Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán hay nhất năm 2022 cho các bạn học viên ngành đang làm Luận văn tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Luận văn thì với đề tài Luận văn: Nghiên cứu tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này.

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã và đang có những bước tiến đáng kể cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Tất cả những biến động của thị trường chứng khoán nhìn chung sẽ được thể hiện thông qua biến động giá chứng khoán, mà đặc biệt rõ rệt nhất thông qua giá cổ phiếu trên thị trường. Một vấn đề được đặt ra là giá cổ phiếu được hình thành và chịu tác động của những nhân tố nào? Trên thực tế, giá cổ phiếu chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố. Tuy nhiên, các vấn đề về thông tin là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho các tài sản tài chính bị định giá sai, ảnh hưởng đến quá trình phân bổ nguồn lực của thị trường với vai trò là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế (Nguyễn Việt Dũng, 2009). Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Nghiên cứu kế toán về tác động của thông tin kế toán trên báo cáo tài chính (BCTC) đến giá cổ phiếu là một vấn đề rất được quan tâm trong thời gian qua bởi lý do thông tin kế toán trên BCTC là một trong những kênh thông tin được các nhà đầu tư tìm đến khi thực hiện các quyết định kinh tế. Câu hỏi đặt ra là thông tin kế toán trên BCTC có thực sự ảnh hưởng đối với giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán và nếu có thì đó là những thông tin kế toán gì? Để giải quyết câu hỏi này, nhiều công trình nghiên cứu được thực hiện với mong muốn có thể tìm ra câu trả lời hợp lý, từ đó sẽ có thể khái quát hóa được vấn đề và mang lại những giải pháp hữu hiệu cho nhà đầu tư.

Trên thế giới, có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học xoay quanh về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu. Đặc điểm chung của các công trình này là đều sử dụng nghiên cứu của Ohlson (1995) trong việc xây dựng mô hình kinh tế lượng. Để kiểm chứng tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu, các mô hình tuyến tính với biến phụ thuộc là giá cổ phiếu và các biến độc lập là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu…được các nhà nghiên cứu sử dụng. Do tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu được kỳ vọng là tuyến tính, đa số các bài nghiên cứu này đều chạy mô hình theo phương pháp bình phương tối thiểu thông thường (Ordinay Least Square-OLS). Hệ số xác định (R2) càng lớn nghĩa là thông tin kế toán giải thích được sự biến động của giá cổ phiếu tốt hơn hay nói cách khác là thông tin kế toán có giá trị thích hợp hơn.

Nghiên cứu của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) cũng nằm trong mảng đề tài kế toán nghiên cứu về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Đài Loan. Công trình này cũng xuất phát từ việc vận dụng mô hình Ohlson (1995) nhưng có điều chỉnh để nghiên cứu định lượng. Điểm khác biệt trong nghiên cứu của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) so với các nghiên cứu trước đây là có xem xét tới ảnh hưởng của nhân tố quy mô (scale factor) và chia các mẫu quan sát theo từng năm thành 2 nhóm dựa trên đặc điểm: BCTC được kiểm toán bởi các công ty thuộc nhóm Big 4 (KPMG, Deloitte, EY, PWC) hay không thuộc nhóm Big 4 với mục tiêu kiểm chứng: liệu có sự khác biệt trong sức giải thích của thông tin kế toán trên BCTC được kiểm toán bởi các công ty thuộc nhóm kiểm toán Big 4 và các công ty không thuộc nhóm kiểm toán Big 4. Đây có thể nói là một hướng tiếp cận mới của mảng đề tài này. Tuy nhiên, điểm hạn chế của công trình nghiên cứu này là chưa xem xét tới giả thiết ẩn về thị trường hiệu quả khi vận dụng mô hình Ohlson (1995). Chỉ khi giá cổ phiếu trên thị trường phản ánh giá trị nội tại của nó thì mới có thể sử dụng mô hình Ohlson (1995) làm cơ sở lý luận cho sự tác động này.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu định lượng về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu có sử dụng mô hình kinh tế lượng còn khá ít. Các nghiên cứu định lượng liên quan đến mảng đề tài này có thể kể đến như nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009), Trần Thị Thanh Vân và Đoàn Ngọc Tuân (2014) khi kết hợp mô hình Ohlson (1995) và công trình của Aboody, Hughes & Liu (2002) cho phép nới lỏng giả thiết thị trường hiệu quả để nghiên cứu, Đỗ Hạnh Nguyên (2014) với việc sử dụng mô hình Ohlson (1995) và có mở rộng thêm các biến thông tin kế toán khác…Điểm mới của công trình nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009) là xem xét sử dụng lý thuyết thị trường hiệu quả để chạy mô hình kinh tế lượng bởi mô hình Ohlson (1995) dựa trên giả thiết ẩn về thị trường hiệu quả. Thị trường hiệu quả là một giả thiết mạnh và trong thực tế, giá cổ phiếu có thể phản ứng chậm so với thông tin kế toán trên BCTC do thị trường không đạt tới trạng thái lý tưởng mong đợi (Nguyễn Việt Dũng, 2009). Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này đã không đề cập đến việc kiểm soát tác nhân quy mô, vốn có thể ảnh hưởng làm gia tăng hệ số xác định R2 khi phân tích mô hình kinh tế lượng.

Như vậy, công trình nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009) và Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) đều có những mặt tích cực và hạn chế. Việc vận dụng lý thuyết thị trường hiệu quả (như cách thực hiện của Nguyễn Việt Dũng, 2009) kết hợp với phương pháp luận của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) sẽ cho phép khắc phục được hạn chế của mỗi nghiên cứu, và rút ra mô hình kinh tế lượng phù hợp với thị trường chứng khoán Việt Nam khi giải quyết được giả thiết ẩn về thị trường hiệu quả của mô hình Ohlson (1995) đồng thời cũng kiểm soát được tác nhân quy mô. Do nhận thấy góc độ tiếp cận này vẫn còn có thể được khai thác và mở rộng thêm, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ. Để có thể so sánh, liên hệ với kết quả của các công trình sẽ được đề cập trong chương tổng quan các nghiên cứu liên quan trước đây mà luận văn sẽ trình bày như nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009), Trần Thị Thanh Vân và Đoàn Ngọc Tuân (2014),…đề tài lựa chọn các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh để tiến hành nghiên cứu định lượng.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Dịch Vụ Viết Thuê Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế

2. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu chung: nghiên cứu về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán TP.HCM. Cụ thể, đề tài được thực hiện nhằm giải quyết:

Thứ nhất, đưa ra được mô hình kinh tế lượng phù hợp với thị trường chứng khoán tại TP.HCM nhằm phân tích tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết.

Thứ hai, phân tích định lượng về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP. HCM. Cụ thể, luận văn sẽ xem xét mức độ tác động hay khả năng giải thích của chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) đến biến động giá cổ phiếu (P) của các công ty niêm yết.

Thứ ba, kiểm định liệu rằng có sự khác biệt (hay không có) trong sức giải thích của thông tin kế toán được kiểm toán bởi Kiểm toán viên (KTV) thuộc nhóm Big 4 và KTV không thuộc nhóm Big 4 đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết.

Cuối cùng, dựa vào kết quả nghiên cứu, luận văn đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao tính hữu ích của thông tin kế toán trên thị trường chứng khoán.

3. Câu hỏi nghiên cứu Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu, các câu hỏi nghiên cứu được định hướng cho đề tài như sau:

Thứ nhất, cơ sở lý thuyết và mô hình kinh tế lượng phù hợp về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại TP.HCM là gì?

Thứ hai, liệu rằng có tồn tại sự tác động của thông tin kế toán trên BCTC (cụ thể là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu) đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM hay không?

Thứ ba, có sự khác biệt hay không trong sức giải thích của thông tin kế toán trên BCTC được kiểm toán bởi công ty kiểm toán thuộc nhóm Big 4 và công ty kiểm toán không thuộc nhóm Big 4 đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán TP. HCM?

4. Đối tượng nghiên cứu, đối tượng khảo sát và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: tác động của thông tin kế toán trên BCTC, cụ thể là chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết.

Đối tượng khảo sát: các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM. Cụ thể dữ liệu cần thu thập là thông tin kế toán trên BCTC đã kiểm toán và giá cổ phiếu của các công ty niêm yết này.

Phạm vi nghiên cứu: nội dung nghiên cứu trong đề tài này được giới hạn ở sự tác động của hai chỉ tiêu trên BCTC là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết. Một số tác động của các chỉ tiêu khác trên BCTC như: cổ tức trên mỗi cổ phiếu (DPS), đòn bẩy tài chính (FL), dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (CFO)… đến giá cổ phiếu không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài này. Dữ liệu các công ty niêm yết được thu thập trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 2010 đến năm 2014.

5. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, cụ thể:

  • Hệ thống hóa, tổng hợp, phân tích các nghiên cứu liên quan trước đó về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu. Mục đích là có thể đưa ra được cơ sở lý thuyết vững chắc cho đề tài và rút ra được mô hình kinh tế lượng phù hợp với thị trường chứng khoán TP.HCM. Như vậy, phần này chủ yếu để giải quyết cho câu hỏi nghiên cứu thứ nhất.
  • Phương pháp nghiên cứu định lượng:

Phân tích hồi quy tuyến tính bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông thường OLS để ước lượng hệ số xác định R2. Hệ số xác định (R2) càng lớn nghĩa là thông tin kế toán giải thích được sự biến động của giá cổ phiếu tốt hơn hay nói cách khác là thông tin kế toán có giá trị thích hợp hơn. Phương pháp này được sử dụng để giải quyết cho câu hỏi nghiên cứu thứ hai. Lý do tác giả chọn sử dụng phương pháp OLS mà không phải là mô hình tác động cố định (FEM) hay mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) do mục đích ở phần này chỉ nhằm tìm bằng chứng chứng minh khả năng giải thích của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu thông qua hệ số xác định R2. Ngoài ra, phương pháp OLS này cũng sẽ được tiếp tục sử dụng ở kiểm định t-test được đề cập sau đó. Cách thực hiện này là giống với phương pháp luận của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013).

Sau khi đã chạy hồi quy bằng OLS để xác định khả năng giải thích của biến lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu lên giá cổ phiếu, bài nghiên cứu tiếp tục thực hiện kiểm định t-test theo từng cặp mẫu (paired-sample t-test) và xem xét liệu có sự khác biệt giữa giá trị trung bình (mean) của hệ số xác định (R2) đối với công ty niêm yết được kiểm toán bởi KTV thuộc nhóm Big 4 và không thuộc nhóm Big 4. Để thực hiện được kiểm định t-test theo từng cặp mẫu này, bài nghiên cứu sẽ chia mẫu quan sát thành hai nhóm dựa trên đặc điểm BCTC được kiểm toán bởi công ty kiểm toán thuộc nhóm Big4 hay không, sau đó chạy hồi quy bằng OLS theo từng năm cho hai nhóm mẫu quan sát để ước lượng các hệ số xác định R2. Tiếp theo, bài nghiên cứu sẽ sử dụng các R2 này để thực hiện kiểm định t-test theo từng cặp mẫu. Phương pháp này được sử dụng để giải quyết cho câu hỏi nghiên cứu thứ ba.

Sau cùng, dựa vào kết quả phân tích định lượng, bài nghiên cứu sẽ đề xuất một số kiến nghị đến các công ty niêm yết, các công ty kiểm toán, các cơ quan quản lý, tổ chức nghề nghiệp, các nhà đầu tư để nâng cao tính hữu ích của thông tin kế toán trình bày trên BCTC và sử dụng thông tin này một cách hiệu quả.

Phương pháp thu thập dữ liệu: nguồn dữ liệu được thu thập từ BCTC đã kiểm toán được công bố của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM: lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS). Riêng giá cổ phiếu (P) của công ty thì được thu thập dựa theo cơ sở dữ liệu của chuyên trang chứng khoán.

Phương pháp xử lý số liệu: dữ liệu được xử lý bằng phầm mềm Eview 7.0.

6. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Về mặt khoa học: góp phần hệ thống hóa và hoàn thiện cơ sở lý luận cho mảng đề tài nghiên cứu tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết. Qua đó, đề tài cho thấy được giá trị của thông tin kế toán đối với giá cổ phiếu là rất quan trọng bởi lẽ: thông tin trên BCTC giúp các nhà đầu tư đánh giá tình hình tài chính, dự đoán dòng tiền, dòng lợi nhuận trong tương lai của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Theo đó, các nhà đầu tư đưa ra quyết định mua hay bán cổ phiếu đang nắm giữ, và vì thế tác động trực tiếp đến cung – cầu cổ phiếu, dẫn đến sự thay đổi giá cổ phiếu trên thị trường.

Về mặt thực tiễn: luận văn cung cấp thêm bằng chứng cho thấy sự tác động của chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) đến giá cổ phiếu (P) của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM. Như vậy, có thể rút ra một kết luận là nhà đầu tư hoàn toàn có thể dựa một phần vào thông tin kế toán trình bày trên BCTC trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Dựa vào kết quả nghiên cứu thực hiện, luận văn kiến nghị một số giải pháp góp phần nâng cao sự tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết.

7. Điểm mới của đề tài

Luận văn là sự kết hợp giữa áp dụng lý thuyết hiện đại về thị trường hiệu quả như đề xuất của Aboody, Hughes & Liu (2002), được vận dụng bởi Nguyễn Việt Dũng (2009) và phương pháp luận của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) nhằm tận dụng những ưu điểm của mỗi phương pháp và khắc phục được những hạn chế của mỗi công trình khi: nghiên cứu tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán có sự kiểm soát ảnh hưởng của tác nhân quy mô và thay vì chỉ đơn thuần sử dụng giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên độ kế toán, nghiên cứu còn lấy giá trị hiện tại của giá cổ phiếu trong tương lai làm biến phụ thuộc. Kế thừa kết quả của các nghiên cứu trước đó, luận văn góp phần hoàn thiện mô hình kinh tế lượng phù hợp với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tại TP.HCM và cung cấp bằng chứng chứng minh về sự tác động này.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết cấu của luận văn gồm 5 chương cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu trước về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết

Chương 2: Cơ sở lý thuyết về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận

Chương 5: Kết luận và kiến nghị

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC VỀ TÁC ĐỘNG CỦA THÔNG TIN KẾ TOÁN ĐẾN GIÁ CỔ PHIẾU CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT

1.1 Các nghiên cứu công bố ở nước ngoài có liên quan Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Như đã đề cập trong mục tính cấp thiết của đề tài: những thông tin kế toán nào trên BCTC có tác động trực tiếp tới giá cổ phiếu và cơ sở lý thuyết cho sự tác động này? Giáo sư James Ohlson đã giải quyết được vấn đề trên trong một bài báo khoa học mang tên “Lợi nhuận, Giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu, và Cổ tức trong phương trình vốn” được công bố vào năm 1995 và kể từ đó, tác giả đã đặt ra một nền tảng vững chắc cho mảng đề tài nghiên cứu này. Kế toán đã tạo ra một phương trình quan trọng đối với báo cáo về sự thay đổi vốn chủ sở hữu. Báo cáo này bao gồm những khoản mục cuối trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu và lợi nhuận. Định dạng này yêu cầu sự thay đổi trong giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu bằng với lợi nhuận trừ đi cổ tức. Ý tưởng của Ohlson là có thể đề ra một lý thuyết gắn kết giá trị doanh nghiệp dựa vào phương trình trên để nhận dạng vai trò khác nhau của mỗi biến trong ba biến: lợi nhuận, giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu, và cổ tức. Mô hình Ohlson (1995) có thể phân tích thành hai bộ phận:

Bộ phận thứ nhất, mô hình định giá cổ phiếu được đo lường bằng lợi nhuận thặng dư (Residual Income Model – RIM). Theo mô hình RIM, giá trị nội tại của một cổ phiếu gồm hai thành phần là giá trị sổ sách của cổ phiếu đó và tổng giá trị hiện tại của dòng lợi nhuận thặng dư trong tương lai của công ty.

Bộ phận thứ hai, chuỗi thông tin mà ảnh hưởng đến dự đoán khả năng sinh lợi trong tương lai (Information Dynamics). Ohlson đã dựa trên giả thiết quan trọng liên quan đến chuỗi thời gian của dòng lợi nhuận thặng dư. Giả thiết này được đưa ra căn cứ vào tính tồn lưu của lợi nhuận đã được ghi nhận trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đó cũng như dựa trên thực tiễn thông tin BCTC chỉ là một bộ phận của tập hợp các thông tin có thể ảnh hưởng đến kỳ vọng của thị trường về lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. Giả thiết này của Ohlson có thể được diễn giải một cách khác là kỳ vọng của nhà đầu tư về khả năng sinh lời tương lai của công ty phụ thuộc một phần vào thông tin BCTC hiện tại (khả năng sinh lời hiện tại) và vào các thông tin khác chưa (hoặc không) được phản ánh trong BCTC (Nguyễn Việt Dũng, 2009).

Việc kết hợp mô hình lợi nhuận thặng dư (RIM) với chuỗi thông tin đề xuất cho phép Ohlson rút ra được mô hình thể hiện mối liên hệ giữa giá cổ phiếu và hai thông tin BCTC trực tiếp là lợi nhuận và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên một thị trường hiệu quả. Sử dụng hằng số để thay thế cho biến thông tin ngoài kế toán, mô hình Ohlson được viết lại như sau và là mô hình cổ điển được các nhà nghiên cứu khoa học đi theo và sử dụng cho đến ngày nay: Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

BV: giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu

Tuy nhiên, mô hình Ohlson (1995) lại có một hạn chế là được sử dụng dựa trên giả định thị trường hiệu quả và điều này hầu như không thể đáp ứng được trong thực tế (vấn đề này sẽ được đề cập lại khi trình bày nghiên cứu của Aboody, Hughes & Liu, 2002).

Sau khi Ohlson (1995) đề xuất ra mô hình mà được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng đến hiện tại, các nghiên cứu kế toán thường sử dụng hệ số xác định (R2) từ phương pháp bình phương tối thiểu thông thường OLS để đo lường giá trị thích hợp. Brown và các cộng sự (1999) đã nghiên cứu và nhận thấy rằng nhân tố quy mô (scale factor) có ảnh hưởng làm gia tăng R2 khi chạy mô hình hồi quy. Nghiên cứu của Brown và các cộng sự mang tên: “Sử dụng R2 trong nghiên cứu kế toán: đo lường sự thay đổi giá trị thích hợp trong bốn thập kỷ qua” được công bố trên một bài báo khoa học năm 1999. Mục đích chính của nghiên cứu này là phân tích liệu hệ số xác định (R2) có thật sự phản ánh ý niệm giá trị thích hợp của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết khi có sự ảnh hưởng của nhân tố quy mô.

Brown và các cộng sự đã đưa ra hai hướng để tính sự thay đổi trong giá trị thích hợp mà được đo lường bằng hệ số xác định R2. Mỗi mô hình kiểm soát sự thay đổi trong ảnh hưởng của quy mô. Đầu tiên, nghiên cứu ước lượng hệ số biến sai (Coefficient of Variation) của nhân tố quy mô trong mỗi khoảng thời gian chọn mẫu. Sau đó tác giả sẽ phân tích sự khác biệt trong R2 giữa các mẫu, sau khi kiểm soát hệ số biến sai của nhân tố quy mô. Tiếp theo, nghiên cứu loại bỏ ảnh hưởng của quy mô từ mỗi mẫu bằng cách làm giảm giá trị của các quan sát bằng các chỉ số đại diện cho nhân tố quy mô. Mục tiêu của mỗi phương pháp này là tách biệt sự thay đổi trong R2 mà gây ra bởi nhân tố quy mô.

Thông qua thực nghiệm, nghiên cứu cho thấy rằng tương quan biến động của nhân tố quy mô có ảnh hưởng làm gia tăng lên các R2 từ hồi quy giá cổ phiếu (P) lên EPS và BVPS, và như vậy khả năng giải thích của giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu và lợi nhuận đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp thực tế bị suy giảm. Do mối quan tâm của công trình nghiên cứu này là ở khả năng giải thích của biến cơ sở mà không phải ở khả năng giải thích của quy mô, vì vậy sẽ là không hợp lý khi phân tích R2 từ hồi quy mà cho thêm biến làm chỉ số cho quy mô. Việc làm suy giảm giá trị bằng chỉ số đại diện cho quy mô mang lại các R2 phản ánh tốt hơn khả năng giải thích của biến cơ sở. Để ước tính hồi quy đã được làm giảm giá trị, nghiên cứu cho thấy cần một chỉ số đại diện cho nhân tố quy mô, một biến mà phản ánh được quy mô của một cổ phiếu. Dưới giả định của thị trường hiệu quả, giá cổ phiếu phản ánh bản chất của những nguồn lực kinh tế này và vì vậy, làm chỉ số đại diện cho quy mô kích cỡ của cổ phiếu.

Nghiên cứu của Brown và các cộng sự sử dụng giá cổ phiếu một năm trước ngày định giá (Pt-1) như là chỉ số đại diện cho nhân tố quy mô, và tiến hành chia các biến quan sát Pt, BVPSt, và EPSt bằng Pt-1 để thu thập những mẫu quan sát với quy mô không đổi. Việc sử dụng giá cổ phiếu cũ một năm cung cấp sự giải thích của kết quả từ hồi quy bị làm suy giảm giá trị: nếu $1 được đầu tư trong mỗi cổ phiếu tại thời điểm đầu năm, R2 sẽ thể hiện mức biến động bao nhiêu trong giá trị của kết quả đầu tư tại thời điểm cuối năm có thể được giải thích bằng lợi nhuận và giá trị sổ sách được công bố trong thời gian đó.

Nghiên cứu được lập luận rằng giá cổ phiếu là chỉ số đại diện tốt hơn cho quy mô của cổ phiếu hơn các biến khác chẳng hạn EPS, BVPS, hoặc các biến kế toán khác. Nghiên cứu này dành mối quan tâm trong việc kiểm nghiệm liệu thông tin kế toán có cải thiện hay làm tệ đi khả năng của nó trong việc lý giải giá cổ phiếu. Theo đó, mô hình được làm suy giảm giá trị cho mỗi năm trong khoảng thời gian nghiên cứu như sau:

Pi, t / Pi,t-1 = α0,t + α1,t * EPSi,t / Pi,t-1 + α2,t * BVPSi,t / Pi,t-1 + εi,t

Công trình của Brown và các cộng sự (1999) chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu nên cẩn trọng khi sử dụng hệ số xác định R2. Kết quả nghiên cứu cho thấy R2 là một thống kê không đáng tin cậy khi có sự hiện diện của quy mô, và R2 thì phụ thuộc vào tương quan biến động của tác nhân quy mô. Vì vậy, sự khác biệt trong R2 từ các mẫu được rút ra từ các khoảng thời gian khác nhau, từ sự trao đổi cổ phiếu khác nhau, từ các quốc gia khác nhau có thể một phần gây ra bởi sự khác biệt trong tương quan biến động nhân tố quy mô. Do đó, Brown và các cộng sự (1999) đề xuất những nhà nghiên cứu kiểm soát sự khác biệt của ảnh hưởng quy mô giữa các mẫu bằng cách thêm chỉ số đại diện cho tương quan biến động của quy mô, hoặc bằng cách làm suy giảm giá trị của các quan sát cá thể bởi một chỉ số đại diện cho quy mô.

Như đã đề cập trước đó, nghiên cứu của Ohlson (1995) dựa trên giả thiết ẩn về thị trường hiệu quả. Nếu như thị trường không ở trạng thái lý tưởng, nghiên cứu về tác động của thông tin BCTC đến giá cổ phiếu sẽ được thực hiện như thế nào? Năm 2002, Aboody, Hughes và Liu thực hiện nghiên cứu về mảng đề tài này trong công trình mang tên “Đo lường giá trị thích hợp trong thị trường không hiệu quả” được đăng trên tạp chí nghiên cứu kế toán. Các tác giả đã nghiên cứu tác động của thông tin trên BCTC đến giá cổ phiếu của công ty niêm yết trong điều kiện thị trường không hiệu quả, tức là xem xét đến yếu tố thị trường mà trong đó giá cổ phiếu phản ánh giá trị nội tại của nó với sai số. Sự tương quan này có thể làm cho hồi quy của giá cổ phiếu theo thông tin trên BCTC có hệ số thiên lệch. Nghiên cứu cho thấy thông tin về sai số có thể rút ra từ biến động giá cổ phiếu trong tương lai nếu thị trường tự điều chỉnh về trạng thái hiệu quả theo thời gian. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ hồ sơ thường niên COMPUSTAT, thông tin giá cổ phiếu từ CRSP và thu được 105,362 quan sát công ty – năm cho khoảng thời gian từ 1962 đến 1995.

Nghiên cứu của Aboody, Hughes và Liu (2002) cho thấy có thể rút ra sai số đề cập bên trên bằng cách phân tách biến động giá cổ phiếu trong tương lai thành hai thành phần: thành phần do rủi ro có hệ thống và thành phần do sự tự điều chỉnh của thị trường về trạng thái hiệu quả. Như vậy, trong trường hợp giả thiết thị trường hiệu quả không được thỏa mãn, thay vì sử dụng giá cổ phiếu hiện tại, hàm hồi quy lấy giá trị hiện tại của giá cổ phiếu trong tương lai làm biến phụ thuộc, trong đó tỷ suất hiện tại hóa là lợi nhuận kỳ vọng có điều kiện khi biết thông tin BCTC (Nguyễn Việt Dũng, 2009).

Năm 2013, Hsien-Li Lee và Hua Lee công bố nghiên cứu áp dụng mô hình của Ohlson (1995) trong công trình mang tên “Các công ty kiểm toán Big 4 có cải thiện tính thích hợp của chỉ tiêu lợi nhuận và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu” được đăng trên tạp chí kiểm toán quản trị. Dựa theo đề xuất của Brown và các cộng sự (1999), nghiên cứu của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) đã điều chỉnh mô hình gốc Ohlson (1995) để kiểm soát ảnh hưởng của tác nhân quy mô bằng cách: các biến trong mô hình được điều chỉnh giảm bằng giá cổ phiếu tại thời điểm đầu kỳ, Pt-1. Mục tiêu chính của Hsien-Li Lee và Hua Lee là xem xét liệu có sự khác biệt về giá trị thích hợp của các chỉ tiêu kế toán, mà cụ thể là lợi nhuận và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trong việc giải thích biến động của giá cổ phiếu (hay tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu) giữa các công ty được kiểm toán bởi Kiểm toán viên (KTV) thuộc nhóm Big 4 (KPMG, Deloitte, PwC, EY) và các công ty được kiểm toán bởi KTV không thuộc nhóm Big 4.

Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu này, Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) đã chia những quan sát thành hai nhóm mẫu quan sát nhỏ hơn dựa trên đặc điểm BCTC được kiểm toán bởi KTV thuộc nhóm Big 4 hay KTV không thuộc nhóm Big 4. Nghiên cứu chạy hồi quy bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông thường OLS cho hai nhóm mẫu theo từng năm để ước lượng các hệ số xác định R2. Nghiên cứu tiếp tục thực hiện kiểm định t-test theo từng cặp mẫu (paired-sample t-test) và xem xét liệu có sự khác biệt giữa giá trị trung bình (mean) của các R2 giữa các công ty được kiểm toán bởi KTV thuộc nhóm Big 4 và các công ty được kiểm toán bởi KTV không thuộc nhóm Big 4 với cùng mô hình.

Dữ liệu nghiên cứu là các công ty đại chúng niêm yết trên thị trường chứng khoán Đài Loan từ 1996 đến 2009, với đầy đủ thông tin đối với báo cáo tài chính và giá trị cổ phiếu cho mỗi năm và không thay đổi KTV giữa doanh nghiệp thuộc nhóm Big 4 và không thuộc nhóm Big 4 trong suốt thời gian quan sát. Các mẫu quan sát được chọn có đặc điểm sau đây: cổ phiếu thường niêm yết trên thị trường Đài Loan, năm dương lịch, các ngành phi tài chính, không có giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu bị âm và không có lợi nhuận bị âm. Kết quả nghiên cứu cho thấy tại thị trường vốn ở Đài Loan, thông thường lợi nhuận và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu được kiểm toán bởi KTV thuộc nhóm Big 4 giải thích tốt hơn sự biến động trong giá cổ phiếu (hay tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu). Tuy nhiên, điểm hạn chế của nghiên cứu này là được thực hiện dựa trên giả thiết ẩn về thị trường hiệu quả khi áp dụng mô hình của Ohlson (1995).

1.2 Các nghiên cứu công bố ở trong nước có liên quan Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Trước năm 2009, các nghiên cứu về mảng đề tài này chủ yếu mới chỉ đánh giá một cách định tính tác động của thông tin nói chung chứ chưa đi sâu phân tích thông tin BCTC cũng như lượng hóa ảnh hưởng của chúng đến giá cổ phiếu. Nhận thấy điều này, Nguyễn Việt Dũng (2009) đã thực hiện phân tích định lượng về dòng nghiên cứu này dưới góc nhìn của kế toán. Tác giả đã tiến hành kết hợp mô hình của Ohlson (1995) và phương pháp luận của Aboody, Hughes và Liu (2002) cho phép nới lỏng giả thiết thị trường hiệu quả để nghiên cứu về tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 2003-2007. Công trình mang tên “Mối liên hệ giữa thông tin báo cáo tài chính và giá cổ phiếu: vận dụng linh hoạt lý thuyết hiện đại vào trường hợp Việt Nam” được đăng trên Nghiên cứu kinh tế số 375. Đối với thị trường chứng khoán, một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cho các tài sản tài chính bị định giá sai làm ảnh hưởng đến quá trình phân bổ nguồn lực của thị trường là các vấn đề về thông tin. Trong đó, thông tin BCTC đóng vai trò rất quan trọng. Mục tiêu chính của Nguyễn Việt Dũng (2009) là xem xét tác động của thông tin báo cáo tài chính (cụ thể là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu) đến giá cổ phiếu của công ty niêm yết.

Nguyễn Việt Dũng (2009) đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với việc sử dụng mô hình Ohlson (1995) kết hợp với đề xuất của Aboody, Hughes & Liu (2002) khi xét về mức độ hiệu quả của thị trường. Mô hình Ohlson (1995) cho thấy giá trị cổ phiếu được quyết định bởi hai loại thông tin BCTC (giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu và lợi nhuận thuần trên mỗi cổ phiếu) và các thông tin khác không có trong báo cáo tài chính. Để kiểm chứng tác động này, mô hình hồi quy tuyến tính với biến phụ thuộc là giá cổ phiếu và hai biến độc lập là giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu và lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu sẽ được sử dụng, được chạy hồi quy bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông thường – OLS. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009) là biến phụ thuộc giá cổ phiếu sẽ được xác định trong một số trường hợp khác nhau. Khi giả thiết thị trường hiệu quả được thỏa mãn, giá cổ phiếu được lấy vào thời điểm kết thúc niên độ kế toán. Còn khi thị trường tự điều chỉnh về trạng thái hiệu quả sau một thời gian, giá cổ phiếu sẽ được lấy theo giá trị hiện tại của giá cổ phiếu trong tương lai với các mốc thời gian là 3, 6, 9, 12 tháng sau khi kết thúc niên độ kế toán làm biến phụ thuộc. Cơ sở để lấy các mốc thời gian cách nhau 3 tháng kể từ thời điểm kết thúc niên độ là việc thông tin BCTC cũng được công bố hàng quý có thể tăng cường quá trình cập nhật, điều chỉnh kỳ vọng của nhà đầu tư dựa trên thông tin BCTC vào các thời điểm này. Trong các trường hợp này, giá cổ phiếu được điều chỉnh theo sai số được rút ra từ biến động giá cổ phiếu tương lai như sau:

Trong đó:

  • Ptµ: là giá cổ phiếu được điều chỉnh cho thời điểm t (thời điểm kết thúc niên độ kế toán) theo sai số được rút ra từ biến động giá cổ phiếu µ tháng trong tương lai.
  • Pt+µ: là giá cổ phiếu tại thời điểm t+µ
  • µ : là lợi suất thị trường, được xác định dựa trên chỉ số chứng khoán VN-Index cho khoảng thời gian từ t đến t+µ (tháng). Cụ thể, lợi suất thị trường được tính toán dựa vào chỉ số VN-Index ở phiên thứ t ( ) và chỉ số VN-Index ở phiên thứ t+µ tháng (   +µ) µ = log(   +µ)

Mẫu nghiên cứu được Nguyễn Việt Dũng (2009) lựa chọn là các công ty phi tài chính niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 2003-2007 với mẫu cuối cùng gồm 306 quan sát công ty – năm của 135 công ty. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng (2009) cho thấy: trái với một số nhận định cho rằng thông tin BCTC không hữu ích trong việc xác định giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam, việc kiểm định các mô hình cho thấy sự tác động này hoàn toàn có ý nghĩa về mặt thống kê. Ngoài ra có dấu hiệu giá cổ phiếu phản ánh thông tin BCTC với một độ trễ (thông tin BCTC giải thích tốt nhất giá cổ phiếu được điều chỉnh cho biến động giá 3 tháng trong tương lai dựa theo kết quả của bài nghiên cứu). Điều này chứng tỏ giá cổ phiếu phản ứng chậm và/hoặc dưới mức với công bố thông tin BCTC và có sự tự điều chỉnh theo thời gian. Khi các biến phụ thuộc là Pt6, Pt9, Pt12 thì sức giải thích của thông tin BCTC lại có xu hướng giảm. Tuy nhiên, trong bài nghiên cứu này tác giả chưa đề cập đến việc kiểm soát nhân tố quy mô khi chạy mô hình hồi quy. Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Bài viết của Nguyễn Việt Dũng (2009) đã đặt nền tảng cho sự ra đời hàng loạt các công trình nghiên cứu tại Việt Nam. Đỗ Hạnh Nguyên (2014) cũng tiến hành nghiên cứu lặp lại về mảng đề tài này trong luận văn thạc sĩ mang tên “Phân tích tác động của thông tin kế toán trên báo cáo tài chính đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán – trường hợp sàn HSX”. Mục tiêu chính của Đỗ Hạnh Nguyên (2014) cũng là đi tìm bằng chứng chứng minh cho tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của công ty niêm yết. Điểm khác biệt trong nghiên cứu của Đỗ Hạnh Nguyên (2014) là ngoài hai biến độc lập lợi nhuận trên mổi cổ phiếu (EPS) và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS), còn có hai biến độc lập khác được xem xét trong mô hình là lợi nhuận chưa phân phối trên mỗi cổ phiếu và tỷ lệ đòn bẩy tài chính tác động lên biến phụ thuộc giá cổ phiếu.

Tương tự như các nghiên cứu trước, Đỗ Hạnh Nguyên (2014) cũng áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với việc chạy hồi quy tuyến tính được thực hiện bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông thường – OLS. Cỡ mẫu trong bài nghiên cứu là 1078 quan sát công ty – năm của 279 doanh nghiệp niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2013. Kết quả nghiên cứu cho thấy giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) và lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) đều có tác động tích cực lên thị giá cổ phiếu. Hệ số hồi quy của tỷ lệ đòn bẩy tài chính có ảnh hưởng tiêu cực đến thị giá cổ phiếu hay nói cách khác, nếu doanh nghiệp có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao thì xuất hiện sự suy giảm của giá cổ phiếu. Hệ số hồi quy của lợi nhuận chưa phân phối có ảnh hưởng tích cực đến giá cổ phiếu hay nghĩa là, nếu doanh nghiệp tích lũy lợi nhuận chưa phân phối càng nhiều, giá cổ phiếu càng cao. Tuy nhiên, điểm hạn chế của nghiên cứu là chưa xem xét tới mức độ hiệu quả của thị trường trong việc chạy mô hình kinh tế lượng. Cụ thể, bài nghiên cứu có sử dụng giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên độ kế toán và sau khi kết thúc niên độ 3, 6, 9, 12 tháng nhưng chỉ áp dụng đơn thuần giá cổ phiếu sau thời điểm kết thúc niên độ mà không có tiến hành điều chỉnh theo sai số được rút ra từ biến động giá cổ phiếu tương lai.

Một bài viết khác cũng về mảng đề tài này mà luận văn đề cập đến là công trình nghiên cứu của Trần Thị Thanh Vân và Đoàn Ngọc Tuân (2014) với tựa đề “Vận dụng mô hình Ohlson (1995) và các lý thuyết hiện đại nghiên cứu mối liên hệ giữa một số thông tin báo cáo tài chính và giá cổ phiếu của công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh”. Mục tiêu chính của tác giả cũng là xem xét tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết.

Nhìn chung, nghiên cứu của Trần Thị Thanh Vân và Đoàn Ngọc Tuân (2014) được thực hiện dựa trên nền tảng, cơ sở lý luận của Nguyễn Việt Dũng (2009) khi mô hình nghiên cứu cũng là sự kết hợp giữa mô hình Ohlson (1995) và đề xuất của Aboody, Hughes và Liu (2002) liên quan đến thị trường hiệu quả. Mẫu nghiên cứu là 308 quan sát công ty – năm của 77 công ty niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP.HCM trong khoảng thời gian 4 năm từ 2009-2012. Hai biến độc lập được xem xét vẫn là biến lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS) và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS). Biến phụ thuộc giá cổ phiếu cũng được lấy ở các mốc thời gian là 3, 6, 9, 12 tháng sau khi kết thúc niên độ kế toán và được điều chỉnh theo sai số được rút ra từ biến động giá cổ phiếu tương lai.

Kết quả nghiên cứu của Trần Thị Thanh Vân và Đoàn Ngọc Tuân (2014) cho thấy lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu có ảnh hưởng cùng chiều đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM trong giai đoạn 2009-2012. Ngoài ra, kết quả cũng cho thấy có dấu hiệu giá cổ phiếu phản ánh thông tin BCTC với một độ trễ. Cụ thể theo kết quả của bài nghiên cứu, thông tin BCTC giải thích tốt nhất giá cổ phiếu được điều chỉnh cho biến động giá trong 3 tháng sau ngày kết thúc niên độ kế toán. Khi các biến phụ thuộc là Pt6, Pt9, Pt12 thì sức giải thích của thông tin BCTC lại có xu hướng giảm. Điều này là tương tự như kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Việt Dũng (2009). Tuy nhiên, ảnh hưởng của nhân tố quy mô cũng chưa được các tác giả đề cập tới.

Một công trình nghiên cứu khác mà luận văn muốn đề cập là luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam” của Nguyễn Thị Khánh Phương (2015). Biến phụ thuộc được nghiên cứu là giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên độ kế toán (Pt), hai biến độc lập là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) tương tự như mô hình Ohlson (1995). Ngoài ra, luận án này còn xem xét đưa vào mô hình kinh tế lượng bốn biến độc lập khác là: cổ tức trên mỗi cổ phiếu (DPS), tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE), hệ số đòn bẩy tài chính (FL), dòng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh (CFO). Do đối tượng khảo sát của công trình nghiên cứu này bao gồm các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM và sàn chứng khoán Hà Nội từ năm 2008-2014 nên kết quả nghiên cứu được tác giả trình bày riêng rẽ cho sàn chứng khoán TP.HCM, sàn chứng khoán Hà Nội và cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

Theo kết quả phân tích hồi quy đa tuyến tính bằng OLS về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội: EPS, BVPS, CFO cùng nhau giải thích được 34.5% biến động giá cổ phiếu P của các công ty niêm yết. Đối với các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán TP.HCM: EPS, BVPS, ROE cùng nhau giải thích được 38.6% biến động giá cổ phiếu P của các công ty niêm yết. Khi nghiên cứu cho cả thị trường chứng khoán Việt Nam: EPS, BVPS, ROE cùng nhau giải thích được 36.5% biến động giá cổ phiếu P của các công ty niêm yết. Như vậy, kết quả nghiên cứu một lần nữa khẳng định về tác động của chỉ tiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS), giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu (BVPS) đến giá cổ phiếu (P) các công ty niêm yết.

1.3 Nhận xét tổng quan các nghiên cứu trước và xác định hướng nghiên cứu Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

Nhìn chung các nghiên cứu trên thế giới và trong nước về tác động của thông tin kế toán đến giá cổ phiếu các công ty niêm yết đều sử dụng mô hình kinh điển của Ohlson (1995) làm cơ sở lý luận để phân tích định lượng. Các kết quả đều cung cấp bằng chứng cho thấy thông tin kế toán trình bày trên BCTC có tác động đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết, ít nhất là về mặt ý nghĩa thống kê. Có thể nói, công trình của Ohlson (1995) ra đời đã đặt một nền móng vững chắc cho dòng nghiên cứu này dưới góc nhìn của kế toán.

Do tác động này được kỳ vọng là tuyến tính, các mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là giá cổ phiếu tại thời điểm kết thúc niên độ, biến độc lập là các thông tin kế toán trình bày trong BCTC được xem xét phân tích định lượng. Trong đó, cách tiếp cận của Nguyễn Việt Dũng (2009) đối với dòng nghiên cứu này ở trong nước là nổi bật khi thay vì chỉ sử dụng giá cổ phiếu hiện tại, hàm hồi quy còn lấy giá trị hiện tại của giá cổ phiếu trong tương lai làm biến phụ thuộc (hay nói cách khác giá cổ phiếu được điều chỉnh theo sai số được rút ra từ biến động giá cổ phiếu tương lai). Điều này đã góp phần giải quyết giả thiết “ẩn” về thị trường hiệu quả trong việc áp dụng mô hình Ohlson (1995).

Tuy nhiên, các nghiên cứu định lượng tại Việt Nam còn chưa xem xét tới việc kiểm soát tác nhân quy mô. Nghiên cứu của Brown và các cộng sự (1999) cho thấy rằng tương quan biến động của nhân tố quy mô có ảnh hưởng làm gia tăng lên các hệ số xác định (R2) từ hồi quy tuyến tính bằng phương pháp OLS. Do đó, R2 sẽ không còn là một thống kê đáng tin cậy khi còn sự hiện diện của nhân tố quy mô.

Dựa vào thực tiễn kết quả các nghiên cứu có liên quan trước đây, luận văn này sẽ tiến hành nghiên cứu lặp lại về mảng đề tài tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết. Cụ thể, hai thông tin kế toán trình bày trên BCTC được đề cập trong bài viết này là lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu và giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu trên mỗi cổ phiếu. Nghiên cứu cũng sẽ xem xét đến yếu tố thị trường hiệu quả đồng thời cũng sẽ thực hiện việc kiểm soát tác nhân quy mô khi phân tích tác động của thông tin BCTC lên giá cổ phiếu của các công ty niêm yết. Ngoài ra, đề tài này cũng vận dụng phương pháp luận của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) khi chia những mẫu quan sát ban đầu thành hai nhóm mẫu quan sát nhỏ hơn dựa trên đặc điểm: BCTC được kiểm toán bởi KTV thuộc nhóm Big 4 hay KTV không thuộc nhóm Big 4. Việc phân chia thành hai nhóm mẫu nhỏ hơn theo cách làm của Hsien-Li Lee và Hua Lee (2013) thiết nghĩ chỉ mang tính tương đối nhưng người viết cho rằng điều này sẽ giúp cho chúng ta có cái nhìn sâu hơn, góp phần làm phong phú thêm về dòng nghiên cứu này.

Tóm tắt chương 1

Chương 1 đã trình bày tổng quan một số nghiên cứu được công bố trong nước và ngoài nước liên quan đến mảng đề tài tác động của thông tin kế toán trên BCTC đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Mục đích chính của chương này là đi sâu phân tích từng công trình nghiên cứu giúp cho người viết có cái nhìn chi tiết hơn, đặc biệt nhận ra được những ưu điểm cũng như những mặt hạn chế còn tồn tại. Từ đó, luận văn xác định được hướng nghiên cứu và tiếp tục phát triển đề tài. Khóa luận: Tác động thông tin kế toán đến các Cty chứng khoán

XEM THÊM NỘI DUNG TIẾP THEO TẠI ĐÂY   

===>>> Luận văn: Tổng quan về cổ phiếu tại các Cty chứng khoán

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x