Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay hay nhất năm 2023 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

2.1. Các quy định pháp luật hiện hành về giải thích pháp luật

Một cách chung nhất, khung pháp lý của giải thích pháp luật bao gồm các quy định pháp luật điều chỉnh các nội dung về:

  • Chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật;
  • Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật;
  • Hình thức và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật;
  • Quy trình thủ tục khi tiến hành giải thích pháp luật.

Các quy định này nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật – từ Hiến pháp (2013), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015), Nghị quyết số 1075/2015/UBTVQH về Ban hành quy chế làm việc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Nghị định số 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật…

Hoạt động giải thích pháp luật được quy định với những nội dung cơ bản như sau:

  • Về chủ thể có thẩm quyền đề nghị giải thích pháp luật

Theo quy định của pháp luật, được quy định tại Khoản 1 Điều 158 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, các chủ thể chính thức có thẩm quyền yêu cầu đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật hiện nay là: Chủ tịch nước, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận và đại biểu Quốc hội.

  • Chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Chủ thể chính thức có thẩm quyền giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Quy định này được thể hiện tại Hiến pháp 1959 (Điều 53), Hiến pháp 1992 (Điều 91), Hiến pháp 2013 (Điều 74), Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, 2008, 2015.

Hiến pháp 1980 quy định chủ thể giải thích pháp luật là Hội đồng Nhà nước (Điều 100) – là “cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại khoản 2, Điều 74, Hiến pháp 2013), Ủy ban thường vụ Quốc hội là chủ thể được trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức.

“Điều 74

Uỷ ban thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

  1. Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh;”

Như vậy, chủ thể có thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức ở Việt Nam là cơ quan thuộc nhánh quyền lực lập pháp.

Tuy nhiên, bằng thưc̣ tế hoaṭ đông̣ của mình, để đảm bảo giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật thực tiễn đặt ra, các cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực còn lại đều tham gia vào hoạt động giải thích pháp luât,̣ ví du ̣như hoạt động ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ, trong đó có thể đưa ra các đinḥ nghiã về môṭ số thuâṭ ngữ mà Luâṭ chưa giải thich́ chi tiết; Tòa án thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật như ban hành văn bản hướng dẫn, ban hành án lệ.

  • Hình thức và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật

Hình thức của văn bản giải thích pháp luật hiện nay là Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hình thức thể hiện và giá trị pháp lý của văn bản giải thích pháp luật được quy định tại Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 2015 như sau:

“Điều 161. Đăng Công báo, đăng tải và đưa tin nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh

Nghị quyết của Ủy ban nhân dân thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh phải được đăng Công báo theo quy định tại Điều 150 của Luật này, đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội và đăng tải, đưa tin theo quy định tại Điều 157 của Luật này. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh được áp dụng cùng với văn bản được giải thích.”

  • Quy trình thủ tục khi tiến hành giải thích pháp luật

Quy trình giải thích pháp luật được quy định cụ thể tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015:

“Điều 160. Trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh

1, Tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích.

2. Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:

  1. Đại diện cơ quan được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo;
  2. Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
  3. Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến,
  4. Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
  5. đ) Chủ tọa phiên họp kết luận;
  6. e) Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết;
  7. Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.”

Về cơ bản quy trình, thủ tục trong hoạt động giải thích Hiến pháp, luật, được thực hiện giống như quy trình, thủ tục thông qua luật. Tuy nhiên với tính chất, nội dung và phạm vi nghị quyết nên quy trình cũng có phần đơn giản hóa hơn, cụ thể gồm các bước:

  • Đề nghị giải thích pháp luật: Khi phát sinh nhu cầu, các chủ thể có thẩm quyền đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích. Văn bản đề nghị phải thể hiện được các nội dung cơ bản như sự cần thiết, nội dung quy định cần giải thích, các cách hiểu khác nhau về quy định… Ủy ban Thường vụ Quốc hội có trách nhiệm xem xét và thông báo cho bên đã đề nghị biết ý kiến của mình về vấn đề này. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
  • Soạn thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh: Sau khi đề nghị giải thích được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp nhận thì Ban soạn thảo được thành lập để chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải thích. Dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh sau khi đã soạn thảo sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiến hành thẩm tra.
  • Thẩm tra dự thảo nghị quyết giải thích: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích. Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự thảo, tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
  • Sự cần thiết ban hành nghị quyết; đối tượng, phạm vi điều chỉnh;
  • Sự phù hợp của nội dung dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự thảo và tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật;
  • Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo;
  • Tính khả thi của dự thảo.
  • Thảo luận tại phiên họp và xem xét thông qua dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
  • Công bố nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.

Bên cạnh quy trình, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội như đã nêu trên, các cơ quan hành pháp hay tư pháp cũng thực hiện việc giải thích pháp luật. Đối với các hoạt động như ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ, hướng dẫn chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ; hay Tòa án thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật như ban hành ban hành án lệ cũng đều được tuân theo một quy trình nhất định được quy định bởi pháp luật. Một cách vắn tắt, các quy trình này được thực hiện như sau:

Hoạt động ban hành các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết của Chính phủ được tuân theo quy định của quy trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật. Theo Nghị định 34/2016/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, quy trình ban hành Văn bản quy phạm pháp luật gồm 03 bước.

  • Bước 1: Lập đề nghị xây dựng Văn bản quy phạm pháp luật;
  • Bước 2: Soạn thảo, thẩm định dự án, dự thảo Văn bản quy phạm pháp luật;
  • Bước 3: Công báo và niêm yết Văn bản quy phạm pháp luật.

Theo quy định tại Nghị quyết 03/2015/NQ–HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao năm 2015 Về quy trình lưạ chon,̣ công bố và áp dung̣ án lê,̣thì quy trình lựa chọn, công bố án lệ phải trải qua các bước sau:

  • Bước 1: Rà soát, phát hiện các bản án, quyết định để đề xuất phát triển thành án lệ (Điều 3);
  • Bước 2: Lấy ý kiến đối với bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ (Điều 4);
  • Bước 3: Thành lập Hội đồng tư vấn (Điều 5);
  • Bước 4: Thông qua án lệ (Điều 6);
  • Bước 5: Công bố án lệ (Điều 7). Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Về thực chất, hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan trên được thực hiện bằng các hình thức như đối với các cơ quan hành pháp là thực hiện ban hành các nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một dạng nội dung phổ biến trong các loại văn bản này chính là “giải thích từ ngữ” trong luật. Hay như Tòa án đã thực hiện hoạt động giải thích pháp luật thông qua việc ban hành án lệ. Những sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này đều là những sản phẩm có giá trị pháp lý, góp phần giải quyết một phần nhu cầu giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Hỗ Trợ Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2.2. Thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam

2.2.1. Hoạt động giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Vấn đề “giải thích pháp luật” được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiến pháp 1959, các bản Hiến pháp 1980, 1992, 2013 đều có ghi nhận về vấn đề này. Trên cơ sở đó, Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 1996, 2008, 2015 đã có quy định và trao thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay thì hoạt động này của Ủy ban thường vụ Quốc hội chưa đạt hiệu quả cao. Việc giải thích pháp luật diễn ra không thường xuyên (chỉ giải thích được vài lần trong một khoảng thời gian dài), không đáp ứng nhu cầu giải thích pháp luật trên thực tiễn. Trong khi nhu cầu giải thích pháp luật là ngày càng nhiều, điều này gây bất cập lớn cho hoạt động thực thi và áp dụng pháp luật của các chủ thể có liên quan.

Một số lần giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể kể đến như sau:

Nghị quyết số 746/2005/NQ–UBTVQH ngày 26/01/2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích điểm c Khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại 1997 theo đề nghị của Chính phủ, nội dung về “Ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng đối với khiếu nại về các hành vi thương mại khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại” Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Điểm c Khoản 2 Điều 241 Luật Thương mại 1997 được giải thích:

“Đối với khiếu nại về vi phạm các nghĩa vụ khác trong việc thực hiện các hành vi thương mại thì thời hạn khiếu nại là ba tháng kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại. Như vậy, trừ khiếu nại về số lượng hàng hoá quy định tại điểm a khoản 2 Điều 241 và khiếu nại về quy cách, chất lượng hàng hoá quy định tại điểm b khoản 2 Điều 241 của Luật thương mại thì thời hạn khiếu nại đối với các vi phạm nghĩa vụ về thanh toán, thời hạn giao hàng và các vi phạm khác trong mua bán hàng hoá, đại lý mua bán hàng hóa, môi giới thương mại và trong các hành vi thương mại khác được qui định tại Điều 45 của Luật thương mại là ba tháng, kể từ khi bên vi phạm phải hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 170 của Luật thương mại.”

Nghị quyết số 1053/2006/NQ–UBTVQH ngày 10/11/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích nội dung về “Quyết định, chỉ thị” quy định tại khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước 2005 (theo đề nghị của Ủy ban Kiểm tra và Ngân sách của Quốc hội năm 2006)

Theo đó, nội dung trên được giải thích như sau”

“Quyết định, chỉ thị” quy định tại khoản 6 Điều 19 của Luật Kiểm toán Nhà nước được hiểu như sau:

  1. “Quyết định, chỉ thị” do Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành bao gồm quyết định, chỉ thị là văn bản quy phạm pháp luật và quyết định, chỉ thị là văn bản áp dụng pháp luật.
  2. “Quyết định, chỉ thị” do Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành theo thẩm quyền để hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội liên quan đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân là văn bản quy phạm pháp luật./.

Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 24/08/1998 Hướng dẫn, giải thích về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/07/1991.

Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02/04/2005 Quy định về việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01/07/1991. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH ngày 27/07/2006 Hướng dẫn, giải thích vè giao dịch dân sự đối với nhà ở được xác lập trước ngày 01 tháng 07 năm 1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.

Đối với hai trường hợp đầu tiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành giải thích pháp luật trên cơ sở xuất phát từ yêu cầu của các chủ thể liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật. Đối với ba trường hợp sau, khi giải thích, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cân nhắc, dựa trên cơ sở hoàn cảnh mới, đã đưa ra những quy định bổ sung và mang tính hướng dẫn để phù hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, những văn bản này mang tính lập pháp bổ sung hơn là giải thích pháp luật. Trên thực tế, nhu cầu giải thích pháp luật ở nước ta là rất lớn, do các sản phẩm lập pháp thường mang tính chung chung, trừu tượng. Nhưng một phần do là cơ quan thường trực của Quốc hội không chuyên trách, phải đảm nhiệm rất nhiều công việc quan trọng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng không thể tham gia được nhiều vào hoạt động giải thích pháp luật.

Với số lần giải thích pháp luật ít, hoạt động giải thích pháp luật không được diễn ra thường xuyên, cách thức giải thích còn nặng về tính ban hành những quy phạm bổ sung. Nhìn chung, hoạt động giải thích pháp luật ở nước ta do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm nhiệm chưa thực sự có hiệu quả, hơn nữa, trước một nhu cầu khá đồ sộ và cấp thiết về việc giải thích pháp luật, thì hoạt động này chưa thể đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hiện tại cũng như trong tương lai.

2.2.2. Hoạt động giải thích pháp luật của cơ quan hành pháp

Với hoạt động giải thích pháp luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đảm nhiệm không được diễn ra thường xuyên, mà nhu cầu giải thích pháp luật lại luôn luôn tồn tại, vì vậy, để quy phạm pháp luật đã được ban hành đi được vào đời sống, để pháp luật được giải thích, thực hiện một cách thống nhất trong thực tiễn thì cần có những chủ thế khác tiến hành hoạt động này. Có thể dễ dàng bắt gặp rất nhiều nghị định của Chính phủ, thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành, một dạng nội dung phổ biến trong các loại văn bản này chính là “giải thích từ ngữ” trong luật. Theo các quy định của pháp luật, Chính phủ được ban hành các nghị định để quy định “chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước…”; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành thông tư để quy định “chi tiết điều, khoản, điểm được giao trong luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ…” (trích Luật Ban hành văn bản Quy phạm pháp luật 2015). Có thể xem đây là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của các chủ thể này. Các văn bản pháp luật trên thường được ban hành bởi được sự ủy quyền của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hay do tự các cơ quan trên ban hành theo thẩm quyền; cũng có thể mặc dù luật, pháp lệnh chưa quy định, nhưng do đòi hỏi của các yêu cầu trên thực tiễn cuộc sống mà các cơ quan này phải ban hành để điều chỉnh kịp thời các quan hệ xã hội. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Về hình thức thể hiện, việc giải thích pháp luật của chủ thể hành pháp có thể có nhiều hình thức thể hiện: dưới dạng quy phạm, hướng dẫn, diễn giải quy định chi tiết (nghị định, thông tư); dưới dạng pano, áp phích cổ động, khẩu hiệu (ví dụ: “đóng thuế là nghĩa vụ và vinh dự của mọi công dân”, “trốn thuế là vi phạm pháp luật” ). [9]

Trên thực tế, có thể kể đến một số hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan này như:

  • Hoạt động giải thích pháp luật của Chính phủ: phổ biến nhất là hình thức diễn giải tại văn bản pháp luật mà Chính phủ ban hành (Nghi định) để hướng dẫn, quy định chi tiết các luật, pháp lệnh. Ví dụ:
  • Nghị định 126/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
  • Điều 10 của Luật Luật sư quy định: “Bằng cử nhân luật” đối với luật sư. Để hiểu bằng cử nhân là gì, Điều 1, Nghị định của Chính phủ số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định:

“Người có bằng cử nhân luật quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư là người có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam… cấp….

Các nội dung trong các văn bản này thường xen lẫn giữa các nội dung giải thích pháp luật và nội dung hướng dẫn. Nhìn chung, các văn bản này cũng chứa đựng những phần giải thích pháp luật nhất định.

Hoạt động giải thích pháp luật của các Bộ và các cơ quan ngang Bộ: tùy thuộc theo thẩm quyền và lĩnh vực của mình, các Bộ thường được giao thẩm quyền ban hành các văn bản để giải thích, hướng dẫn, quy định chi tiết các văn bản pháp luật có liên quan tới ngành, lĩnh vực đó. Hình thức phổ biến nhất của loại văn bản này là các Thông tư do các Bộ và các cơ quan ngang bộ ban hành. Đại đa số các văn bản đó thường có cụm từ “giải thích” hay “hướng dẫn”. Ví dụ: Thông tư 63/2018/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 70/2018/NĐ-CP về quản lý tài sản hình thành từ thực hiện nhiệm vụ khoa học, công nghệ; Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng.

Thực tế có thể thấy rằng, các cơ quan hành pháp ở Việt Nam đã tiến hành hoạt động giải thích pháp luật, nội dung giải thích pháp luật đã ít nhiều được thể hiện qua các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết. Tuy vậy, các sản phẩm này vẫn còn có sự đan xen, chưa rõ ràng và khó phân biệt giữa hướng dẫn, giải thích hay là quy định chi tiết, chưa thể hiện được sự phân biệt đặc trưng giữa giải thích pháp luật và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, số lượng văn bản pháp luật ngày càng đồ sộ và có sự chồng chéo lẫn nhau. Cho đến nay, pháp luật cũng chưa có những quy định chi tiết về mặt pháp lý cho hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan này, vì vậy khiến cho hoạt động giải thích pháp luật chung có phần rối ren và phức tạp.

2.2.3. Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Trước khi thừa nhận quyền ban hành án lệ, Tòa án Việt Nam không phải là một chủ thể được trao quyền giải thích pháp luật một cách chính thức. Tuy nhiên, là một chủ thể với nhiệm vụ chính gắn liền với hoạt động xét xử, mà hoạt động này khiến cho việc giải thích pháp luật đối với chủ thể này là cần thiết và nhiều hơn cả. Vì vậy, ta thường bắt gặp những trường hợp mà Tòa án giải thích pháp luật, được thể hiện rõ nét nhất qua các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân Tối cao với các chủ thể khác theo thẩm quyền, án lệ… Hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án được thể hiện trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; tiến hành giải thích pháp luật trong quá trình xét xử; hoặc qua quá trình tống kết, xây dựng và ban hành các án lệ.

Khi xem xét các nội dung các văn bản quy phạm pháp luật mà Tòa án nhân dân Tối cao đã ban hành, dễ nhận thấy trong nội dung các văn bản đó có các yếu tố nhằm diễn giải, với mục đích làm cho pháp luật được hiểu một cách minh bạch, rõ ràng hơn. Đó chính là việc mà Tòa án đã thực hiện hoạt động giải thích pháp luật thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật theo thẩm quyền. Ví dụ: Tại Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã giải thích về “Đương sự ở nước ngoài” bao gồm:

  1. a) Đương sự là người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
  2. Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
  3. c) Đương sự là người nước ngoài định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.
  4. d) Đương sự là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự;
  5. đ) Cơ quan, tổ chức không phân biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự.”

Có thể thấy, nội dung trong các văn bản này lại rất gần với giải thích pháp luật mang tính quy phạm. Nghị quyết do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Thông tư của Tòa án nhân dân Tối cao chính là các văn bản quy phạm pháp luật, có hiệu lực bắt buộc và giá trị pháp lý đối với các chủ thể pháp luật. Các nội dung, yếu tố giải thích pháp luật trong các văn bản, hướng dẫn mang tính chuyên môn của Tòa án nhân dân Tối cao có giá trị pháp lý, buộc các tòa án địa phương phải thi hành, nếu không tuân thủ có thể dẫn đến việc kết quả áp dụng pháp luật của tòa án cấp dưới có thể bị hủy bỏ.

Bên cạnh các văn bản như Nghị quyết, Thông tư trên, Tòa án còn thực hiện giải thích pháp luật thông qua các văn bản khác trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của mình. Có thể nhắc đến các báo cáo tổng kết công tác xét xử hàng năm. Các báo cáo này được đúc rút lại, báo cáo lên Tòa án nhân dân Tối cao nhằm tổng kết các vụ việc, lập luận diễn giải, bày tỏ quan điểm với những vấn đề còn nhiều tranh cãi. Việc thực hiện tổng kết báo cáo này nhằm đạt được mục đích xác định chính xác các quy định pháp luật, làm rõ và hiểu rõ pháp luật qua quá trình tổng kết các vụ việc, để đạt được sự thống nhất khi áp dụng pháp luật trong hệ thống các tòa án. Hay các Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, nội dung của các quyết định này cũng thường chứa đựng nhận định, lập luận, giải thích các quy phạm pháp luật liên quan nhằm phục vụ cho việc ra phán quyết.

Trong thực tế, Tòa án cũng thực hiện hoạt động giải thích pháp luật trong quá trình xét xử, đây là một hoạt động giải thích mang tính vụ việc, tình huống cụ thể. Trong quá trình giải quyết một vụ việc, thẩm phán không thể áp dụng một cách máy móc các quy phạm, mà luôn luôn cần có sự phân tích, giải thích tại sao cần áp dụng quy phạm này, tại sao lại áp dụng cho tình huống này hay quy phạm này được hiểu như thế nào… Hoạt động xét xử luôn luôn yêu cầu và đòi hỏi sự giải thích khi áp dụng pháp luật. Như vậy, trong hoạt động chuyên môn của mình, thẩm phán vẫn luôn phải tiến hành việc giải thích pháp luật.

Dễ thấy, Luâṭ Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24/11/2014 đa ̃ngầm trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luâṭthông qua quy đinḥ “Tòa án nhân dân tối cao tổng kết thưc̣ tiêñ xét xử của các tòa án, bảo đảm áp dung̣ thống nhất pháp luâṭ trong xét xử” và“Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử”. Như vậy, Tòa án cũng đã giải thích pháp luật thông qua quá trình tổng kết, báo cáo, xây dựng và ban hành các án lệ. Cho đến nay Toà án đã được ban hành án lệ. Ngày 17/10/2018, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao ký Quyết định số 199/QĐ-CA về việc công bố 11 án lệ. Các án lệ này được áp dụng xét xử từ ngày 03/12/2018. Như vậy, quyết định này đã nâng tổng số án lệ của Việt Nam lên con số chính thức là 27 án lệ. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Án lê ̣là môṭ công cu ̣hữu hiêụ trong viêc̣ giải thích pháp luâṭ trên thế giới nói chung và ở Viêṭ Nam nói riêng. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành án lệ vẫn còn hạn chế. Quy trình xây dựng và ban hành án lệ còn nhiều bất cập, số lượng án lệ còn ít, không theo kịp tốc độ thay đổi của văn bản pháp luật. Theo quy định của Nghị quyết 03/2015/NQ–HĐTP năm 2015 thì từ khi đề xuất án lệ đến khi án lệ có hiệu lực có thể mất gần 1 năm (bao gồm: rà soát đề xuất án lệ 06 tháng; lấy ý kiến 02 tháng; Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao 01 tháng; tổ chức phiên hợp Hội đồng tư vấn 15 ngày; án lệ có hiệu lực sau 45 ngày kể từ ngày công bố). Thời gian này là chưa tính đến thời gian Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao ra quyết định thành lập Hội đồng tư vấn và tổ chức phiên họp Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao để thông qua án lệ. Với quy trình lựa chọn, công bố án lệ mất khá nhiều thời gian như vậy, dẫn đến số lượng án lệ được công bố còn ít (số lượng án lệ hiện nay là 27 án lệ). Nhìn vào con số trên, có thể thấy về hiệu quả tạo lập án lệ vẫn còn thấp. Với con số 27 án lệ ở thời điểm hiện tại, đây quả thật là con số án lệ quá sức khiêm tốn để thực hiện vai trò bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất.

Hơn nữa, các án lệ đã công bố cho thấy phần lập luận hay lý lẽ của tòa án đưa ra còn khá đơn giản, ngắn gọn chưa đi sâu vào việc vận dụng các nguyên tắc pháp lý hoặc học thuyết pháp lý làm cơ sở cho lập luận của mình. Điều này chắc chắn sẽ làm giảm đi chất lượng hay sức thuyết phục của án lệ.

Ví dụ: Tại án lệ số 02, với tình huống người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã bỏ tiền ra để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhờ người ở trong nước đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ mình; lý lẽ của tòa án đưa ra để giải quyết vụ việc khi có tranh chấp xảy ra như sau: “Tuy bà Thảnh là người bỏ 21,99 chỉ vàng để chuyển nhượng đất (tương đương khoảng 27.047.700 đồng). Nhưng giấy tờ chuyển nhượng đứng tên ông Tám và sau khi nhận chuyển nhượng ông Tám quản lý đất, sau đó chuyển nhượng cho người khác. Như vậy, lẽ ra phải xác định ông Tám có công sức trong việc bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên phải xác định số tiền trên (sau khi trừ tiền gốc tương đương 21,99 chỉ vàng của bà Thảnh) là lợi nhuận chung của bà Thảnh và ông Tám. Đồng thời, xác định công sức của ông Tám để chia cho ông Tám một phần tương ứng với công sức của ông mới đúng và đảm bảo quyền lợi của các đương sự. (Trường hợp không xác định được chính xác công sức của ông Tám thì phải xác định bà Thảnh, ông Tám có công sức ngang nhau để chia).” [7]

Như vậy, khi giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem xét và tính công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất cho người đứng tên hộ; trường hợp không xác định được chính xác công sức của người đó thì cần xác định người thực chất trả tiền để nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và người đứng tên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất hộ có công sức ngang nhau để chia phần giá trị chênh lệch tăng thêm so với tiền gốc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ban đầu. Trong toàn bộ phần lập luận này chúng ta không tìm thấy tòa án dựa trên các nguyên tắc pháp luật hay đạo đức hoặc học thuyết pháp lý nào để giải thích, làm cơ sở cho giải pháp pháp lý của mình. Điều này dẫn đến chất lượng của giải pháp pháp lý mà tòa án đưa ra bị hoài nghi. Vì vậy, cần có những biện pháp khắc phục để chất lượng án lệ ngày càng được cải thiện và nâng cao hơn, đáp ứng được các nhu cầu giải thích pháp luật và mục đích áp dụng pháp luật một cách thống nhất.

Hoạt động giải thích pháp luật do Tòa án thực hiện là một hoạt động xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, đều là những giải thích do nhu cầu trực tiếp phát sinh và hoạt động giải thích này mang lại những giá trị rất thiết thực. Vì vậy, việc mở rộng thẩm quyền giải thích pháp luật cho Tòa án là rất cần thiết, giúp cho Tòa án có thể thực hiện vai trò của mình, phát huy được những thế mạnh và giải quyết được nhu cầu giải thích pháp luật đang ngày càng tăng cao.

2.3. Một số đánh giá về hoạt động giải thích pháp luật hiện nay Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

2.3.1. Thành tựu

Hoạt động giải thích pháp luật đã được xây dựng một cơ sở pháp lý khá đầy đủ, từ đối tượng, chủ thể, hình thức thể hiện và quy trình giải thích pháp luật tương đối đầy đủ và chi tiết. Xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động này chính là cơ sở để hoạt động giải thích pháp luật ngày càng được thực hiện một cách hiệu quả hơn.

Tại Việt Nam, hoạt động giải thích pháp luật được thực hiện theo mô hình cơ quan lập pháp giải thích pháp luật, với chủ thể chính thức được ghi nhận là Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cơ quan này đã thực hiện giải thích pháp luật một số lần, dựa trên cơ sở những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng pháp luật. Ví dụ có thể kể đến như trường hợp giải thích pháp luật của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giải thích điểm c, khoản 2 Điều 241 của Luật Thương mại năm 1997, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thực hiện giải thích pháp luật chính thức xuất phát từ yêu cầu cụ thể của các chủ thể có liên quan trong quá trình áp dụng pháp luật.

Ngoài ra, các chủ thể khác (cơ quan hành pháp, Tòa án) cũng tham gia vào hoạt động giải thích pháp luật. Bằng thưc̣ tế hoaṭ đông̣ của mình, các cơ quan pháp luâṭ nhà nước Viêṭ Nam đều tham gia quá trinh̀ vào viêc̣ giải thích pháp luât,̣ vídu ̣như hoạt động ban hành các Nghi ̣đinḥ quy đinḥ chi tiết các quy định của Luâṭ của Chính phủ, trong đó có thể đưa ra các đinḥ nghiã về môṭ số thuâṭ ngữ mà luâṭ chưa giải thích chi tiết. Mặc dù yếu tố giải thích pháp luật trong các văn bản của các cơ quan hành pháp còn chưa nhiều, chủ yếu mang tính hướng dẫn và ban hành quy phạm bổ sung, tuy nhiên các văn bản này đã giúp cho việc thực hiện pháp luật của các chủ thể được thuận lợi hơn. Về hoạt động giải thích pháp luật của Tòa án, thông qua những sản phẩm như các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, các sản phẩm án lệ, bản án… có thể thấy Tòa án đã đóng góp một cách rất tích cực vào hoạt động giải thích pháp luật, đã giải quyết được một khối lượng lớn của nhu cầu giải thích pháp luật khi áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trong quá trình xét xử, các thẩm phán bước đầu cũng thể hiện sự chủ động của mình trong hoạt động giải thích pháp luật (giải thích pháp luật về mặt tố tụng, đưa ra các lập luận, lý lẽ…). Các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này đã được xã hội tiếp nhận với tư cách là những hướng dẫn, giải thích đáng tin cậy.

2.3.2. Hạn chế Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Hoạt động của cả các cơ quan thuộc cả ba nhánh quyền lực trong hoạt động giải thích pháp luật đều đem lại những giá trị nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều hạn chế khiến cho hoạt động giải thích pháp luật chưa thực sự có hiệu quả tốt.

Trước hết là về số lượng các sản phẩm giải thích pháp luật của cơ quan được trao thẩm quyền chính thức trong hoạt động giải thích pháp luật không nhiều, hoạt động giải thích này không được thực hiện thường xuyên và ít có hiệu quả. Số lần giải thích pháp luật do Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực hiện chỉ khiêm tốn ở một vài lần. So với nhu cầu giải thích pháp luật hiện nay thì con số đó là quá ít ỏi. Vì vậy, để giải quyết kịp thời nhu cầu giải thích pháp luật thực tiễn đặt ra, những chủ thể khác (cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) đã thực hiện các hoạt động giải thích pháp luật. Điều này dẫn đến tình trạng cơ quan được giao thẩm quyền giải thích pháp luật thì hoạt động ít, các cơ quan thuộc hai nhánh quyền lực còn lại thì lại tiến hành giải thích pháp luật nhiều. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể thực hiện chức năng giải thích pháp luật một cách hiệu quả. Điều này có thể lý giải bởi các lý do sau:

  • “Thứ nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội không có các chất liệu đời sống: từ phía người dân để cân bằng với các quy phạm hiến định, pháp định từ phía cơ quan nhà nước.
  • Thứ hai, họ nhìn các quy định hiến định và pháp định dưới con mắt của người trong cuộc chứ không phải dưới con mắt của chủ thể phản biện, chủ thể đánh giá.
  • Thứ ba, tư cách của họ không hoàn toàn độc lập với các chủ thể lập pháp, lập hiến, bởi vì họ là chủ thể đắc lực tham gia vào quá trình lập pháp, lập hiến đó.
  • Và, thứ tư, quan trọng hơn, các yêu cầu về giải thích pháp luật không đến với họ, một phần vì họ không nhận thấy, phần khác vì đã luôn có các chủ thể khác bằng nhiều cách thức, thực hiện công việc giải thích pháp luật trong thực tế.” [19, tr.21]

Một hạn chế có thể kể đến nữa, việc cả ba nhóm chủ thể đều tiến hành giải thích pháp luật đã làm xuất hiện nhiều cách thức và nội dung giải thích pháp luật rất đa dạng, xuất hiện dưới các dạng hình thức như Nghị quyết, Công văn, Nghị định… Tuy nhiên, với nhiều chủ thể và cách thức giải thích như vậy, nên các sản phẩm giải thích dễ dẫn đến tình trạng không đồng nhất giữa các văn bản, hoạt động giải thích pháp luật khá phức tạp với những quy định chồng chéo và có thể mâu thuẫn với nhau. Điều này có thể khiến cho các nguy cơ về vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan này có thể dễ xảy ra. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Hơn nữa, hoạt động giải thích pháp luật của các cơ quan thuộc nhánh quyền lực hành pháp và tư pháp cũng còn tồn đọng nhiều hạn chế. Các sản phẩm giải thích pháp luật của các cơ quan hành pháp vẫn còn có sự đan xen, chưa rõ ràng và khó phân biệt giữa hướng dẫn, giải thích hay là ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bản thân việc đưa ra những hướng dẫn thi hành, chi tiết, cụ thể hóa các văn bản cũng nhằm đưa những tư tưởng, yêu cầu, nguyên tắc, quy định chung của cơ quan ban hành đi vào thực tiễn cuộc sống. Tuy nhiên, việc đưa ra những hướng dẫn này có những lúc cũng đã bộc lộ những mặt tiêu cực như chưa thực sự nhằm vào mục đích làm cho việc áp dụng pháp luật được dễ hiểu, thống nhất như mục đích ban đầu của hoạt động giải thích pháp luật, hay nói một cách khác là đưa ra những hướng dẫn, giải thích để làm dễ hơn cho công tác quản lý nhưng lại gây ra những khó khăn cho các chủ thể thực hiện.

Đối với việc xây dựng và ban hành án lệ cũng vẫn còn những hạn chế như quy trình xây dựng và ban hành án lệ còn nhiều bất cập, số lượng án lệ còn ít, không theo kịp tốc độ thay đổi của văn bản pháp luật, kinh nghiệm xây dựng án lệ chưa được nhiều. Nhìn vào các án lệ đã công bố cũng cho thấy phần lập luận hay lý lẽ của tòa án đưa ra còn khá đơn giản, ngắn gọn và chưa đủ sức thuyết phục.

Bên cạnh đó, tình trạng quá tải trong công việc của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải thích và trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ ở các cơ quan nhà nước còn hạn chế. Đây cũng là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến việc giải thích pháp luật nói chung và giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh còn hạn chế.

Những hạn chế trong hoạt động giải thích pháp luật cũng chính là những vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn giải thích pháp luật của Việt Nam, và đây cũng chính là những đặc điểm cần được khắc phục để xây dựng, phát triển hoạt động giải thích pháp luật hoàn thiện hơn, đem lại những giá trị và hiệu quả cao hơn trong những sản phẩm giải thích pháp luật.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

Tại Việt Nam hiện nay, thẩm quyền giải thích pháp luật chính thức được trao cho cơ quan lập pháp (cụ thể là Ủy ban Thường vụ Quốc hội). Thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp và những văn bản pháp luật khác có liên quan. Tuy nhiên, hoạt động này của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa thực sự có hiệu quả, Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới thực hiện quyền hạn giải thích pháp luật được vài lần, điển hình nhất là tại Nghị quyết số 746/2005/NQ-UBTVQH11 và Nghị quyết 1053/2006/NQ-UBTVQH11.

Trên thực tế, bên cạnh Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các chủ thể khác như Chính phủ, các Bộ hay Tòa án cũng tiến hành hoạt động giải thích pháp luật. Những sản phẩm của các cơ quan này có giá trị thực tiễn cao và là những sản phẩm có giá trị pháp lý đáng tin cậy, giúp cho thực tiễn việc áp dụng pháp luật được thực hiện một cách dễ dàng hơn.

Hoạt động giải thích pháp luật đã ghi nhận một số thành tựu nhất định trên thực tế, tuy nhiên vẫn còn tồn đọng nhiều hạn chế. Đó là những vấn đề bức thiết cần phải khắc phục để hoạt động giải thích pháp luật ngày càng đạt được những hiệu quả tích cực hơn. Khóa luận: Thực trạng giải thích pháp luật tại Việt Nam hiện nay.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Giải pháp hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x