Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Giao kết, thực hiện hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Bắt đầu từ Bộ luật Dân sự (sau đây viết tắt là “BLDS”) năm 2005, mọi hợp đồng, cho dù phát sinh trong lĩnh vực cụ thể nào, đều được coi là hợp đồng dân sự và chịu sự điều chỉnh của BLDS. Tuy nhiên, bởi vì bản thân từ “dân sự” trong pháp luật Việt Nam có thể được hiểu dưới góc độ nghĩa rộng để chỉ chung các vấn đề thuộc lĩnh vực luật tư (bao gồm các vấn đề trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động) vừa có thể hiểu dưới góc độ nghĩa hẹp (chỉ là quan hệ dân sự thuần túy), nên trong quá trình thực hiện và sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự” không tránh khỏi cách hiểu rằng các nhà làm luật cố ý phân biệt giữa hợp đồng dân sự với các hợp đồng thuộc lĩnh vực luật chuyên ngành khác như hợp đồng lao động, hợp đồng kinh tế… Cách hiểu này không phù hợp với vị trí, vai trò của BLDS nói chung, cũng như chế định hợp đồng nói riêng – với tư cách là luật chung cho tất cả những vấn đề thuộc lĩnh vực luật tư. Do đó, BLDS năm 2015 đã có sự thay đổi cơ bản về mặt thuật ngữ, tại Điều 385 quy định về khái niệm hợp đồng đã bỏ thuật ngữ “dân sự” theo sau thuật ngữ “hợp đồng” và đồng thời tất cả các quy định khác trong chế định hợp đồng chỉ được đề cập với tên gọi “hợp đồng” thay cho “hợp đồng dân sự”.

BLDS năm 2015 đã dành một sự quan tâm khá lớn đối với giao kết hợp đồng và có những sửa đổi, bổ sung về vấn đề này.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>>  Dịch Vụ Viết Thuê khóa luận tốt nghiệp nghành luật

2.1.1. Đề nghị giao kết hợp đồng Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Đề nghị giao kết hợp đồng được quy định từ Điều 386 đến Điều 392 BLDS năm 2015. Theo đó, mặc dù có nhiều thay đổi về cách diễn đạt nhưng trên tinh thần thì BLDS năm 2015 vẫn giữ nguyên nội dung quy định của BLDS năm 2005 về các vấn đề: thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực, thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng, sửa đổi đề nghị do bên được đề nghị đề xuất.

Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 đã có những điểm mới bổ sung, sửa đổi trọng tâm về đề nghị giao kết hợp đồng như sau:

Thứ nhất, về định nghĩa đề nghị giao kết hợp đồng

Nếu BLDS năm 2005 chỉ chấp nhận lời đề nghị giao kết hợp đồng được gửi tới một bên đã được xác định cụ thể thì BLDS năm 2015 công nhận cả trường hợp ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này được gửi tới công chúng, theo đó tại khoản 1 Điều 386 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi chung là bên được đề nghị)”.

Khi bổ sung quy định mới này trong BLDS năm 2015, có một số quan điểm cho rằng việc chấp nhận bên nhận được đề nghị là công chúng không phù hợp với đặc điểm của đề nghị giao kết hợp đồng, đó là: đề nghị phải được gửi đến bên được xác định cụ thể, trong khi công chúng là một tập người không xác định. Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm đồng tình với quy định mới của BLDS năm 2015. Giải thích cho sự đồng tình đó, các quan điểm này cho rằng: một bên có thể mong muốn giao kết hợp đồng với nhiều chủ thể cùng lúc với cùng nội dung và quy định này đã giúp tiết kiệm thời gian và tạo thuận lợi cho các bên giao kết hợp đồng. Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi vì khi một đề nghị đưa ra cho nhiều người xác định với nội dung rõ ràng, thời hạn trả lời xác định, điều kiện về chủ thể xác định, với ý muốn thực sự giao kết hợp đồng, thì đó là một đề nghị giao kết hợp đồng hợp pháp và có giá trị ràng buộc đối với bên đề nghị. Chỉ cần đề nghị đó không mâu thuẫn với quy định của pháp luật và nếu có nhiều người trả lời hợp lệ, thì người đưa ra đề nghị đều phải giao kết hợp đồng và trong trường hợp từ chối giao kết hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định chung. Những người được đề nghị trong trường hợp gửi tới công chúng, mặc dù là một nhóm người, không phải là những cá nhân đã được xác định rõ danh tính, địa chỉ cụ thể nhưng nếu trong lời đề nghị mà bên đề nghị đưa ra có chứa những tiêu chí khách quan để có thể xác định được rõ bên mà đề nghị sẽ gửi tới, chúng ta vẫn có thể xác định được nhóm người dựa trên những điểm đặc thù nhất định.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy có sự xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp, tổ chức khi cố tình đưa ra những lời đề nghị hấp dẫn để thu hút khách hàng nhưng sau đó lại có sự thay đổi, rút lại, phủ nhận sự ràng buộc của đề nghị giao kết hợp đồng do mình đưa ra với lý do đề nghị giao kết hợp đồng đó không gửi đích danh đến đối tượng cụ thể nào… Ví dụ như vụ việc của Công ty Cổ phần Vận tải Đường sắt Hà Nội. Công ty Cổ phần vận tải Đường sắt Hà Nội đã đăng tải thông báo trên trang website chính thức của mình với nội dung: Trong dịp hè năm 2017, Công ty Cổ phần Vận tải Đường sắt Hà Nội sẽ tung ra 8.000 vé tàu giá rẻ với mức giá 10.000 đồng/vé, áp dụng trên các đoàn tàu khách từ Hà Nội đi Hải Phòng, Lào Cai, Đồng Đăng, Vinh, Quảng Bình, Đà Nẵng và ngược lại trong thời gian từ 19/6 đến 30/8/2017. Vé 10.000 đồng được Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Hà Nội mở bán làm 2 đợt, đợt 1 từ ngày 1/6, và đợt hai từ ngày 14/6. Vé 10.000 đồng được mở bán trên website bán vé của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam: www.dsvn.vn và các cửa vé để phục vụ hành khách đi trên các đoàn tàu do công ty quản lý. Trong ngày đầu mở bán, rất đông hành khách đến các cửa vé của ngành đường sắt, nhất là tại các ga như ga Hà Nội, Đà Nẵng… với mong muốn mua vé 10.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi tìm đến các ga để mua vé giá 10.000 đồng/vé, rất nhiều hành khách không thể mua được vé với giá này bởi vì khi đến mua vé tại ga được nhân viên thông báo rằng chương trình 8.000 vé 10.000 đồng chỉ áp dụng cho những hành khách may mắn với việc lựa chọn xác suất trên hệ thống bán vé, chỉ khi in thẻ lên tàu thì mới có thể biết được. Thông tin này chỉ được thông báo tới khách hàng khi họ đã đến ga mua vé chứ không được đăng tải và công bố trên thông báo ở trang website của Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam.

Trong vụ việc này, nếu như những khách hàng đến mua vé khởi kiện Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam vì cho rằng Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam đã không thực hiện đúng cam kết đã nêu trong thông báo chính thức được đăng tải trên website gửi đến công chúng thì vụ việc này sẽ được giải quyết như thế nào. Theo quan điểm của tác giả, nếu căn cứ theo quy định tại Điều 390 BLDS năm 2005: “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể” thì thông báo của Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam không phải là một đề nghị giao kết hợp đồng, vì nó hướng tới công chúng. Tuy nhiên, điểm mới của BLDS năm 2015 đã quy định bên được đề nghị ngoài là bên đã xác định cụ thể thì có thể gửi đến công chúng. Do đó, nếu như khách hàng chứng minh được những đề nghị phía Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam đưa ra là hợp pháp đúng quy định của pháp luật và thông báo này phản ánh được các dấu hiệu chung của đề nghị giao kết hợp đồng, xác nhận đó là một đề nghị giao kết hợp đồng thì Công ty Cổ phần Vận tải đường sắt Việt Nam sẽ phải chịu sự ràng buộc và có trách nhiệm về đề nghị giao kết mà mình đã gửi đến công chúng.

Như vậy, việc mở rộng phạm vi khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng, thừa nhận giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng khi được gửi đến cho công chúng theo BLDS năm 2015 đã thể hiện sự linh hoạt và hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta hiện nay. Đây cũng là xu hướng được nhiều quốc gia thừa nhận. Ở Liên Bang Nga, BLDS hiện hành dành riêng một điều khoản (Điều 437) quy định về đề nghị giao kết hợp đồng công chúng. Còn ở Anh, Pháp, Mỹ thực tiễn án lệ cũng công nhận đề nghị giao kết hợp đồng với công chúng như một trường hợp riêng của đề nghị giao kết hợp đồng thông thường. Tại khoản 2 Điều 2: 201 Bộ Nguyên tắc quốc tế về Luật Hợp đồng Châu Âu (sau đây viết tắt là “PECL”) cũng thừa nhận: “Đề nghị giao kết hợp đồng có thể gửi cho một hoặc nhiều người cụ thể hay công khai cho tất cả mọi người”.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm như đã trình bày ở trên, quy định khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng trong BLDS năm 2015 còn tồn tại một số điểm hạn chế như chưa đưa ra tiêu chí rõ ràng để đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết.

Khi so sánh BLDS năm 2015 với các Bộ nguyên tắc Hợp đồng quốc tế, ta thấy có sự khác biệt rất lớn giữa Điều 386 BLDS năm 2015 với Điều 14 của Công ước của Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước Viên 1980) (sau đây gọi tắt là “CISG”), và Điều 2.1.2 của Bộ nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế của UNIDROIT (sau đây viết tắt là “PICC”) năm 2004 trong việc đưa ra tiêu chí để đánh giá mức độ xác định của một đề nghị giao kết hợp đồng.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Khoản 1 Điều 14 của CISG quy định khá chi tiết: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này”. Khoản 1 Điều 386 BLDS năm 2015 quy định “Đề nghị giao kết hợp đồng làviệc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng…”. Theo đó, tính xác định của đề nghị giao kết hợp đồng phụ thuộc vào mức độ rõ ràng trong việc diễn đạt ý định của bên đưa ra đề nghị, thông thường, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, bên đề nghị thường thể hiện rõ ý định của mình về số lượng, chất lượng và giá cả hàng hóa mà mình muốn mua hoặc muốn bán, nhưng BLDS năm 2015 không có quy định nào tạo cơ sở pháp lý cho việc giải thích ý chí của bên đưa ra đề nghị như cách giải thích nêu trên.

Điều 2.1.2 của PICC quy định: “Một đề nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được chấp nhận”. Theo đó, tính xác định của đề nghịphụ thuộc vào tiêu chí “đủ rõ ràng” và theo khoản 2 Điều 4.1 của PICC, tiêu chí đủ rõ ràng có thể “được giải thích theo  cách hiểu của một người bình thường có cùng phẩm chất và ở cùng hoàn cảnh với người tuyên bố và thực hiện hành vi”. Như vậy, nếu áp dụng Điều 14 của CISG và Điều 2.1.2 của PICC thì sẽ có cách giải thích thỏa đáng dựa vào hoàn cảnh trong mối quan hệ cụ thể của hai bên.

Do đó, theo quan điểm của tác giả, BLDS năm 2015 cần được hỗ trợ bằng một nguyên tắc nhằm giải thích ý chí của các bên tham gia hợp đồng như giải pháp của PICC, nguyên tắc đó có thể được quy định như nguyên tắc được đưa ra tại Điều 8 của CISG là: “Tuyên bố cách xử sự khác của một bên được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt vào vị trí của bên kia trong những hoàn cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thứ hai, về các đề nghị thực hiện chấm dứt hợp đồng

BLDS năm 2015 đã bổ sung thêm một trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng tại khoản 1 Điều 391, đó là: “Bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng”. Sự bổ sung này là hợp lí, bởi lẽ khi bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì hợp đồng có thể được hình thành. Lúc này, giữa bên đề nghị và bên được đề nghị đã hình thành chịu ràng buộc đối với quan hệ hợp đồng. Chính vì vậy, việc tồn tại một lời đề nghị không còn ý nghĩa và lời đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt. Tuy nhiên, cũng chính vì sự bổ sung này đã thể hiện sự hạn chế về cách quy định các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng theo cấu trúc như Điều 391 của BLDS năm 2015. Bởi vì, Điều 391 BLDS năm 2015 đã liệt kê các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, như vậy chỉ các trường hợp được liệt kê mới làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng, các trường hợp không được liệt kê sẽ không làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng. Với cách trình bày liệt kê này, luật phải bảo đảm liệt kê đúng và đủ tất cả các trường hợp làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng. Nếu để sót trường hợp nào đó, hậu quả pháp lí dẫn đến là bên đề nghị sẽ vẫn phải chịu sự ràng buộc đối với bên đề nghị đưa ra, dù về mặt thực tiễn, đề nghị đó có thể đã chấm dứt hiệu lực. Vậy việc bổ sung thêm một trường hợp của BLDS năm 2015 đã thật sự đủ các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng hay chưa và cách liệt kê các trường hợp như thế này liệu có phù hợp hay không?

Thực tiễn áp dụng các quy định này ở Việt Nam cho thấy, các trường hợp liệt kê tại Điều 391 chưa thực sự đầy đủ. Có thể lấy ví dụ về trường hợp thay đổi, rút bỏ đề nghị giao kết hợp đồng được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 389 BLDS năm 2015, nếu hiểu theo cách không cần phải thông báo về rút lại, thay đổi đề nghị thì khi đó đề nghị giao kết sẽ chấm dứt tại thời điểm điều kiện về thay đổi, rút lại được nêu trong đề nghị, phát sinh. Thế nhưng trường hợp này lại không được liệt kê trong Điều 391. Hay đối với trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng không ấn định thời hạn, nếu theo quy định tại Điều 391, đề nghị loại này sẽ không bao giờ chấm dứt hiệu lực, trừ trường hợp nhận được lời từ chối của bên được đề nghị. Trường hợp này cũng không được nêu trong Điều 391 BLDS. Với cách quy định này, các đề nghị không ấn định thời hạn sẽ luôn phát sinh hiệu lực cho đến khi bị từ chối. Đây là điều bất hợp lí. Hoặc trường hợp bên được đề nghị trả lời có khuynh hướng chấp nhận nhưng nêu một số điều kiện sửa đổi, bổ sung vào đề nghị cũ (Điều 392), khi đó, sự chấp nhận có sửa đổi hoặc nêu điều kiện so với đề nghị ban đầu sẽ được coi là đề nghị giao kết hợp đồng mới. Trong trường hợp này, đề nghị ban đầu không còn hiệu lực nhưng cũng không được đề cập trong Điều 391.

Liên hệ với các hệ thống pháp luật khác trên thế giới và các điều ước quốc tế về hợp đồng, đa số các hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế về hợp đồng không có một điều luật nào liệt kê các trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng như pháp luật Việt Nam. Những trường hợp chấm dứt đề nghị giao kết khác là hệ quả pháp lý của những người hợp thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị… đều được nằm trong các khoản liên quan đến việc rút lại, thay đổi, hủy bỏ đề nghị giao kết hoặc sửa đổi trả lời có khuynh hướng chấp nhận đề nghị giao kết. Bên cạnh đó, Điều 2.5 PICC quy định về từ chối đề nghị giao kết: “Đề nghị giao kết bị từ chối khi bên giao kết nhận được sự từ chối của bên đề nghị”. Như vậy, việc từ chối đề nghị là một trong những nguyên nhân chấm dứt một đề nghị. Đề nghị giao kết sẽ chấm dứt hiệu lực khi bên được đề nghị từ chối đề nghị và thời điểm chấm dứt hiệu lực của đề nghị sẽ là thời điểm từ chối đề nghị đến bên đề nghị. Theo đó, một đề nghị có thể bị từ chối bằng việc ghi rõ hoặc ngầm hiểu. Thông thường, việc ngầm hiểu từ chối đề nghị có thể được thể hiện bằng cách gửi lời chấp nhận, nhưng kèm theo những điều kiện, những yêu cầu và những sửa đổi bổ sung khác. Khi các bên không nêu rõ việc từ chối phải được thực hiện bằng văn bản hay bằng hành vi thì bên nhận đề nghị cần giải thích với bên đề nghị rằng họ không có ý định chấp nhận đề nghị này. Việc từ chối đề nghị sẽ làm chấm dứt mọi lời đề nghị, bất kể lời đề nghị đó có được hủy bỏ hay không.

2.1.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được quy định cụ thể tại Điều 393 đến Điều 397 BLDS năm 2015. BLDS năm 2015 giữ nguyên các quy định của BLDS năm 2005 về khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 có sự bổ sung, sửa đổi một số quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng như sau:

Thứ nhất, về hình thức trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Trong quá trình giao kết hợp đồng, ý chí của các bên phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định, đó có thể là: lời nói, văn bản hoặc hành. Nhưng trong thực tiễn giao kết hợp đồng, đôi khi bên được đề nghị không thể hiện rõ ý chí, quan điểm của mình, hay nói cách khác họ lựa chọn sự im lặng. Sự im lặng không mặc nhiên được coi là giao kết hợp đồng theo nguyên tắc chung mà nó chỉ được coi là một ngoại lệ. BLDS năm 2005 có quy định về vấn đề này nhưng không nêu trong phần chấp nhận giao kết hợp đồng mà quy định trong phần xác định thời điểm hợp đồng được giao kết, theo đó trong trường hợp hai bên có thỏa thuận trước im lặng là chấp nhận đề nghị giao kết thì pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên. Khác với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã đưa quy định này về phần chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và có sự sửa đổi, bổ sung như sau: “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên” (Khoản 2 Điều 393 BLDS năm 2015). Nếu BLDS năm 2005 chỉ công nhận im lặng là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận thì việc BLDS năm 2015 bổ sung quy định trường hợp chấp nhận hợp đồng theo thói quen đã được xác lập giữa các bên là phù hợp với thực tiễn, bảo đảm được quyền lợi giữa các bên và tương thích với luật pháp quốc tế.

Cũng giống như pháp luật Việt Nam, đa phần pháp luật của các nước đều quy định sự im lặng không được coi là giao kết hợp đồng theo nguyên tắc chung mà nó chỉ được coi là một ngoại lệ.

Pháp luật Singapore cũng yêu cầu sự đồng ý phải được biểu hiện ra bên ngoài bằng các hình thức khác nhau như lời nói, văn bản hoặc hành vi; sự im lặng không được suy đoán là đồng ý, trừ trường hợp đặc biệt.

Khoản 2 Điều 438 BLDS của Nga quy định: “Im lặng không là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, nếu không có quy định khác từ pháp luật, từ tập quán hoặc từ quan hệ giao dịch trước đây giữa các bên”. Như vậy, pháp luật của Nga cũng quy định sự im lặng không được coi là giao kết hợp đồng theo nguyên tắc chung, mà nó chỉ được coi là một ngoại lệ. Ngoại lệ ở đây bao gồm các trường hợp: do pháp luật có quy định khác, tập quán hoặc thói quen từ quan hệ giao dịch giữa các bên.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Điều 1738 BLDS của Pháp quy định: “Nếu hợp đồng thuê bằng văn bản hết thời hạn mà bên thuê vẫn tiếp tục và được bên cho thuê cho tiếp tục chiếm giữ tài sản thì hợp đồng thuê mới được hình thành và có hiệu lực theo quy định về hợp đồng thuê không lập thành văn bản”. Như vậy, BLDS của Pháp thừa nhận trường hợp ngoại lệ im lặng là đồng ý khi sự im lặng mang lại lợi ích cho chính bên nhận được đề nghị.

Quy định tại CISG và PICC đều không thừa nhận sự im lặng của bên được đề nghị cấu thành một chấp nhận đề nghị. Tuy nhiên, cả hai văn bản trên đều đưa ra các ngoại lệ trong trường hợp bên được đề nghị im lặng nhưng vẫn cấu thành một chấp nhận đề nghị, đó là: i) tập quán mà các bên đã thỏa thuận, hoặc ii) thói quen do họ thiết lập trong mối quan hệ tương hỗ đã quy định rõ về điều này thì sự im lặng hoặc không hành động của bên được chào hàng mới được coi là chấp thuận. Trong đó, tập quán là những quy tắc xử sự phổ biến được thừa nhận và áp dụng rộng rãi ở một khu vực địa lý nhất định (tập quán địa phương, tập quán quốc gia, hoặc trên phạm vi toàn cầu).

Ví dụ: vùng Bordeaux của Pháp tồn tại tập quán là khi người môi giới rượu vang gửi cho bị đơn và nguyên đơn một bức thư ghi lại những thương lượng của các bên thì việc các bên sau khi nhận thư mà không có phản đối trong vòng 48 tiếng được coi như chấp nhận hợp đồng.2

Tuy nhiên, cũng có sự không tương đồng giữa pháp luật Dân sự Việt Nam và pháp luật quốc tế khi mà pháp luật dân sự Việt Nam không bổ sung trường hợp ngoại lệ của chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bằng im lặng theo tập quán hoặc do pháp luật quy định như quy định của pháp luật quốc tế. Theo quan điểm của tác giả, BLDS năm 2015 nên có sự bổ sung hai trường hợp ngoại lệ này vào Điều 393, không chỉ để tương thích với pháp luật quốc tế mà còn vì những lý do sau đây:

Mặc dù trường hợp im lặng chấp nhận giao kết hợp đồng do pháp luật quy định không được thừa nhận trong Điều 393 BLDS năm 2015 nhưng trong một số quy định khác, có nhiều trường hợp sự im lặng được quy định là chấp nhận giao kết hợp đồng. Ví dụ: quy định về trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng mua bán tài sản sau khi dùng thử tại Điều 352 BLDS năm 2015, theo đó: “…Trong thời hạn dùng thử, bên mua có thể trả lời mua hoặc không mua; nếu hết thời hạn dùng thử mà bên mua không trả lời thì coi như đã chấp nhận mua theo các điều kiện đã thỏa thuận trước khi nhận vật dùng thử”. Ngoài ra,trong trường hợp pháp luật có quy định một bên có nghĩa vụ phải phát biểu ý chí về việc từ chối giao dịch, nhưng người có nghĩa vụ đã không hành động như vậy thì được suy đoán là đồng ý. Ví dụ: khi người đại diện xác lập giao dịch vượt quá phạm vi đại điện, nhưng người được đại diện “biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý” thì phần giao dịch được xác lập vượt quá phạm vi đại diện đó vẫn có hiệu lực đối với người được đại diện (khoản 1 Điều BLDS năm 2015).Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

2G. Rouhette (Chủ biên, 2003), Bộ Nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, Nxb. Société de legislation comparée, tr.132 đươc trích trong tài liệu: “Đỗ Văn Đại (2013), Luật Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án – tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 134”.

Đối với trường hợp sự im lặng theo tập quán như quy định của pháp luật quốc tế, BLDS năm 2015 mặc dù không quy định trong Điều 393 nhưng nếu các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định nhưng có tập quán để giải quyết thì theo nguyên tắc cơ bản của BLDS năm 2015 thì vẫn được thừa nhận. Theo quan điểm của tác giả, bởi vì suy cho cùng thì tập quán cũng được áp dụng theo nguyên tắc chung, do đó nên chăng BLDS năm 2015 cũng bổ sung quy định im lặng là đồng ý theo tập quán tại Khoản 2 Điều 393 để tránh việc hiểu lầm.

Về hình thức trả lời chấp nhận bằng hành vi cụ thể, BLDS năm 2015 thừa nhận hình thức chấp nhận bằng hành vi nhưng không quy định cụ thể trong trường hợp bên được đề nghị biểu thị sự chấp nhận đối với đề nghị bằng hành vi cụ thể nhưng không thông báo cho bên đề nghị biết về việc mình đã thực hiện hành vi đó.

Liên quan đến vấn đề này, cả CISG và PICC đều quy định khá rõ ràng, cụ thể. Theo Điều 18 của CISG: “1. Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng…; 2. Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp nhận…”. Điều 2.1.6 PICC quy định: “1. Chấp nhận giao kết hợp đồng có thể là một tuyên bố hoặc cách xử sự khác của bên được đề nghị cho thấy họ chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng….; 2. Việc chấp nhận một đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực khi dấu hiệu của việc chấp nhận giao kết hợp đồng đến bên đề nghị”. Như vậy, cả CISG và PICC đều đưa ra nguyên tắc chung cho việc chấp nhận bằng hành vi, đó là việc biểu thị sự chấp nhận bằng hành vi phải được thông báo cho bên đề nghị. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc thông báo đặc biệt như vậy chỉ cần thiết trong trường hợp bản thân hành vi không tạo thành một thông báo chấp nhận đề nghị giao kết với bên đề nghị trong một thời hạn hợp lý, ví dụ: sự phát hành thư tín dụng, ký chứng từ gửi tới thể chế tài chính cùng với yêu cầu họ thanh toán cho việc mua bán. Một ngoại lệ cho nguyên tắc chung được quy định tại Khoản 3 Điều 18 của CISG là: “…, nếu do hiệu lực của chào hàng hoặc do thực tiễn đã có giữa hai bên trong mối quan hệ tương hỗ hoặc tập quán thì người được chào hàng có thể chứng tỏ sự chấp thuận của mình bằng cách làm một hành vi nào đó như hành vi liên quan đến việc gửi hàng hay trả tiền chẳng hạn dù họ không thông báo cho người chào hàng thì chấp nhận chào hàng chỉ có hiệu lực từ khi những hành vi đó được thực hiện với điều kiện là những hành vi đó phải được thực hiện trong thời hạn đã quy định tại điểm trên”. Hay như quyđịnh tại Khoản 2 Điều 2.1.6 của PICC: “Tuy nhiên, nếu theo đề nghị giao kết hợp đồng, các thói quen đã được xác lập giữa các bên hoặc theo tập quán, bên được đề nghị có thể chỉ ra là mình đã chấp nhận giao kết hợp đồng bằng việc thực hiện một hành vi mà không cần thông báo cho bên đề nghị biết, việc chấp nhận có hiệu lực khi hành vi đó được hoàn thành”.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thứ hai, về thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.

BLDS năm 2005 chỉ quy định thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong trường hợp bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời đề nghị giao kết gửi cho bên được đề nghị, tuy nhiên BLDS năm 2005 lại không quy định về trường hợp nếu bên đề nghị không ấn định cụ thể thời hạn trả lời trong lời đề nghị thì thời hạn trả lời chấp nhận giao kết được xác định thế nào. Để khắc phục thiếu sót của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung theo hướng: “Khi bên đề nghị không nêu rõ thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có hiệu lực nếu được thực hiện trong một thời hạn hợp lý”. Tuy nhiên, BLDS năm 2015 không có quy định và chưa có văn bản nào hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về cách xác định thế nào là thời gian hợp lý. Trong khi đó, về vấn đề này, pháp luật quốc tế quy định khá cụ thể.

Pháp luật Hoa Kỳ quy định chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể được thể hiện bằng ngôn ngữ (nói, viết) hoặc bằng hành vi. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải được thông tin đến người đề nghị. Nếu trong đề nghị giao kết hợp đồng, phương thức chuyển tải thông tin về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng được xác định rõ hoặc mặc nhiên suy đoán, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm được gửi đi nếu người được đề nghị gửi chấp nhận bằng phương thức nêu trên và hợp đồng được xác lập kể từ thời điểm này. Nếu trong đề nghị giao kết hợp đồng không nêu rõ ràng hoặc ám chỉ về phương thức gửi chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thì chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có thể được gửi bằng phương thức hợp lý.

Về thời hạn chấp nhận đề nghị, Khoản 2 của Điều 18 CISG quy định: “Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc ngược lại”. Điều 2.7 PICC thì theo đó có sự phân biệt giữa đề nghị bằng lời nói và bằng văn bản. Đề nghị bằng lời nói cần phải được chấp nhận ngay lập tức khi hoàn cảnh có những yêu cầu khác. Đối với đề nghị bằng văn bản, điều này hoàn toàn tùy thuộc vào việc đề nghị đó

có ấn định một thời hạn cho việc chấp nhận hay không, nếu có, đề nghị cần được chấp nhận trong thời hạn đó, nếu không thì sự chấp nhận phải được truyền đạt đến bên đề nghị trong một thời hạn hợp lý tùy từng trường hợp, có xét đến tốc độ thông tin giao dịch mà bên đề nghị dùng.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thứ ba, quy định về chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp bên đề nghị hoặc bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định cụ thể tại Điều 395 BLDS năm 2015 và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được quy định tại Điều 396 BLDS năm 2015. So sánh với BLDS năm 2005, thì BLDS năm 2015 bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Cụ thể: thời điểm bên đề nghị bị Tòa án tuyên bố là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị; tương tự trong trường hợp bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng nhưng sau đó có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Sự bổ sung này là phù hợp và thống nhất với các quy định khác trong BLDS năm 2015 vì BLDS năm 2015 cũng bổ sung thêm trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi tại Điều 23.

Trước đây, BLDS năm 2005 đã bỏ sót quy định loại trừ các trường hợp đề nghị hay chấp nhận đề nghị gắn liền với nhân thân người đề nghị hay người được đề nghị. Nay BLDS năm 2015 đã bổ sung và ghi nhận trường hợp này tại Điều 395 và Điều 396. Sự bổ sung này là hoàn toàn cần thiết và phù hợp vì những lời đề nghị giao kết mà nội dung giao kết gắn liền với nhân thân của bên được đề nghị (hoặc bên được đề nghị) thì chỉ có người đó mới có khả năng giao kết và thực hiện hợp đồng mà thôi.

Ví dụ: Nhà sản xuất phim A gửi lời đề nghị giao kết hợp đồng đến nam diễn viên nổi tiếng P.W với nội dung mời P.W là diễn viên chính trong một bộ phim với thù lao 30 triệu USD. Diễn viên P.W trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nhưng khi chưa thực hiện hợp đồng thì P.W bất ngờ bị tai nạn ô tô và qua đời. Như vậy, ở đây đã xuất hiện trường hợp nội dung hợp đồng gắn liền với nhân thân của bên được đề nghị và về bản chất thì việc trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng này không thể có giá trị được. Dù bên đề nghị có nhận được trả lời chấp nhận đề nghị thì hợp đồng cũng không thể được coi là đã giao kết, bởi vì cho đến cùng thì không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng.

2.1.3. Thời điểm giao kết hợp đồng Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thời điểm giao kết hợp đồng được quy định tại Điều 400 BLDS năm 2015. Theo đó, so với quy định tại Điều 404 BLDS năm 2005, quy định tại BLDS năm 2015 đã chỉ rõ thời điểm giao kết hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn nhất định và quy định cụ thể hơn về thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản.

Tuy nhiên, quy định về thời điểm giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt Nam hiện vẫn còn nhiều bất cập, mâu thuẫn liên quan đến việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng, gây ra nhiều khó khăn cho các bên liên quan trong việc áp dụng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về nguyên tắc chung khi xác định thời điểm giao kết hợp đồng. Căn cứ Điều 400 BLDS năm 2015, bên cạnh việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng dựa trên thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết còn xác định thời điểm đó dựa trên hình thức giao kết hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tiễn, không phải lúc nào các bên cũng chỉ sử dụng một hình thức duy nhất để giao kết hợp đồng. Mặt khác, pháp luật cũng không cấm và cũng không có quy định nào bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng bằng một hình thức duy nhất. Các bên có thể thực hiện việc giao kết hợp đồng, đề nghị và trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng bằng một hoặc bằng nhiều hình thức khác nhau.

Thứ hai, mâu thuẫn trong cách xác định thời điểm giao kết hợp đồng theo Khoản 1 Điều 400 BLDS năm 2015 và Khoản 4 Điều 400 BLDS năm 2015.

BLDS năm 2015 xác định các quy tắc riêng cho thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói và thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản theo quy định tại Điều 400 BLDS năm 2015 là chưa phù hợp. Cụ thể, khoản 3 Điều 400 BLDS năm 2015 xác định thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong về nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 400 BLDS năm 2015 chưa chỉ rõ đâu là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong về nội dung của hợp đồng. Nếu vận dụng cơ chế đề nghị giao kết hợp đồng – chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng trong trường hợp này thì có thể hiểu một cách hợp lý rằng thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung của hợp đồng là thời điểm bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Chẳng hạn, A chào bán cho B một chiếc điện thoại A không dùng với giá 5 triệu đồng, B trả lời chấp nhận mức giá A đưa ra. Các bên được xem là thỏa thuận xong hợp đồng vào thời điểm A nhận được trả lời chấp nhận của B. Như vậy, có thể sử dụng khoản 1 Điều 400 để xác định thời điểm giao kết hợp đồng đối với các hợp đồng được xác lập bằng lời nói và không cần phân biệt trường hợp riêng theo quy định tại Khoản 3 Điều 400 BLDS năm 2015.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Khoản 4 Điều 400 BLDS năm 2015 quy định thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản. Tuy nhiên trong thực tiễn cho thấy rằng thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản không phải lúc nào cũng đồng nhất với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Sau đây là một ví dụ tranh chấp điển hình có liên quan đến vấn đề này.

2.2. Thực trạng pháp luật về thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015

Thực hiện hợp đồng được quy định từ Điều 409 đến Điều 420 BLDS năm 2015. Nhìn chung, các quy định về thực hiện hợp đồng đơn vụ, thực hiện hợp đồng song vụ, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba… đều được giữ nguyên như quy định tại BLDS năm 2005. BLDS năm 2015 có sửa đổi một số quy định về thực hiện hợp đồng cụ thể: quy định bao quát hơn về quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng song vụ tại Điều 411 BLDS năm 2015 khi ghi nhận “khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên kia đã giảm sút nghiêm trọng” thay cho “tài sản của bên kia bị giảm sút nghiêm trọng”, thực sự công nhận cầm giữ tài sản là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, bổ sung thêm về mức phạt phạm trong trường hợp pháp luật liên quan có quy định khác hạn chế mức phạt thì các bên phải tuân theo quy định của pháp luật liên quan (khoản 2 Điều 418 BLDS năm 2015). Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 bổ sung các quy định mới về thực hiện hợp đồng như sau: quy định về thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng và thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

2.2.1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng được xác định theo quy định tại Khoản 2 Điều 419, Điều 13 và Điều 360 của BLDS năm 2015. Theo đó, tại Khoản 2 Điều 419 BLDS năm 2015 quy định: “Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại”. Trước đây, BLDS năm 2005 chỉ quy định chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi nghiên cứu về trách nhiệm dân sự nói chung do không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Cũng vẫn liên quan đến nội dung này, khoản 3 Điều 419 bổ sung quy định về việc bồi thường thiệt hại những tổn thất tinh thần cho người bị thiệt hại như sau: “Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”. Như vậy, đối với thiệt hại của người có quyền có thể bao gồmthiệt hại vật chất và thiệt hại tinh thần. Việc xác định thiệt hại vật chất có thể dựa trên những căn cứ mà bên bị thiệt hại đưa ra. Việc xác định bồi thường thiệt hại về tinh thần, Tòa quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc, tuy nhiên điều này vẫn mang tính chủ quan bởi một tổn thất về tinh thần có thể có những mức bồi thường khác nhau.

Có thể thấy quy định tại Điều 419 của BLDS năm 2015 phù hợp với đòi hỏi thực tiễn mà BLDS năm 2005 chưa làm được, giúp bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp mà bên bị thiệt hại trong quan hệ hợp đồng phải gánh chịu, đồng thời phù hợp với các quy định trong pháp luật quốc tế.

Pháp luật quốc tế cũng quy định cụ thể về các khoản bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Điều 7.4.2 PICC về mua bán hàng hóa quốc tế quy định: “Bên bị thiệt hại có quyền đòi bên kia bồi thường toàn bộ những tổn thất gây ra do việc không thực hiện hợp đồng. Những tổn thất này bao gồm những tổn thất phải gánh chịu và những lợi ích đáng lẽ phải có từ việc thực hiện hợp đồng, có tính đến những chi phí tổn thất mà bên vi phạm tránh được”.

Điều 74 CISG cũng quy định: “Tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết”.

Như vậy, pháp luật quốc tế quy định khá cụ thể về các khoản bồi thường thiệt hại do phạm hợp đồng. BLDS năm 2015 mặc dù đã có quy định nhưng với cách quy định chung chung như hiện nay thì khi áp dụng trên thực tiễn sẽ gặp những khó khăn. Ví dụ như: việc xác định các lợi ích mà lẽ ra bên có quyền sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại sẽ như thế nào? Liệu chỉ bồi thường những thiệt hại thực tế hay bồi thường cả những thiệt hại suy đoán? Pháp luật cần làm rõ tính lường trước của khoản lợi chứ không phải mọi khoản lợi đều được bồi thường. Và theo tác giả, mốc xác định trong trường hợp này nên là thời điểm khi các bên giao kết hợp đồng, tránh trường hợp khi biết bên kia không thể thực hiện hợp đồng, bên có quyền tiến hành giao kết một loạt các hợp đồng giả tạo nhằm tối đa hóa thiệt hại được bồi thường. Kiến nghị này theo tác giả là một biện pháp nhằm bảo vệ sự thiện chí, trung thực.

2.2.2. Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản tại Điều 420 BLDS năm 2015 được quy định rất cụ thể về việc xác định hoàn cảnh thay đổi cơ bản, quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan, xác định trách nhiệm của Tòa án và vấn đề thực hiện hợp đồng trong thời gian hai bên tiến hành đàm phán, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng. Theo đó, không phải trường hợp nào hoàn cảnh thay đổi thì các bên cũng có thể thay đổi hợp đồng, sự thay đổi của hoàn cảnh phải thỏa mãn đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 420 BLDS 2015, đó là: (i) Sự thay đổi phải do nguyên nhân khách quan và xảy ra sau khi hợp đồng được giao kết; (ii) Các bên không nhìn thấy trước được việc hoàn cảnh sẽ thay đổi tại thời điểm giao kết; (iii) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác; (iv) Nếu như không điều chỉnh hợp đồng mà các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng sẽ gây thiệt hại cho một bên; (v) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.

Khi đã xác định được hoàn cảnh thay đổi cơ bản, điều luật đưa ra quy định về hành xử của các bên liên quan tại khoản 2 và khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 như sau:

Với việc quy định ưu tiên đầu tiên trong hoàn cảnh thay đổi cơ bản là sự thỏa thuận của hai bên, khoản 2 Điều 420 đã bảo đảm nguyên tắc tôn trọng tự do ý chí, tự do thỏa thuận vốn là bản chất của hợp đồng. Đương nhiên, ngay cả khi luật không quy định thì giải pháp đầu tiên của bên có lợi ích bị ảnh hưởng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản cũng là đề nghị bên còn lại điều chỉnh các điều khoản nhất định của hợp đồng, nhưng việc ghi nhận rõ ràng quyền này tại Điều 420 chính là sự khẳng định sự tự do ý chí của các bên, qua đó duy trì tính hợp lý trong việc can thiệp của pháp luật, tòa án vào quan hệ dân sự.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự do này không bị lạm dụng, tránh trường hợp để kéo dài thời gian sẽ dẫn đến thiệt hại ngày càng lớn, đã được giới hạn “trong một thời hạn hợp lý”. Khi việc tự do thỏa thuận của các bên theo khoản 2 không đạt kết quả, Tòa án bắt đầu thực hiện vai trò của mình. Sự tham gia của Tòa án như quy định tại khoản 3 xuất phát từ yêu cầu của một trong các bên trong quan hệ hợp đồng chứ không phải bất kỳ bên thứ ba nào khác. Tòa án có thể theo yêu cầu chấm dứt hợp đồng hoặc sửa đổi hợp đồng, cụ thể:

  • Tòa án có thể chấm dứt hợp đồng khi: một trong các bên yêu cầu; và chấm dứt tại một thời điểm xác định – nghĩa là các bên vẫn có quyền và nghĩa vụ với nhau theo hợp đồng cho đến thời điểm xác định đó, phân biệt với hủy bỏ hợp đồng là khi mọi quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng đều không có giá trị;
  • Tòa án có thể sửa đổi hợp đồng khi: một trong các bên yêu cầu; việc sửa đổi phải đạt mục đích cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản; và chỉ khi chi phí thực hiện hợp đồng khi sửa đổi nhỏ hơn thiệt hại gây ra do chấm dứt hợp đồng.

Điều 420 BLDS năm 2015 cũng quy định cụ thể về vấn đề thực hiện hợp đồng trong thời gian các bên tiến hành đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng hoặc trong thời gian Tòa án giải quyết vụ việc, đó là “các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Với quy định này, dù hoàn cảnh thay đổi cơ bản và đang tiến hành thỏa thuận lại hay đang trong quá trình giải quyết tại Tòa án, các bên cũng không đương nhiên có quyền tạm dừng thực hiện hợp đồng. Dù chịu thiệt hại nghiêm trọng, bên chịu thiệt hại vẫn có trách nhiệm tiếp tục thực hiện hợp đồng. Việc tạm dừng thực hiện chỉ được cho phép khi được hai bên thỏa thuận. Quy định này, một mặt đảm bảo sự tôn trọng thỏa thuận của các bên và các quy định hợp đồng, nhưng mặt khác chứa đựng rủi ro trong việc bảo vệ quyền lợi của bên chịu thiệt hại nếu thời gian đàm phán giữa các bên hoặc thời gian giải quyết của Tòa án kéo dài.

Thực tiễn pháp lý ở Việt Nam từng phát sinh nhiều vụ tranh chấp có liên quan tới yêu cầu cần áp dụng điều khoản điều chỉnh nội dung hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi. Nhưng do trước đó BLDS năm 2005 chưa quy định về điều khoản này, nên đã gây nhiều khó khăn cho các bên liên quan trong việc giải quyết tranh chấp. Sau đây là một ví dụ về tranh chấp có liên quan đến việc thay đổi hoàn cảnh ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng và đã làm cho các bên liên quan, các nhà tư vấn và tòa án trở nên lúng túng:Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Tóm tắt vụ việc: Vụ việc tranh chấp giữa Công ty Cổ phần Dệt may HP và Công ty Cổ phần tư vấn Xây dựng thương mại TL. Ngày 18/11/2006, Công ty Cổ phần Dệt may HP (sau đây gọi tắt là “Công ty HP”) có trụ sở chính tại Hải Phòng và Công ty Cổ phần tư vấn Xây dựng Thương mại TL (sau đây gọi tắt là “Công ty TL”) có trụ sở chính tại Hà Nội đã ký hợp đồng kinh tế số 294/HĐKT.

Nội dung chính của hợp đồng là Công ty TL nhận san lấp mặt bằng, hàng rào, kè; thi công đường giao thông nội bộ, đường cấp nước, đường thoát nước, trạm điện nội bộ, cây xanh; xây dựng nhà máy của Công ty HP tại xã Tam Quan, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, đồng thời cung cấp toàn bộ vật liệu để xây dựng các công trình trên. Công trình phải được thi công theo đúng yêu cầu thiết kế đã được phê duyệt của chủ đầu tư. Giá trị hợp đồng là 40 tỷ đồng. Công ty TL căn cứ vào thiết kế được duyệt và các văn bản của Nhà nước, của tỉnh Thái Bình và lãi suất của Ngân hàng Thương mại tại thời điểm thi công để lập đơn giá dự toán và được chủ đầu tư phê duyệt để làm căn cứ thanh toán cho Công ty TL trong từng giai đoạn thi công, giá trị cụ thể được thể hiện trong phụ lục hợp đồng của từng giai đoạn thi công. Công ty TL ứng vốn để thi công cho từng giai đoạn và sẽ được Công ty HP thanh toán trong thời hạn không quá 3 tháng kể từ ngày thi công xong của giai đoạn đó.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, sau khi san lấp mặt bằng, làm hàng rào, kè; thi công đường giao thông nội bộ, đường cấp nước, đường thoát nước, trạm điện nội bộ và một phần nhà máy thì giá trị các loại vật liệu xây dựng đều tăng từ 5% – 10%, riêng thép tăng khoảng 18%. Vì vậy, năm 2008, Công ty TL đề nghị tăng giá bán các loại vật liệu xây dựng đối với những phần chưa thi công nhưng Công ty HP không đồng ý.

Hai bên xảy ra tranh chấp nên đến năm 2009 đã khởi kiện đến Toà án để giải quyết. Công ty TL đề nghị tăng giá vật liệu xây dựng theo giá thị trường vì giá cả có biến động lớn, việc tiếp tục thực hiện hợp đồng theo thoả thuận cũ sẽ làm cho Công ty TL bị thiệt hại nặng nề. Hơn nữa, Công ty TL phải ứng vốn để xây dựng, giá cả tăng nhiều như vậy gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động của Công ty; nếu Công ty HP không đồng ý tăng giá thì đề nghị Toà án tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Công ty HP không đồng ý với đề nghị của Công ty TL, đề nghị Toà án buộc Công ty TL tiếp tục thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên.

Tại phiên xử sơ thẩm, đại diện Công ty TL cho biết họ không có ý không thực hiện hợp đồng nhưng do hoàn cảnh thực tế thay đổi ngoài dự tính nên công ty sẽ bị lỗ nặng nếu cứ tiếp tục thực hiện theo hợp đồng ký.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Sau khi xem xét hồ sơ vụ án và ý kiến trình bày của các bên, Toà án nhận định thoả thuận trong hợp đồng là hợp pháp, việc tăng giá hàng hoá là việc có thể dự đoán được trước và giá thị trường tăng như vậy cũng không phải là biến động quá lớn. Vì vậy, Toà án sơ thẩm tuyên bố các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng .3

Nhận xét, đánh giá: Những tranh chấp xảy ra liên quan đến vấn đề thay đổi hoàn cảnh làm cho việc thực hiện hợp đồng gặp khó khăn trở ngại như vụ việc trên không phải là vấn đề pháp lý hiếm gặp trên thực tế. Trong vụ việc này, hai bên tranh chấp về khoản tiền và chi phí tăng thêm so với cam kết ban đầu trong hợp đồng, việc tăng giá hàng hoá mà các bên không lường trước được. Tại thời điểm diễn ra vụ việc, theo quy định của BLDS năm 2005, vì trường hợp này không phải là “sự kiện bất khả kháng” hay “trở ngại khách quan” nên các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nếu như không đạt được sự thỏa thuận về sửa đổi hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc Công ty TL phải thực hiện tiếp tục hợp đồng theo thoả thuận cũ sẽ làm cho Công ty TL bị thiệt hại nặng nề.

Vụ việc trên nếu được giải quyết căn cứ theo Điều 420 BLDS năm 2015, phía Công ty TL có thể yêu cầu đàm phán lại hợp đồng nếu như chứng minh được trường hợp này là hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Theo đó, phía Công ty TL phải chứng minh trường hợp hoàn cảnh này đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

Một là, sự thay đổi về giá trị các loại vật liệu xây dựng là hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng. Đó là do biến động đột biến của thị trường nên trong quá trình thực hiện hợp đồng, sau khi san lấp mặt bằng, làm hàng rào, kè; thi công đường giao thông nội bộ, đường cấp nước, đường thoát nước, trạm điện nội bộ và một phần nhà máy thì giá trị các loại vật liệu xây dựng đều tăng từ 5% – 10%, riêng thép tăng khoảng 18%.

Hai là, tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh. Việc biến động giá cả trong kinh doanh là rất phổ biến trong các hợp đồng mua bán. Tuy nhiên, nếu vì một lý do nào đó mà giá cả thị trường có sự biến động mạnh mẽ, các bên không thể lường trước được giá cả có thể bị đẩy lên cao như vậy, ví dụ như trong trường hợp này giá thép đã bị đẩy tăng đến 18%. Để chứng minh việc các bên không thể lường trước được về sự tăng giá cả đột biến này, phía Công ty TL cần đưa ra những chứng cứ chứng minh về việc mình không thể lường trước được, hoặc đưa ra những sự kiện, dữ liệu mà mọi người đều biết và công nhận về việc đó.

Ba là, hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác. Để chứng minh điều kiện này, phía Công ty TL có thể đưa ra những hợp đồng ký kết vào thời điểm tương tự, để chứng minh với giá cả và chi phí như vậy, Công ty TL sẽ không thể chấp nhận ký kết hợp đồng.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Bốn là, việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên. Công ty TL phải liệt kê những khoản thiệt hại, những căn cứ chứng minh về việc tiếp tục hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho phía Công ty.

Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam (2010), Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về Dân sự năm 2009, Kinh doanh thương mại, Lao động, Hành chính năm 2007 – 2009 (Quyển II), Hà Nội, tr. 414

Năm là, Phía Công ty TL phải có những chứng cứ, lập luận để chứng minh rằng phía Công ty đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.

Trong trường hợp, Công ty TL đủ các căn cứ để chứng minh hoàn cảnh khó khăn trong thực hiện hợp đồng là hoàn cảnh thay đổi cơ bản thì phía Công ty TL có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lí. Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lí, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án để giải quyết vấn đề này. Và khi giải quyết trong trường hợp này, căn cứ theo Điều 420 BLDS năm 2015, Tòa án sẽ cân nhắc nếu xem xét trường hợp này là trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Tòa án có thể yêu cầu các bên chấm dứt hoặc sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Như vậy, có thể thấy quy định về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản đảm bảo được lợi ích của các bên chủ thể, nhất là bên bất lợi trong quan hệ hợp đồng. Bởi vì như chúng ta đã biết thì quan hệ hợp đồng không phải là bất biến mà “mang tính chất của một quá trình” và “hàm chứa nhiều rủi ro”. Chính vì lẽ đó, điều khoản về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi nhằm giúp các bên cùng giải quyết sự thay đổi của hoàn cảnh để đảm bảo lợi ích của các bên. Hợp đồng dựa trên sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các bên và nền tảng của mọi hợp đồng chính là sự cân bằng lợi ích của các chủ thể tham gia hợp đồng đó. Nhưng có những trường hợp sự cân bằng trên bị phá vỡ. Khi có những thay đổi xảy ra như có biến động về giá cả thị trường, tác động về kinh tế, xã hội, kỹ thuật, con người… dẫn đến việc một bên gặp khó khăn đặc biệt trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình thậm chí không thể thực hiện được nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc có thể phá sản thì không bên nào muốn chịu thiệt hại và vì thế họ tiến hành điều chỉnh hợp đồng. Vẫn có khả năng hợp đồng bị hủy bỏ nhưng việc điều chỉnh có nhiều ưu điểm như không cần tốn thêm chi phí để thỏa thuận lại hợp đồng mới, các bên trong quan hệ hợp đồng vẫn đạt được những lợi ích của việc giao kết và không mất đi các mối quan hệ trong làm ăn kinh doanh.

Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản là quy định tương thích với xu hướng chung của thế giới. Việc bổ sung quy định thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản tại Điều 420 BLDS năm 2015 không chỉ bảo đảm thực hiện được quyền, lợi ích của các doanh nghiệp Việt Nam khi thực hiện hợp đồng trong nước và quốc tế, mà còn giúp nhà đầu tư nước ngoài không cảm thấy bị phiền toái, cũng không lợi dụng kẽ hở trong pháp luật Việt Nam.

Bên cạnh những ưu điểm của Điều 420 BLDS năm 2015 thì khi áp dụng trong thực tiễn, quy định này cũng đặt ra một số vấn đề pháp lý và tồn tại nhiều quan điểm khi áp dụng như sau:Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Một là, theo điểm c khoản 1 Điều 420 BLDS năm 2015, một trong năm điều cơ bản là “hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác”. Quy định này cần được hướngdẫn cụ thể, bởi đây là điều kiện trọng tâm để xác định sự thay đổi cơ bản của hoàn cảnh. Tiếp cận từ góc độ so sánh, bình luận chính thức của PICC năm 1994 cho rằng:“nếu việc thực hiện nghĩa vụ có thể quy đổi ra tiền, chi phí thực hiện nghĩa vụ hoặc giá trị của nghĩa vụ thay đổi từ 50% trở lên có thể được xem là thay đổi cơ bản”. Tuy nhiên, nhận định trên không được các học giả ủng hộ, bởi vì họ cho rằng con số 50% được đưa ra là quá thấp và có phần tùy tiện. Thực tiễn tài phán tại nhiều quốc gia cũng thể hiện rằng sự thay đổi hoàn cảnh phải rất lớn mới được xem là hoàn cảnh thay đổi cơ bản.

Hai là, khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 quy định, trường hợp các bên không thể thỏa thuận về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý thì một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án sửa đổi hoặc chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, “Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi”. Các khái niệm “thiệt hại” và “các chi phí để thực hiện hợp đồng” trong điều luật này cần được làm rõ. Cụ thể, thiệt hại mà việc chấm dứt hợp đồng gây ra cho bên nào sẽ được sử dụng để so sánh với các chi phí để thực hiện hợp đồng? Thậm chí là có tính toán đến chi phí, lợi ích của người thứ ba hay không?

Ba là, đối với quy định tại Khoản 3 Điều 420 BLDS năm 2015 cũng tồn tại nhiều quan điểm tranh cãi liên quan đến thẩm quyền của Tòa án. Có quan điểm cho rằng cách giải quyết của BLDS năm 2015 chưa phù hợp với nguyên tắc bảo tồn hiệu lực của hợp đồng (favor contractus). Bởi vì, Tòa án cần ưu tiên việc duy trì hiệu lực của hợp đồng bằng cách sửa đổi hợp đồng và chỉ khi nào việc sửa đổi hợp đồng không thể thực hiện được hoặc bất hợp lý cho bên còn lại thì Tòa án mới chấm dứt hợp đồng. Tiếp cận từ góc độ so sánh, mặc dù Điều 6.2.3 PICC năm 2010 cũng ghi nhận hai biện pháp là chấm dứt hợp đồng và sửa đổi hợp đồng mà không nêu rõ thứ tự ưu tiên, tuy nhiên, các học giả khi bình luận PICC năm 2010 đều cho rằng trong chừng mực hợp lý, biện pháp sửa đổi hợp đồng cần được ưu tiên hơn. Quan điểm ngược lại thì cho rằng việc cho Tòa án có quyền điều chỉnh, sửa đổi hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi không phù hợp với bản chất của hợp đồng là tự do ý chí, tự nguyện cam kết, thỏa thuận giữa các bên. Trên thế giới, cũng có một số nước theo quan điểm này, ví dụ như Tòa án Anh cũng không có quyền sửa đổi hợp đồng giữa các bên mà chỉ có quyền tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Theo quan điểm của tác giả, việc lựa chọn theo quan điểm nào và tiếp thu các quy định của pháp luật các nước thì cần tính đến yếu tố tổng thể và tính có hệ thống của chế định hợp đồng. Thiết nghĩ, quy định như hiện tại của BLDS năm 2015 là hợp lý, bởi Điều 420 có những quy định chặt chẽ về căn cứ, điều kiện, trình tự (các bước) của việc điều chỉnh hợp đồng. Điều 420 cho phép bên có nghĩa vụ do hoàn cảnh thay đổi mà việc tiếp tục hợp đồng quá bất công, có quyền đề nghị với bên kia điều chỉnh lại hợp đồng. Quy định này vẫn tôn trọng tự do thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng thể hiện chỗ nếu không có đề nghị của bên bị thiệt hại thì dù có thay đổi hoàn cảnh, hợp đồng đã ký vẫn tiếp tục thực hiện. Mặt khác, luật cũng quy định, trước khi đề nghị tòa án can thiệp, bên đề nghị điều chỉnh hợp đồng phải chứng minh hai bên đã có một thời gian hợp lý thực hiện hợp đồng nhưng không có kết quả hoặc không được bên kia đáp ứng. Việc đưa quy định này vào không làm mất đi tính chất tự do thỏa thuận vì chỉ khi các bên không điều chỉnh hợp đồng trong một khoảng thời gian hợp lý thì tòa án mới có quyền can thiệp để chấm dứt hoặc điều chỉnh hợp đồng theo cách công bằng nhất. Mặt khác, việc điều chỉnh lại hợp đồng hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc thiện chí, theo hướng các bên không chỉ quan tâm, chăm lo đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà còn phải tôn trọng, quan tâm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Bên cạnh đó, trên thực tiễn Việt Nam, cũng không thiếu lĩnh vực Tòa án đang can thiệp vào sự thỏa thuận (ban đầu) mà vẫn hợp tình, hợp lý. Ví dụ, năm 1992 ông Thiết và bà Lới đăng ký mua một kiốt của ông Sơn và bà Thìn với giá 7,8 triệu đồng và bên mua đã thanh toán được 4,8 triệu đồng và nhận kiốt. Sau đó, các bên có tranh chấp và năm 2006 (14 năm sau), Tòa án xác định thỏa thuận mua bán trên “là hợp pháp, các bên có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện”. Từ nhận định đó, Tòa án Nhân dân Tối cao đã điđến kết luận rằng “số tiền còn thiếu, bên mua là ông Thiết, bà Lới phải thanh toán cho bên bán là ông Sơn, bà Thìn theo thời giá (kiốt phải được định giá để ông Thiết, bà Lới thanh toán theo giá mới phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng)”. Ở đây, Tòa án Nhân dân Tối cao theo hướng cần phải định giá lại kiốt có tranh chấp và bên mua phải thanh toán phần chưa thanh toán theo tỷ lệ tương ứng. Như vậy, Tòa án Nhân dân Tối cao đã can thiệp vào hợp đồng để tái cân bằng lợi ích cho các bên.4

Bốn là, khoản 4 Điều 420 BLDS năm 2015 quy định trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng hay khi Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Như vậy, “thỏa thuận khác” là căn cứ duy nhất để một trong các bên có thể hoãn thực hiện nghĩa vụ. Vấn đề đặt ra là trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không? Với quy định hiện nay, nếu không thỏa thuận được, bên còn lại có thể cố tình trì hoãn giải quyết vụ việc tại Tòa án nhằm thu được nhiều lợi ích hơn và tiếp tục thực hiện hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia. Quy định này chưa bảo vệ kịp thời cho bên yếu thế trong thời gian chờ Tòa án đưa ra quyết định cuối cùng.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

Năm là, Điều 420 BLDS năm 2015 chỉ đề cập đến vai trò của Tòa án mà không quy định vai trò của trọng tài thương mại. Theo Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài trong các trường hợp sau: (i) tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (ii) tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (iii) tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. Như vậy, trong trường hợp các bên không liên quan đến hoạt động thương mại, nếu có thỏa thuận trọng tài giải quyết trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản sẽ không thể thực hiện được vì BLDS năm 2015 chỉ quy định Tòa án có quyền giải quyết trong khi việc yêu cầu sự can thiệp từ trọng tài có một số ưu điểm nổi bật so với Tòa án, ví dụ như thời gian giải quyết nhanh chóng và thủ tục không phức tạp, có thể giảm thiểu được thiệt hại cho các bên. Bên cạnh đó, việc BLDS năm 2015 chỉ đề cập tới vai trò của Tòa án mà không đề cập tới vai trò của Trọng tài, mặc dù căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài” các bên vẫn có thể hoàn toàn giải quyếttại trọng tài nhưng trên thực tế việc quy định không rõ ràng như vậy dễ gây cách hiểu sai là trọng tài không có thẩm quyền giải quyết mặc dù các bên có thỏa thuận trọng tài để giải quyết hệ quả của điều chỉnh hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Do đó, pháp luật cần bổ sung vai trò của trọng tài trong việc sửa đổi nội dung hợp đồng khi các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý để quy định được rõ ràng và đảm bảo quyền lợi của các bên

Quyết định giám đốc thẩm số 14/2006/DS-GĐT ngày 06/6/2006 về “V/v tranh chấp quyền sở hữu tài sản” Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao.

của

Sáu là, hệ quả pháp lý của việc sửa đổi hợp đồng cần được hướng dẫn cụ thể hơn nữa nhằm xác định các nghĩa vụ và trách nhiệm trước, trong và sau khi sửa đổi hợp đồng do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Có quan điểm cho rằng, việc sửa đổi hợp đồng phải đảm bảo các yêu cầu sau: (i) Các điều khoản mới có hiệu lực thay thế cho các điều khoản đã bị sửa đổi; (ii) Việc sửa đổi hợp đồng tuân theo hình thức của hợp đồng nếu hình thức là bắt buộc và việc sửa đổi hợp đồng có thể nằm trong phần phụ lục của hợp đồng; (iii) Việc sửa đổi không được gây thiệt hại cho người thứ ba, trường hợp người thứ ba có lợi ích liên quan từ hợp đồng thì việc sửa đổi phải được người thứ ba đồng ý; (iv) Việc sửa đổi hợp đồng phải tuân thủ các quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng; (v) Không làm thay đổi việc chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp cũng như thời hiệu khởi kiện.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Chương 2 nghiên cứu thực trạng pháp luật về giao kết, thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015, đặc biệt tập trung vào đánh giá những điểm mới nổi bật của Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao kết, thực hiện hợp đồng, trước và sau khi có những điểm mới đó thì đã giải quyết được những vấn đề vướng mắc gì trong thực tiễn.

Bên cạnh đó, tác giả cũng có sự so sánh, đối chiếu với quy định của pháp luật quốc tế để làm cơ sở học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm bổ ích cho việc hoàn thiện các quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2015. Bởi vì quy định về giao kết, thực hiện hợp đồng theo pháp luật của một số quốc gia, pháp luật trong các bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế là những quy định tiến bộ, mang tính hội nhập, được các thương nhân, cá nhân, tổ chức tham gia ký kết hợp đồng và lựa chọn áp dụng. Vấn đề giao kết, thực hiện hợp đồng luôn được chú trọng xây dựng trên nền tảng thực tiễn thương mại quốc tế nên có giá trị thực tiễn cao, phù hợp với xu hướng phát triển của pháp luật hợp đồng hiện đại.Khóa luận: Thực trạng giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp giao kết hợp đồng trong Bộ luật Dân sự

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x