Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP Hà Nội và những vấn đề đặt ra dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.
Trước khi nhận xét về thực trạng áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội, khoá luận sẽ có những nhận xét chung về tình hình thực thi Luật phá sản năm 2004 tại Việt Nam. Lý do là vì không thể bóc tách riêng Hà Nội nếu chưa có một cái nhìn chung về việc thực thi Luật này trong cả nước.
2.1 Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng Pháp luật phá sản nói chung và luật phá sản năm 2005 ở Việt Nam
2.1.1 Những thuận lợi và kết quả
Luật phá sản năm 2004 là một bước tiến bộ rất lớn so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Rất nhiều điểm mới như đối tượng điều chỉnh được mở rộng hơn đến các loại hình doanh nghiệp, trình tự tiến hành đơn giản, đỡ phức tạp hơn do việc nhập tổ quản lý tài sản và tổ thanh lý làm một, thủ tục tiến hành đa dạng hơn, ngoài thủ tục thanh lý như trước nay có thêm thủ tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tiêu chí xác định doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn cứng nhắc nữa. Thẩm quyển giải quyết mở rộng đến toà án nhân dân cấp huyện…
Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, số liệu về tình hình phá sản khi áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993 đến ngày 31/12/2003, toàn ngành Toà án chỉ thụ lý được 159 vụ, trong đó chỉ tuyên bố phá sản được 51 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp bị Toà án ra quyết định tuyên bố phá sản chiếm tỷ lệ thấp (39,1%) trong số các vụ việc Toà án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Do số vụ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của Toà án hàng năm không lớn, nên cả nước trong giai đoạn này mới chỉ có hơn 20 Phòng thi hành án cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương có thụ lý và tổ chức thi hành quyết định tuyên bố phá sản.
Bảng 1: Bảng thống kê số vụ phá sản trên cả nước ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2004-2008
Theo báo cáo của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật phá sản năm 2004 có hiệu lực cho đến năm 2006, Toà án cấp tỉnh, thành phố thụ lý 56 vụ phá sản trong đó năm 2004 thụ lý là 5 vụ, năm 2006 thụ lý 40 vụ. Riêng năm 2006 các Toà án tỉnh phải giải quyết 53 yêu cầu mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp (trong đó thụ lý mới 40 vụ và măm 2005 chuyển qua là 13 vụ), đã giải quyết 16 vụ đạt tỷ lệ 30,2%. Năm 2007, Toà án phải giải quyết 175 vụ và đã giải quyết 159 đạt lệ 90,8%. Năm 2008, tòa án thụ lý mới 136 đơn, quyết định không mở thủ tục phá sản 4 đơn, mở thủ tục phá sản 131 đơn (đạt tỷ lệ 88,5%) và trả lại đơn 1 trường hợp (xem bảng 1). Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
So với 10 năm thực thi Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 trước đó, toàn ngành tòa án thụ lý có 159 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, song chỉ tuyên bố được 51 doanh nghiệp phá sản, có thể thấy ưu việt khá lớn của Luật Phá sản năm 2004.
Luật phá sản năm 2004 ra đời đã đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong việc ban hành và thực thi pháp luật phá sản nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung.
Điểm thuận lợi của Luật phá sản năm 2004 là ra đời khi nền kinh tế đang trên đà phát triển và cơ chế vận hành chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường. Điều nay đồng nghĩa với việc sức cạnh tranh lớn dẫn đến ngày càng nhiều các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thêm vào đó, chính bản thân nội dung Luật phá sản năm 2004 đã có nhiều điểm tiến bộ so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 cũng góp phần đáng kể cho việc thực hiện Luật này hiệu quả hơn trong thực tiễn.
Cụ thể:
Thứ nhất, đã hoàn thiện hơn khái niệm phá sản hay khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Đây là khái niệm quan trọng của Pháp luật phá sản. Như đã phân tích ở trên, khái niệm về phá sản trong pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Tuỳ thuộc vào khái niệm này trong pháp luật phá sản mà sự quản lý, chính sách của Nhà nước đối với hiện tượng phá sản là tích cực hay không tích cực, là nghiêng về bảo vệ bên nào: chủ nợ hay con nợ.
Theo Pháp luật phá sản năm 1993 quy định chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nếu con nợ không trả nợ sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày đòi nợ, quy định về thời hạn 3 tháng nợ lương liên tiếp với người lao động. Nhưng trên thực tế chủ nợ sẽ không bao giờ thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản đối với con nợ của mình bởi lẽ họ phải chứng minh con nợ thua lỗ trong hoạt động kinh doanh mà điều này thì nằm ngoài khả năng của chủ nợ. Luật phá sản năm 2004 (Điều 3) đưa ra khái niệm phá sản “Doanh nghiệp, hợp tác xã, không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”. Đây là một tiến bộ của Luật phá sản năm 2004 trong việc đơn giản hoá thủ tục xem xét doanh nghiệp bị phá sản con nợ cũng không có nghĩa vụ phải chứng minh con nợ thua lỗ như trước kia nữa, và do đó việc tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản sẽ nhanh chóng hơn.
Thứ hai, Luật phá sản năm 2004 khẳng định thủ tục phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt.
Có thể chia thủ tục phá sản là một quá trình bao gồm ba giai đoạn chính yếu:
+ Giai đoạn thứ nhất: Giai đoạn điều tra khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp. Trong giai đoạn này nếu con nợ không muốn rơi vào giai đoạn sau thì phải chứng minh cho Tòa án khả năng thanh toán nợ của mình. Nếu Tòa án nhận thấy con nợ không còn khả năng thanh toán nợ đến hạn thì áp dụng ngay giai đoạn tiếp theo.
+ Giai đoạn thứ hai: Giai đoạn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Giai đoạn này có nội dung chủ yếu là xây dựng phương án hòa giải, phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu không hòa giải được hoặc phương án hòa giải thực hiện không thành công thì Tòa án chuyển sang giai đoạn tiếp theo.
+ Giai đoạn thứ ba: Giai đoạn phá sản và thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Trong thủ tục phá sản nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có tính độc lập với nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như nhiệm vụ của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục thanh lý tài sản mà có thể loại trừ sự cần thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản doanh nghiệp…
Điểm tiến bộ được ghi nhận trong Luật Phá sản năm 2004 chính là những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong thủ tục phá sản. Điều này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án có thể quyết định tuyên bố phá sản với con nợ ngay mà không cần thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87 Luật phá sản 2004) hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87) hoặc khi đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản (Điều 86). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc trước thủ tục thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Không những thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực hiện được hoặc thực hiện không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79, 80).
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
2.1.2 Những khó khăn và bất cập. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Phạm vi chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản còn quá hẹp
Pháp luật phá sản trước hết là bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ. Do vậy đối tượng được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là các chủ nợ. Theo quy định của Luật phá sản năm 2004 có ba loại chủ nợ : chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm.
Điều 6 (Luật phá sản năm 2004) quy định:
Chủ nợ có đảm bảo một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá trị của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm ít hơn khoản nợ đó.
Chủ nợ có đảm bảo là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng giá trị của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba mà giá trị bảo đảm bằng với khoản nợ đó
Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng bất cứ giá trị nào của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Cũng theo Luật phá sản năm 2004, chỉ có ba đối tượng có quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản: doanh nghiệp hay hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ và đại diện người lao động. Nhưng lại chỉ có chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới được nộp đơn, còn chủ nợ có bảo đảm và các cơ quan công quyền có chức năng như Toà án, cơ quan Thanh tra, cơ quan Thuế… lại không có quyền này. Nhưng trên thực tế, các chủ nợ ở nước ta cũng rất ít khi làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản hoặc nếu có làm thì với mục đích khác chứ không phải mục đích bảo vệ quyền lợi của mình. Họ thường tìm các biện pháp để thu hồi nợ, theo họ làm như vậy dễ dàng hơn, còn nếu họ nộp đơn yêu cầu phá sản vừa tốn thời gian lại có khi không thể đòi được nợ vì tài sản của một doanh nghiệp mắc nợ là rất ít trong khi chủ nợ lại rất nhiều.
Thủ tục giải quyết phá sản còn kéo dài Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Ngoài lý do về tính khả thi của pháp luật phá sản chưa cao thì khi tiến hành một vụ phá sản các bên có liên quan (doanh nghiệp vỡ nợ, chủ nợ, Toà án) thực thi các bước theo luật phá sản một cách chậm chạp, bất hợp tác dẫn đến thời gian giải quyết một vụ phá sản ở nước ta thường kéo dài ít nhất là một năm thay vì từ bốn đến sáu tháng như dự kiến của pháp luật.
Vụ công ty Tamexco ở TP. Hồ Chí Minh kể từ khi nộp đơn đến khi được toà tuyên bố phá sản mất hơn 3 năm. Điều đó làm nản lòng các đối tượng có liên quan như chủ nợ, người lao động, thậm chí cả các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Toà án.
Một trong những lý do chính dẫn đến sự chậm trễ này là do yếu kém trong chế độ thực hiện tài chính doanh nghiệp. Hiện nay các quy định của pháp luật về kiểm toán rất đa dạng và liên quan đến việc kiểm toán khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ít nhất có những văn bản sau: Nghị định số 189/CP ngày 23/12/1994 hướng dẫn thực hiện Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 (Điều 11); Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 (Điều 89); Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 92); Nghị định 105/2004/NĐ- CP ngày 30/3/2004 về kiểm toán độc lập (Điều 10), đều có nội dung là báo cáo hàng năm của các công ty, doanh nghiệp phải được kiểm toán. Do vậy, việc áp dụng các văn bản đó như thế nào cho thống nhất là khó khăn thường xảy ra trong thực tiễn thi hành, chẳng hạn:
Điểm a khoản 4 điều 15 Luật Phá sản năm 2004 quy định: “báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã , trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập”, trong khi khoản 2 Điều 4 Luật phá sản 2004 quy định: “trong trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật phá sản và quy định của luật khác về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của Luật phá sản”.
Tuy nhiên, áp dụng quy định này, các Toà án địa phương khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (không phân biệt thành phần kinh tế) đều yêu cầu phải có kèm theo báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp đã được kiểm toán, nếu có thì mới thụ lý giải quyết, nếu báo cáo tài chính chưa có kiểm toán thì trả lại đơn, vì vậy thời gian thụ lý, giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thường kéo dài do phải chờ kiểm toán. Điều này dẫn đến hậu qủa là các giao dịch được thực hiện trong thời gian 03 tháng trước ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu theo khoản 1 điều 43 Luật Phá sản năm 2004.
Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không nộp đơn yêu cầu phá sản vì các quy định trong Luật phá sản năm 2004 vẫn chưa cụ thể Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp biết rõ mình đang lâm vào tình trạng phá sản mà không “chịu” nộp đơn yêu cầu phá sản. Đây cũng là nguyên nhân chính giải thích cho việc số lượng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là rất ít.
Ngoài hình thức phá sản ra các doanh nghiệp còn có thể chọn cho mình con đường khác là giải thể hoặc bỏ không. So với phá sản, giải thể là biện pháp chấm dứt hoạt động công ty một cách nhanh gọn hơn nữa giám đốc của công ty tiến hành giải thể vẫn có thể tiếp tục thành lập doanh nghiệp hoặc đứng ra điều hành công ty khác còn nếu chọn hình thức phá sản thì không. Nhiều công ty thì lại chọn biện pháp an toàn là “không hành động gì cả”. Thí dụ như Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng nông lâm nghiệp đã bị mất khả năng thanh toán từ năm 2004 đến nay vẫn chưa tuyên bố phá sản. Công ty Xuất nhập khẩu và Xây dựng nông lâm nghiệp là công ty thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội có 9 xí nghiệp thành viên, 5 chi nhánh trực thuộc tại các tỉnh và 5 phòng chức năng, nghiệp vụ. Trong một thời gian ngắn đã dính đến hai vụ hình sự đến nay chỉ còn công ty chỉ còn lại một toà nhà tại số 01 ngõ 1002 đường Láng, quận Đống Đa, Hà Nội và hai nhân viên bảo vệ cùng với một số chức trách chủ chốt khác. Đối với một số doanh nghiệp của người nước ngoài làm ăn tại Việt
Nam lại chốn chạy về nước khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Có thể kể ra hai doanh nghiệp Công ty Trách nhiệm hữu hạn Giày Anjin và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Vina Haeng Woon Industry (tại TP. Hồ Chí Minh) do các doanh nhân Hàn Quốc quản lý đã bỏ chạy khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đẩy hàng trăm lao động Việt Nam vào tình trạng thất nghiệp, không thanh toán lương và bảo hiểm.
2.1.3. Nguyên nhân bất cập trong quá trình thực hiện Luật phá sản năm 2004 Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Luật phá sản năm 2004 ra đời đã được điều chỉnh nhiều so với Luật phá sản doanh nghiệp năm 1994 nhưng trên thực tế áp dụng luật xảy ra nhiều những khó khăn, bất cập do những nguyên nhân sau:
Tính khả thi của luật không cao
Đối với doanh nghiệp khu vực Nhà nước việc phá sản hay không phụ thuộc quá nhiều vào chủ sở hữu, tức là Bộ hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh là cơ quan chủ quản của doanh nghiệp. Vì những lý do nào đó, cả lý do của tập thể hay lý do cá nhân của một số người và cũng không loại trừ khả năng vì nhận thức của một số bộ phận nhà lãnh đạo doanh nghiệp chưa đúng, vì động cơ thành tích của mình, của thiểu số một số người mà trì hoãn làm chậm hoặc kéo dài thời gian phá sản doanh nghiệp khi doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán.
Bản thân doanh nghiệp nếu có muốn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp mà chưa có ý kiến của cơ quan chủ quản cũng không thể được. Hơn nữa, theo quy định thì chỉ có doanh nghiệp ngoài quốc doanh mới bị ràng buộc về yêu cầu mở thủ tục phá sản, còn đối với doanh nghiệp Nhà nước thì nghĩa vụ ấy được xem như là quyền lợi. Trong bối cảnh hiện nay rõ ràng làm như vậy là tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trốn tránh phá sản.
Đối với bản thân chủ doanh nghiệp cũng vì những động cơ các nhân khác nhau mà không báo cáo, nộp đơn xin phá sản khi doanh nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ. Người ta né tránh trách nhiệm bằng việc về hưu, hoặc chờ sự điều chuyển đến nơi công tác mới, những người khác thay thế họ sẽ là những người phải giải quyết hậu quả mà lỗi đáng lẽ thuộc về mình. Nhiều trường hợp khi doanh nghiệp đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đến Toà án thì doanh nghiệp chỉ còn nhà, tài khoản trống trơn hoặc còn không đáng kể, chỉ còn lại mấy nhân viên bảo vệ trông nom khuyên viên, còn công nhân thì đã bỏ đi kiếm sống từ lâu.
Thêm một lý do nữa là chi phí cơ hội cho một vụ phá sản đối với doanh nghiệp là quá lớn so với lợi ích mà doanh nghiệp nhận được. Cái lợi lớn nhất ở đây là sau khi được tuyên bố phá sản doanh nghiệp sẽ không còn lo lắng phải trả nợ nữa (trừ doanh nghiệp tư nhân), đối với doanh nghiệp có khả năng phục hồi thì được tạo cơ hội để chạy chữa và hoạt động trở lại. Trong khi đó, đổi lại những lợi ích trên thì doanh nghiệp phải đối mặt với không ít phiền phức. Ngoài việc phải làm sáu loại báo cáo khác nhau cho toà, doanh nghiệp phải tốn tiền tạm ứng chi phí phá sản và mất thời gian. Nếu làm trôi chảy thì chỉ riêng giai đoạn từ khi mở thủ tục phá sản đến khi mở thủ tục thanh lý tài sản đã mất ít nhất là sáu tháng. Nhưng trên thực tế các vụ phá sản thành công cũng phải mất ít nhất là hơn một năm. Thêm vào đó, theo quy định thì chủ doanh nghiệp phá sản và những người quản lý doanh nghiệp sẽ bị toà ra quyết định không được thành lập doanh nghiệp và cấm đảm nhiệm các chức vụ quản lý doanh nghiệp từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Quy định này cũng đã làm ảnh hưởng đến tâm lý không muốn nộp đơn yêu cầu phá sản của các doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản.
Đối với các chủ nợ cũng không mặn mà gì đối với việc đưa đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ của mình. Nguyên nhân là do theo quy định thì một doanh nghiệp khi mở thủ tục phá sản bắt buộc phải thông báo công khai cho các tất cả các chủ nợ biết. Từ đây các chủ nợ nảy sinh tâm lý ngăn cản các chủ nợ tìm đến toà bằng con đường nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản: nếu nộp đơn thì dễ bị vỡ lở chuyện doanh nghiệp sắp phá sản và các con nợ ùn ùn kéo đến thì quyền lợi của bản thân chủ nợ chưa chắc đã đến lượt nên thà cứ im lặng tìm biện pháp để đòi nợ hoặc kiện bằng một vụ kiện riêng biệt thì còn có khả năng thu hồi. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm
Các văn bản hướng dẫn thực hiện luật còn chậm, nội dung hướng dẫn chưa phù hợp với thực tế hoặc quá khái quát, làm cho người nghiên cứu áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Thí dụ như Luật phá sản năm 2004 được thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lục từ ngày 15/10/2004 nhưng đến ngày 11/7/2006 Chính phủ mới có Nghị định hướng dẫn về hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản dẫn đến tâm lý chờ đợi, sợ sai không dám làm, và đó cũng là nguyên nhân chính để cả năm 2005 ngành Toà án cả nước mới chỉ giải quyết được một vụ phá sản.
Cho đến nay, để thực hiện Luật phá sản năm 2004 đã có những văn bản dưới luật được ban hành:
Quyết định số 01/2005/QĐ-TANDTC/KHXX ngày 27-4-2005 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán phụ trách tiến hành thủ tục phá sản.
Nghị quyết số 03/2005/NĐ-HĐTP ngày 28-4-2005 của Hội đồng thẩm phán Toàn án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản.
Nghị định số 94/2005/NĐ-CP ngày 11-7-2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp dụng Luật phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 19-02-2008 của liên Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết đoán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
Bên cạnh đó, còn nhiều văn bản vẫn đang trong quá trình nghiên cứu. Ví dụ như văn bản hướng dẫn Luật Phá sản việc thu hồi xử lý tài sản một cách cụ thể cho phù hợp với tính chất đặc thù của việc phá sản vì nó khác về căn bản khi xử lý tài sản thế chấp, tài sản kê biên để bảo đảm thi hành án dân sự đối với cá nhân, hộ gia đình, hoặc doanh nghiệp không lâm vào tình trạng phá sản vẫn chưa động tĩnh xây dựng.
2.2 Áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại TP. Hà Nội Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
2.2.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản các doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội và những vấn đề đặt ra.
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh là hai thành phố có lượng các doanh nghiệp, hợp tác xã tập trung lớn nhất cả nước. Điều này cũng đồng nghĩa với việc số vụ phá sản ở hai thành phố này cũng lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành khác. Dưới đây là bảng thống kê cho biết số vụ phá sản ở thành phố Hà Nội từ năm 1993 đến năm 2006 (bảng 2).
Bảng 2 : Số vụ phá sản tại TP. Hà Nội từ 1/1/1993 đến 31/12/2006
Theo báo cáo của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, từ năm 1994 đến cuối năm 2004, số vụ phá sản doanh nghiệp mà Toà phải thụ lý và giải quyết là 03 vụ. Trong năm 2005, thụ lý giải quyết: 03 vụ, từ đầu năm 2006 đến tháng 11/2006 thụ lý và giải quyết 08 vụ. Như vậy, từ ngày Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến tháng 11/2006, tổng số vụ phá sản mà Toà án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý và phải giải quyết là 11 vụ. Tăng gần 36,6% so với 10 năm áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993.
Số vụ phá sản ít không chứng minh được hầu hết các doanh nghiệp ở Hà Nội đều làm ăn hiệu quả mà con số này cho thấy Luật phá sản 2004 còn chưa đi vào thực tế cuộc sống của doanh nghiệp. Nhiều trường hợp làm ăn thua lỗ đã lâu nhưng không chịu làm đơn mở thủ tục phá sản chỉ đến khi bị “ép” phá sản thì mới gửi đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Người viết sẽ phân tích hai trường hợp phá sản: một là của công ty nhà nước và một là của công ty tư nhân để minh chứng cho điều kết luận trên.
Vụ phá sản của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc Sơn:
Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn là một công ty nhà nước nhưng làm ăn không hiệu quả. Tháng 11/2001 Công ty bị khởi tố về vụ chiếm đoạt 7 tỷ đồng cùng với Công ty Trách nhiệm hữu hạn chế biến tinh dầu (Hà Tĩnh) tiền hoàn thuế. Giám đốc và kế toán của hai công ty này đã kí khống các giấy tờ nhằm chiếm đoạt hàng tỷ đồng của Nhà nước. Khi vụ việc bị vỡ lở, Giám đốc Nguyễn Văn Phương, Trưởng phòng Kế hoạch Nguyễn Thái Hoà, kế toán trưởng Đàm Quang Khánh đã ra tự thú, khai nhận toàn bộ sự việc và nộp lại toàn bộ số tiền đã nhận của Nguyễn Viết Thìn (Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn chế biến tinh dầu).
Đây là một vụ chiếm đoạt hoàn thuế VAT đầu tiên với số tiền lớn. Và sau vụ việc này việc làm ăn của Công ty Phát triển nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Sóc Sơn càng đi vào bế tắc. Đến tháng 8/2003 TP. Hà Nội đã đưa Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn ra Hội đồng giải thể nhưng không rõ vì lý do gì Công ty vẫn chưa được giải thể. Và mãi đến 25/4/2007 Uỷ ban Nhân dân TP. Hà Nội đã mở thủ tục phá sản đối với công ty này do chính sách cơ cấu lại một số công ty Nhà nước của Uỷ ban Nhân dân TP. Hà Nội. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Như vậy việc làm ăn thua lỗ ở Công ty Phát triển nông lâm ngư và dịch vụ Sóc Sơn đã kéo dài tới 5 năm mới được tuyên bố phá sản. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự chậm trễ và thiếu thống nhất của các cơ quan chức năng có liên quan đến việc làm thủ tục xin phá sản. Vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để xoá bỏ sự chậm trễ này?
Vụ phá sản của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đèn hình Orion-Hanel:
Tháng 2/2003 Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đèn hình Orion-Hanel được Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp giấy đăng kí kinh doanh. Công ty Orion-Hanel là công ty liên doanh giữa Công ty điện tử Hanel và Công ty Orion của Hàn Quốc với số vốn đầu tư lên đến trên 178 triệu USD chuyên sản xuất đèn hình và phụ kiện cho tivi và máy tính.
Sau 11 năm hoạt động và dẫn đầu trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Hà Nội, ngày 16/10/2004, Công ty Orion Hanel đã khánh thành nhà máy sản xuất đèn hình màu thứ hai tại Khu công nghiệp Sài Đồng B (Hà Nội). Nhưng hoạt động của cơ sở hai này không đem lại hiệu quả. Cùng thời điểm đó, thị trường ti vi đã xuất hiện sự thoái trào của công nghệ sản xuất đèn hình màu, với sự thay thế của dòng LCD và Plasma, khiến khó khăn của Orion Hanel tăng thêm bội phần. Tiêu cực khách quan cùng với những khó khăn nội tại đã buộc Công ty phải ngừng sản xuất từ tháng 9/2007.
Đến tháng 1/2008, Công ty đã hoạt động trở lại một dây chuyền. Nhưng hoạt động nhỏ lẻ này chỉ cầm cự được tiếp 3 tháng và đến tháng 4/2008, toàn bộ hoạt động sản xuất bị dừng lại, công nhân tại nhà máy đều được nghỉ vô thời hạn. Điều này có nghĩa là gần 2500 nhân công bị thất nghiệp, trong đó còn có nhiều lao động chưa được nhận lương.
Đến tháng 12/2008, Công ty còn 822 hợp đồng lao động dài hạn, nhưng trong đó chỉ có hơn 30 người ở vị trí chủ chốt tiếp tục làm việc và được nhận lương. Và cuối tháng 12 Công ty Điện tử Hanel đã đệ đơn xin phá sản tới Toà án Nhân dân TP. Hà Nội.
Thực tế, tình trạng sa sút của Công ty đã rõ nét từ năm 2006 khi doanh thu của Công ty giảm sút mạnh nhiều lao động trình độ cao đã bỏ về nước. Tình trạng này kéo dài và trở nên nghiêm trọng khi tháng 9/2007 Công ty phải đóng cửa sản xuất nhưng mãi đến tháng 12/2008 Công ty mới đệ đơn xin phá sản.
Từ vụ việc của Công ty Orion Hanel ta thấy nguyên nhân của sự kéo dài ngày trình đơn phá sản là do các thành viên trong công ty đã cố gắng khắc phục sai lầm và duy trì sản xuất nhưng không thành công bởi lý do đơn giản là công nghệ sản xuất bong đèn đã trở nên lỗi thời. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để duy trì sản xuất đi đôi với đổi mới công nghệ? Và vấn đề giải quyết hậu quả về tình trạng lao động thất nghiệp khi doanh nghiệp đó phá sản?
Nhìn tổng thể, tính đến hết tháng 12 năm 2008, Hà Nội có 74.029 doanh nghiệp đang hoạt động, trong đó có 95% doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tỷ lệ các doanh nghiệp trong tình trạng phá sản còn có thể cao hơn nữa trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay. Vậy vấn đề đặt ra là tại sao nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ lại không yêu cầu mở thủ tục phá sản mà lại chọn con đường khác như giải thể hoặc bỏ không. Đó là do những quy định của Luật phá sản 2004 vẫn còn tỏ ra bất cập, khó thực thi. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp không chọn con đường phá sản khi doanh nghiệp đang rơi vào tình trạng vỡ nợ.
2.2.2 Thực tiễn thực hiện quy trình và thủ tục phá sản và những vấn đề đặt ra Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
- Vướng mắc trong trường hợp không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và của chủ doanh nghiệp (con nợ) khi nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập tại TP. Hà Nội nhưng hoạt động được một thời gian thì “mất tích”, nghĩa là theo địa chỉ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp thì doanh nghiệp không còn hoạt động vì đã chuyển trụ sở đi nơi khác mà không để lại địa chỉ mới. Đây là một hiện tượng thường thấy ở các doanh nghiệp đi thuê trụ sở trên địa bàn TP. Hà Nội. Do vậy, khi có chủ nợ làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó thì Toà án không xác định được trụ sở doanh nghiệp. Mặt khác, việc xác minh nơi cư trú hoặc nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của các thành viên công ty đều không thực hiện được. Trong những trường hợp như vậy, vừa rất khó xác định thẩm quyền giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản của Toà án nhân dân và vừa không đủ điều kiện để Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Khi giải quyết các vụ phá sản, sự vắng mặt của chủ doanh nghiệp đã gây cho các cấp Tòa án không ít khó khăn đó là trường hợp người lao động hoặc chủ nợ đưa đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo các Điều 13 và Điều 14 Luật phá sản 2004 nhưng không xác định được địa chỉ của chủ doanh nghiệp, không biết chủ doanh nghiệp ở đâu dù đã xác minh tại trụ sở của doanh nghiệp, tại địa bàn nơi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, hoặc tại nơi đăng ký hộ khẩu trường trú. Có trường hợp chủ doanh nghiệp là người nước ngoài sau khi kinh doanh thua lỗ bỏ về nước, khi nhận được giấy của Tòa án nhưng cũng không đến Việt Nam để giải quyết hoặc đặt điều kiện chỉ đến Việt Nam khi phía Việt Nam bảo đảm cho họ được rời Việt Nam bất cứ lúc nào họ muốn. Không ai giám bảo đảm và Tòa án thường rất lúng túng khi gặp tình huống này với sức ép của người lao động và của các chủ nợ đòi hỏi Tòa án mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bảo đảm quyền lợi của họ nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể.
- Chưa có tiêu chí cụ thể về điều kiện thụ lý đơn và ra quyết định mở hay không mở thủ tục phá sản
Quy định tại Điều 3 của Luật phá sản 2004: doanh nghiệp, hợp tác xã không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi có chủ nợ yêu cầu thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Nhưng trên thực tế chưa có một tiêu chí hướng dẫn cụ thể nào điều khoản này nên dẫn đến việc số doanh nghiệp khi căn cứ vào điều luật này đã “lạm dụng” quyền nộp đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, danh dự của công ty. Bởi vì, trong hoạt động kinh doanh các công ty thường xuyên có những khoản nợ đến hạn, nhưng do nhiều lý do khác nhau họ chưa trả nợ ngay mà bị các chủ nợ quy kết là “lâm vào tình trạng phá sản”. Trên thực tế, Toà kinh tế thành phố Hà Nội đã nhận được một số đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ở dạng tương tự như trên. Có chủ nợ nộp đơn yêu cầu phá sản đối với doanh nghiệp khi số nợ chỉ là vài chục triệu đồng (rất nhỏ so với tổng số vốn của doanh nghiệp đó). Nhưng theo quy định, Toà án Hà Nội vẫn phải thụ lý đơn yêu cầu này.
Những quy định về Thẩm phán phụ trách việc giải quyết phá sản còn tỏ ra không sát với thực tế.
- Tổ Thẩm phán làm việc quá tải Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có hướng dẫn các trường hợp cần phải do Tổ Thẩm phán gồm 3 người tiến hành thủ tục phá sản, trong đó có các trường hợp sau: Cần giải quyết tranh chấp về khoản nợ; Tuyên bố giao dịch là vô hiệu; Giải quyết tiếp vụ án mà doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản là đương sự trong vụ án đó; Doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản có bất động sản, có nhiều chủ nợ hoặc người mắc nợ tại nhiều tỉnh khác nhau hoặc ở nước ngoài.
Thông thường vụ phá sản nào cũng có tranh chấp về khoản nợ có thể là nợ phải trả cho chủ nợ có thể là nợ phải thu từ người mắc nợ. Mỗi vụ phá sản đều có nhiều người tham gia và vì vậy, chắc chắn sẽ có những chủ nợ hoặc người mắc nợ ở nhiều tỉnh khác. Nếu áp dụng đúng quy định của Nghị quyết 03 của Hội đồng Thẩm phán thì hầu như vụ phá sản nào cũng phải do Tổ Thẩm phán gồm ba người tiến hành, quy định này đòi hỏi các Toà án địa phương, nhất là nơi có những vụ phá sản phức tạp như trên phải có nhiều Thẩm phán.
Ở Toà kinh tế TP. Hà Nội chỉ có 6 thẩm phán và nếu thành lập thì được 02 Tổ, trong khi số vụ phá sản mà Toà kinh tế TP Hà Nội thụ lý từ ngày Luật phá sản 2004 có hiệu lực đến cho đến hết năm 2006 là 11 vụ. Thực hiện quy định này thì mỗi Thẩm phán phải tham gia giải quyết hơn 6 vụ, nhưng thực tiễn các vụ giải quyết phá sản tại TP. Hà Nội cho đến nay chỉ có 01 Thẩm phán tiến hành, kể cả những vụ phá sản có những dấu hiệu như quy định tại Nghị quyết 03.
- Luật quy định chưa rõ về thẩm quyền của Thẩm phán trong việc ra quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý
Điều 8 Luật phá sản 2004 khi xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản không quy định thẩm phán có quyền ra quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý, nhưng theo điểm h khoản 1 điều 10 Luật phá sản 2004 thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn “thi hành quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý”. Trên thực tế, ở Hà Nội đã có những vụ phá sản không thực hiện được vấn đề này do cơ quan bán đấu giá không thực hiện việc bán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản với lý do chưa có quyết định của thẩm phán về bán đấu giá tài sản nhưng khi đề cập đến vấn đề này, thẩm phán cũng cho rằng không có đủ căn cứ pháp lý để ra quyết định bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý vì tại Điều 8 Luật Phá sản không quy định trực tiếp cho thẩm phán, mặt khác Quyết định số 01 ngày 27/4/2005 của Toà án nhân dân tối cao về Quy chế làm việc của Tổ thẩm phán cũng không đề cập đến vấn đề này.
- Những vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
LPS 2004 đã quy định một số nghĩa vụ, quyền hạn cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản, song thực tế cho thấy Tổ quản lý, thanh lý tài sản gần như chỉ có chức năng giúp việc cho Thẩm phán (hầu hết các hành vi định đoạt tài sản phá sản đều do Thẩm phán quyết định). Tổ quản lý, thanh lý tài sản không có quyền điều hành, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có quyền trực tiếp quản lý các tài sản của doanh nghiệp. Mặt khác, do một số quy định của pháp luật chưa đầy đủ và cụ thể, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ đều là nguyên nhân dẫn đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trên thực tế còn kém hiệu quả. Cụ thể là:
- Chậm trễ trong việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định của Luật phá sản 2004, đồng thời với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản thì Toà án ra ngay quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tại khoản 1 Điều 16 Nghị 67 quy định cụ thể hơn việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản: “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản của Thẩm phán, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản”. Nhưng thực tế, việc phối hợp giữa Toà án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thường bị chậm trễ do không cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Tình trạng này đã dẫn đến việc không kịp thời thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên đã tạo “kẽ hở” cho doanh nghiệp tẩu tán tài sản. Việc chậm thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản còn dẫn đến tình trạng sau khi các chủ nợ biết được thông tin doanh nghiệp đã bị Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản nên đã đến doanh nghiệp thực hiện việc siết nợ, thu tài sản của doanh nghiệp trái pháp luật mà chủ doanh nghiệp bị phá sản không thể ngăn chặn được. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
- Chất lượng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa đáp ứng yêu cầu
Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập với thành phần bao gồm: 01 Chấp hành viên làm tổ trưởng, 01 cán bộ Tòa án, 01 đại diện chủ nợ, 01 đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, trường hợp cần thiết phải có 01 đại diện của công đoàn, người lao động và các cơ quan chuyên môn. Cơ cấu thành phần là vậy, nhưng trong thực tế thực hiện thì hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản phụ thuộc chủ yếu vào Chấp hành viên.
Thực tế cũng cho thấy hoạt động của các thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản chưa thật đều tay. Trước đây, theo Luật phá sản doanh nghiệp 1993, Tổ trưởng Tổ quản lý tài sản là cán bộ Toà án, là thư ký giúp việc cho Thẩm phán phụ trách việc thực hiện phá sản thì toàn bộ công việc như mời con nợ, chủ nợ lên đối chiếu công nợ, lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ do Thẩm phán thực hiện. Thư ký Toà án được chỉ định làm Tổ trưởng Tổ quản lý tài sản được Thẩm phán hướng dẫn trực tiếp, đôn đốc nhắc nhở nên công việc thực hiện nhanh và khá hiệu qủa. Nay Luật phá sản 2004 quy định những nhiệm vụ này do Chấp hành viên là Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản thực hiện. Việc chọn Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm Tổ trưởng được thực hiện bằng quy định phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Tòa án với các cơ quan liên quan. Do đó, việc giao cho Chấp hành viên của cơ quan Thi hành án làm Tổ trưởng là phù hợp, bảo đảm tính chuyên nghiệp trong hoạt động này và không làm tăng biên chế trong tổ chức, bộ máy của các cơ quan Nhà nước”.
Tuy nhiên, trên thực tế sự điều chỉnh này phát sinh nhiều bất cập dẫn đến việc thực hiện các nhiệm vụ này không dễ dàng vì Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án dân sự chỉ với kiến thức chuyên sâu về pháp luật nhưng lại phải đảm nhiệm cả những công việc nằm ngoài khả năng chuyên môn của mình. Mặt khác, do Chấp hành viên không có điều kiện, cơ sở để xác định hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định những khoản thu chi nào của doanh nghiệp là hợp pháp, hợp lệ và chuẩn mực để xác định việc “có lợi hơn cho doanh nghiệp, hợp tác xã ” cũng thật sự khó thực hiện. Chẳng hạn, trong thực tế những tình trạng sau đây thường xảy ra:
Về nguyên tắc Chấp hành viên phải chủ động lên kế hoạch thực hiện nhưng Chấp hành viên chưa thực hiện được điều này dẫn đến hậu qủa là công việc thực hiện thụ động, chậm trễ và không thống nhất cách làm.
Có trường hợp Chấp hành viên trực tiếp gửi giấy mời các chủ nợ có đơn yêu cầu đòi nợ đến trụ sở cơ quan thi hành án để đối chiếu công nợ, nhưng có trường hợp do Chấp hành viên chưa quen với công việc nên ký giấy triệu tập và cán bộ Toà án gửi giấy triệu tập các chủ nợ và người mắc nợ đến cơ quan thi hành án đối chiếu công nợ và như vậy biên bản đối chiếu công nợ do Toà án lập. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Chấp hành viên không tích cực, chủ động thực hiện các nhiệm vụ: lập danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ, lập bảng kê tài sản, kiểm tra và giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản cũng như thi hành các quyết định khác của Thẩm phán, dẫn đến việc giải quyết phá sản không đạt hiệu qủa, kéo dài.
Việc thực hiện giám sát, kiểm tra việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 30, Luật Phá sản 2004); việc thực hiện quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa thực hiện sẽ có lợi hơn cho doanh nghiệp (Điều 45, Luật Phá sản 2004)… của Chấp hành viên đều có sự lúng túng và chưa chuẩn xác.
Thiếu sự ràng buộc trách nhiệm của Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình hoạt động
Điều 32 Nghị định 67 quy định Tổ quản lý, thanh lý tài sản chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các trường hợp “lập bảng kê tài sản không đúng tình hình thực tế; lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ sai sự thật; không phát hiện và không đề nghị thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp quy định tại khoản 1 điều 43 của Luật Phá sản”. Thiết nghĩ, việc ràng buộc trách nhiệm là cần thiết nhưng những quy định như trên hoàn toàn không khả thi khi không có một cơ chế đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản đều không có đủ cơ sở, điều kiện để xác định những thông tin nêu trên. Tất cả đều phụ thuộc vào tài liệu, thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Nếu không có một tổ chức trung gian chuyên ngành như cơ quan kiểm toán hoặc cơ quan có thẩm định giá thì hoạt động của Tổ sẽ không đáp ứng được yêu cầu tại Luật Phá sản và các văn bản liên quan.
Các quy định về sự phối hợp giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản với Thẩm phán, Chấp hành viên chưa rõ
Khi tiến hành thủ tục phá sản, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ quản lý, thanh lý tài sản rất quan trọng, công việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trôi chảy thì Thẩm phán mới tiến hành tổ chức Hội nghị chủ nợ để xem xét ra quyết định phục hồi hoạt động kinh doanh hoặc quyết định thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã một cách kịp thời, chính xác, đúng qui định pháp luật. Thực tiễn tại các địa phương, do chưa có sự phối hợp giữa Thẩm phán và Chấp hành viên nên việc thực hiện chưa thật tốt, chưa thống nhất, còn nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, theo quy định của Luật Phá sản thì Tổ quản lý thanh lý tài sản gồm: một chấp hành viên; một cán bộ Tòa án; một đại diện chủ nợ; đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản. Trường hợp cần thiết có đại diện của công đoàn, đại diện người lao động. Tổ quản lý, thanh lý tài sản làm việc dưới sự điều hành của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản và chịu sự giám sát của Thẩm phán. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Nhìn vào quy định này đã thấy tính thực tế bị hạn chế rất nhiều. Thẩm phán, cán bộ Tòa án, chấp hành viên đã rất nhiều việc phải làm; kinh nghiệm cho thấy ở địa phương nào có nhiều vụ phá sản đưa đến Tòa án giải quyết thì ở địa phương đó cũng rất nhiều các vụ việc tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, và hình sự. Các cán bộ nói trên đâu chỉ theo đuổi một vụ giải quyết phá sản kéo dài hàng năm trời khi mà áp lực công việc khác rất nhiều đang đè nặng lên họ, nên việc giải quyết phá sản dù không thể xem nhẹ nhưng cũng không được coi là cấp bách. Những thành viên khác như đại diện chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản, đại diện công đoàn, công nhân càng hạn chế nhiều bởi họ còn phải lo cho cuộc sống thiết thực hàng ngày. Chung cuộc tiến độ việc phá sản phụ thuộc chủ yếu vào hoạt động của tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản là chấp hành viên.
Theo quy định tại điều 10 và Điều 11 Luật Phá sản, thì tổ quản lý thanh lý tài sản và tổ trưởng chịu trách nhiệm thi hành các quyết định của Thẩm phán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Điều 21 Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ quy định: “Tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản vẫn sinh hoạt chuyên môn tại cơ quan Thi hành án và chịu trách nhiệm chuyên môn trước thủ trưởng cơ quan thi hành án, chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của tổ quản lý thanh lý tài sản trước thẩm phán”. Giữa Thẩm phán và Tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không có sự ràng buộc nào về mặt quản lý, nên việc chỉ đạo của thẩm phán rất khó khăn nghĩa là sẽ có tình trạng anh nói thì anh cứ nói, tôi làm hay không là quyền của tôi. Tóm lại, quy định như Luật phá sản hiện nay những người chịu trách nhiệm giải quyết công việc phá sản, kể cả Thẩm phán và Tổ quản lý thanh lý tài sản khó mà toàn tâm, toàn ý cho công việc phá sản được. Điều đáng quan tâm là có trường hợp thẩm phán yêu cầu tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản thực hiện một công việc cụ thể nào đó, nhưng tổ trưởng tổ quản lý thanh lý tài sản không thực hiện được vì trưởng phòng thi hành án là thủ trưởng trực tiếp không đồng ý cho đi làm. Vì lý do: còn quá nhiều công việc khác cần thiết và cấp bách hơn. Việc đã ít nhưng việc giải quyết lại kéo dài có vụ kéo dài đã hơn 2 năm hiện nay vẫn chưa kết thúc được việc thanh lý tài sản.
Thứ hai, theo quy định tại khoản 6, Điều 20 Nghị định 67/2006/NĐ-CP thì Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền sử dụng con dấu của Tòa án trong quá trình quản lý, điều hành hoạt động của Tổ. Trên thực tế, quy định này không khả thi. Trong hoạt động của mình, Chấp hành viên chỉ có thể sử dụng con dấu của Cơ quan Thi hành án vì trong các thành viên của Tổ, Chấp hành viên là người của cơ quan thi hành án được bổ nhiệm theo quy định pháp luật và chữ ký của Chấp hành viên chỉ được bảo chứng tại Cơ quan Thi hành án. Mặt khác, Điều 20 cũng quy định Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản được đóng dấu Toà án và dấu cơ quan thi hành án nhưng lại không nêu rõ loại văn bản nào sẽ đóng dấu Toà án và văn bản nào được đóng dấu của cơ quan thi hành án? Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Bên cạnh các vướng mắc về việc vận dụng quy định pháp luật vào hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thì mối quan hệ giữa Tổ quản lý, thanh lý tài sản và Chấp hành viên – với vai trò Tổ trưởng – còn gặp nhiều vướng mắc cần phải giải quyết. Thực tế cho thấy kết qủa hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản dùng để phục vụ hoạt động giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản tại Tòa án. Tuy nhiên, trong trường hợp có quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản thì kết quả hoạt động của Tổ lại được dùng để phục vụ cho giai đoạn thi hành án dân sự. Do đó việc phân định trách nhiệm quản lý hồ sơ trong từng giai đoạn sẽ được thực hiện như thế nào? Thực tế mối quan hệ giữa Chấp hành viên là Tổ trưởng và Thẩm phán trong giải quyết hồ sơ phá sản doanh nghiệp vẫn chưa có sự phối hợp tốt. Hồ sơ mở thủ tục, các thông tin thống kê về chủ nợ, người mắc nợ, kê khai tài sản của doanh nghiệp đều được cung cấp cho Tòa án, trong khi đó Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm về việc điều hành hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản, thực hiện lập danh sách chủ nợ, người mắc nợ, đối chiếu công nợ, kiểm tra tài sản của doanh nghiệp… nhưng nguồn thông tin, tài liệu hoàn toàn bị phụ thuộc vào Tòa án. Một số trường hợp Tổ quản lý, thanh lý tài sản thành lập đã lâu nhưng các thông tin mà doanh nghiệp bắt buộc phải cung cấp cho Tòa án theo quy định tại điều 50 của Luật Phá sản vẫn chưa được thực hiện.
Thứ ba, đại diện của Tòa án tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản thường là một thư ký. Hoạt động của nhân sự này không những phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của Chấp hành viên và còn phụ thuộc vào nhiệm vụ Thư ký tại Tòa án do vậy, không có sự độc lập. Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoạt động dưới sự phụ trách của chấp hành viên cơ quan thi hành án làm tổ trưởng suốt trong quá trình kể từ khi Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục tuyên bố phá sản doanh nghiệp đến khi kết thúc việc thanh lý tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Luật Phá sản còn quy định Chấp hành viên có trách nhiệm báo cáo và phải chịu trách nhiệm trước Thẩm phán về hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Nhưng theo các quy định hiện hành thì Chấp hành viên là người được giao tổ chức thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án, hoạt động thi hành án độc lập hoàn toàn với hoạt động xét xử. Vì vậy, việc không kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn quy chế phối hợp hoạt động giữa Cơ quan thi hành án dân sự và Tòa án, quy chế hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản sẽ kéo dài tình trạng phối hợp chưa tốt như hiện nay.
Về chế độ làm việc, tài liệu hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Do pháp luật chưa có quy định rõ ràng về chế độ làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản nên trong thực tiễn hoạt động, mỗi Tổ trưởng làm việc theo chế độ khác nhau. Có tổ tự mình làm, có kết qủa sơ bộ rồi mới họp thông báo cho các thành viên khác trong tổ. Có Chấp hành viên gọi thư ký Toà án sang làm việc bên trụ sở của cơ quan thi hành án để cùng lập biên bản. Hình thức và nội dung các đối chiếu, xác minh công nợ cũng chưa có hướng dẫn. Do vậy, đề nghị cần có mẫu hướng dẫn chung thống nhất về biên bản đối chiếu công nợ.
Theo Điều 51 Luật phá sản 2004 thì trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định của Toà án về mở thủ tục phá sản, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ cho Toà án. Vậy đặt ra câu hỏi là khi Toà án nhận giấy đòi nợ của các chủ nợ thì Toà án phải gửi giấy đòi nợ đó cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản hay là phải gửi qua cơ quan thi hành án? Và gửi bản chính hay bản sao? Những vấn đề này chưa được quy định rõ nên thực tế có trường hợp khi đối chiếu công nợ thì Tổ quản lý, thanh lý tài sản lại yêu cầu các chủ nợ nộp lại giấy đòi nợ kèm theo chứng từ chứng minh việc đòi nợ. Theo tôi, cần quy định rõ khi làm việc Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu các chủ nợ nộp giấy đòi nợ kèm theo các chứng từ chứng minh việc đòi nợ.
Ngoài ra, việc lưu giữ các tài liệu, sổ sách liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định 67, theo đó, sổ sách liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại cơ quan thi hành án và Toà án do Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản quản lý. Trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản giải thể thì hồ sơ liên quan đến hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lưu giữ tại Toà án nhân dân thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định như vậy là không rõ ràng, dẫn đến việc khó xác định loại nào do Toà án quản lý, loại nào do cơ quan thi hành án quản lý? Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
Về chi phí, thù lao cho thành viên Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Theo quy định của pháp luật thì Tổ trưởng và các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản được hưởng thù lao theo quy định của Bộ Tài chính, nhưng đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể do vậy, thực tiễn tại các địa phương thực hiện việc trả thù lao cho thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản cũng không thống nhất. Một số doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản còn quỹ tiền mặt thì Thẩm phán tính thù lao là 10.000 đồng/ngày/một người hoặc tính trung bình thời gian làm việc khoảng 15 ngày/tháng (300.000 đồng/tháng/người). Trường hợp không còn tiền thì không chi thù lao cho các thành viên của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Theo người viết, để thống nhất thực hiện cần có hướng dẫn cụ thể.
Về vấn đề thu hồi tài sản phá sản
Về vấn đề này Luật phá sản 2004 vẫn chưa quy định ai sẽ có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quyết định thu hồi tài sản hoặc giải quyết các tranh chấp có liên quan đến tài sản bị thu hồi. Thủ tục giải quyết khiếu nại và tranh chấp này cũng là vấn đề còn bỏ ngỏ trong Luật phá sản 2004. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng còn thiếu vắng các quy định về những biện pháp bảo đảm thi hành quyết định thu hồi tài sản của Thẩm phán, cũng như những quy định cho phép Tổ quản lý, thanh lý tài sản được quyền áp dụng những biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp không chấp hành quyết định của Toà án. Do đó, việc thi hành quyết định thu hồi tài sản gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả kém. Việc thu hồi tài sản của các doanh nghiệp tại TP. Hà Nội còn gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau :
Thứ nhất, các tài sản thường nằm rải rác ở nhiều địa phương khác nhau, trong khi, công tác quản lý còn yếu kém, khiến việc xác minh còn gặp rất nhiều khó khăn, chi phí đi lại, giao dịch lớn, trong khi đó tài sản xuống cấp, giảm giá trị (Nhiều trường hợp, các tài liệu, giấy tờ chứng minh còn bị tẩu tán, cất giấu trái phép). Hiện nay Luật Phá sản lại chưa quy định về việc uỷ thác thu hồi tài sản trong trường hợp tài sản của doanh nghiệp bị phân tán nhiều nơi nằm ngoài địa phương đang giải quyết phá sản. Do vậy, khi tài sản của doanh nghiệp phá sản phân tán ở nhiều nơi thì không ai khác ngoài chính Tổ quản lý, thanh lý tài sản hoặc Thẩm phán phải trực tiếp đi thu hồi, điều này dẫn đến một thực trạng là các chủ thể đó phải đi lại như “con thoi” nhiều nơi để thi hành vừa mất thời gian, kéo dài vụ việc vừa làm tăng những khoản chi phí không đáng có cho việc giải quyết phá sản.
Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đang thụ lý, giải quyết phá sản đối với công ty may xuất khẩu Thành Công có trụ sở tại quận Đống Đa Hà Nội nhưng ngoài tài sản tại trụ sở chính thì công ty còn có tài sản tại Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh. Khi tiến hành giải quyết, Tổ quản lý, thanh lý tài sản đã trực tiếp đến các địa phương đó để kiểm kê tài sản nhưng sau khi kiểm kê xong thì không biết giao tài sản đó cho ai quản lý.
Thứ hai, một số trường hợp doanh nghiệp khi ký hợp đồng làm dịch vụ cho chính quyền thành phố đã được yêu cầu ứng trước nguồn vật tư, lao động, sau một thời gian sẽ được hoàn trả, song đến hạn thì phía chính quyền không trả mà doanh nghiệp cũng không thể “bán” được “dịch vụ” đã làm để đền bù cho khoản chi cho mình. Đây là một loại quyền về tài sản khó có thể thu hồi trong qúa trình giải quyết phá sản. Khóa luận: Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội.
CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:
===>>> Khóa luận: Giải pháp áp dụng Luật phá sản năm 2004 tại Hà Nội