nghiệp bảo hiểm cổ phần (nghĩa là đối với các Doanh nghiệp bảo hiểm không phải là công ty đại chúng); (iii) Ủy ban Chứng khoán Nhà nước: trong trường hợp tổ chức chào bán là Công ty cổ phần chứng khoán,Công ty cổ phần quản lý quỹ, công ty đại chúng (trừ các công ty đại chúng là Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tín dụng, bảo hiểm); (iv) Sở Kế hoạch và Đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế: trong trường hợp tổ chức chào bán là Công ty cổ phần không thuộc đối tượng trên. Vì thế nên tạo được thuận lợi cho các Doanh nghiệp khi nộp hồ sơ, không còn nhận được câu trả lời là “chờ hướng dẫn của Chính phủ” như trước đó với Nghị định 01/2010/NĐ-CP nữa. Nghị định 58/2012/NĐ-CP ra đời quy định cụ thể thủ tục, hồ sơ áp dụng đối với hai loại hình là Công ty cổ phần đại chúng và Công ty cổ phần chưa đại chúng đã tháo gỡ được khúc mắc trong khâu thực hiện này được rõ ràng, cụ thể hơn; bên cạnh đó còn bổ sung được trình tự, thủ tục đăng ký chào bán riêng lẻ góp phần đẩy nhanh quá trình chào bán cổ phiếu riêng lẻ của các Công ty cổ phần. Tuy nhiên, Nghị định 58/2012/NĐ-CP mới chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm quyền tiếp nhận, thủ tục cơ bản, hồ sơ cơ bản còn hướng dẫn cụ thể về thủ tục tiếp nhận và xử lý hồ sơ như thế nào vẫn chưa rõ ràng; điều này cũng xảy ra tương tự đối với Nghị định 60/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung cho Nghị định 58/2012/NĐ-CP.

Đối với công ty TNHH thực hiện chào bán chứng khoán riêng lẻ để thành CTCP thì mặc dù đã tạo cơ sở chuyển đổi là Điều 196 luật Doanh nghiệp  năm 2014 (Chuyển đổi thành công ty cổ phần bằng cách bán toàn bộ hoặc một phần phần vốn góp cho một hoặc một số tổ chức, cá nhân khác) nhưng cũng chính luật Doanh nghiệp  năm 2014 lại lại không quy định về điều kiện, phương thức cũng như thủ tục chào bán, cơ quan tiếp nhận cụ thể để chuyển đổi các Doanh nghiệp này. Vì thế, xét thấy cần phải ban hành quy định cụ thể về thủ tục chào bán để chuyển đổi công ty TNHH thành Công ty cổ phần thông qua chào bán cổ phần riêng lẻ như thế nào. Uỷ ban chứng khoán nhà nước mới chỉ hướng dẫn các bước như: (Bước 1): Tổ chức phát hành gửi hồ sơ đăng ký chào bán tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Sở Kế hoạch và Đầu tư; Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế). Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

(Bước 2): Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận hồ sơ trong giờ hành chính các ngày làm việc, kiểm tra, thẩm định hồ sơ. Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ và hợp lệ, trong thời hạn 10 ngày, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ có ý kiến bằng văn bản yêu cầu tổ chức phát hành bổ sung, sửa đổi hồ sơ. (Bước 3): Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầy đủ và hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông báo cho tổ chức đăng ký phát hành và công bố trên trang thông tin điện tử về việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức đăng ký. (Bước 4): Trong vòng 10 ngày kể từ khi hoàn thành đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo kết quả chào bán cổ phiếu riêng lẻ theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Nghị định số 58/2012/NĐ-CP cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này cũng xảy ra tương tự đối với thủ tục được quy định tại Khoản 3,4,5 Điều 196 luật Doanh nghiệp  năm 2014.

Về vấn đề công bố thông tin, Điều 101 Luật Chứng Khoán năm 2010 mới chỉ quy định về vấn đề công bố thông tin của công ty đại chúng mà không quy định của Công ty cổ phần không phải là Công ty cổ phần đại chúng. Đây rõ ràng là một thiếu sót trong hệ thống văn bản pháp luật, và tất nhiên,Công ty cổ phần không phải Công ty cổ phần đại chúng không thể thực hiện công bố thông tin như công ty đại chúng được.

2.4.2. Đối với chào bán trái phiếu riêng lẻ Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

Về làm thủ tục đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền: (i)Doanh nghiệp phát hành phải xây dựng phương án phát hành trái phiếu trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, chấp thuận để làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu và công bố cho các đối tượng mua trái phiếu; (ii)Gửi thông báo bằng văn bản về việc phát hành trái phiếu với Bộ Tài chính; (iii)Đối với Doanh nghiệp phát hành là công ty đại chúng, phải nộp hồ sơ đăng ký phát hành trái phiếu đến Ủy ban chứng khoán nhà nước và chỉ được phát hành trái phiếu khi có ý kiến bằng văn bản của Ủy ban chứng khoán nhà nước.

Hồ sơ chào bán trái phiếu được quy định tại Điều 14, 15, 16 Nghị định 90/2011/NĐ-CP, trong đó đáng lưu ý là Điểm c Khoản 1 Điều 16 có quy định về việc hồ sơ phải có: “ Kết quả xếp loại của tổ chức định mức tín nhiệm đối với tổ chức phát hành trái phiếu và loại trái phiếu phát hành (nếu có)”. Đáng lẽ ra kết quả này nên là quy định bắt buộc bởi hệ số tín nhiệm là một trong những yếu tố quan trọng giúp nhà đầu tư xem xét lựa chọn có đầu tư hay không.

Về quy định công bố thông tin đối với chào bán trái phiếu riêng lẻ của Doanh nghiệp được quy định đầy đủ và hợp lý được quy định tại Điều 31 Chương IV Nghị định 90/2011/NĐ-CP.

Thấy rằng, đều mang tính chất hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ thủ tục đối với cơ quan nhà nước của hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ và trái phiếu riêng lẻ đều được quy định khá chi tiết, rõ ràng. Thủ tục đăng ký đối với cơ quan nhà nước của chào bán cổ phiếu riêng lẻ và chào bán trái phiếu riêng lẻ đều phải chịu quản lý bởi Ủy ban chứng khoán nhà nước, tuy nhiên thì chào bán trái phiếu riêng lẻ còn quy định rõ việc giám sát bởi Bộ Tài chính và trong hồ sơ của chào bán trái phiếu riêng lẻ thì cần cung cấp thêm về các hợp đồng bảo lãnh phát hành, bảo lãnh thanh toán, hợp đồng đại lý,…Và, một điều tương tự xảy ra đó là quy định về thủ tục tiếp nhận hồ sơ như thế nào và xử lý hồ sơ ra sao vẫn còn bị bỏ ngỏ?. Khóa luận: Thực trạng pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x