Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

MỞ ĐẦU

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Đất đai là tài nguyên rất quan trọng và có ý nghĩa trong sự phát triển của đất nước. Cùng với sự phát triển kinh tế chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, đất đai ngày càng có vai trò quan trọng và là một loại hàng hóa đặc biệt bởi nhu cầu sử dụng cần thiết. Dẫn tới việc xảy ra có nhiều tranh chấp liên quan đến đất đai ngày càng phức tạp và đa dạng. Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ đất đai nhằm tạo lập một hành lang pháp lý lành mạnh cho hoạt động khai thác và sử dụng đất hợp lý và có hiệu quả. Tuy nhiên, trong việc áp dụng vào thực tế thì còn một số bất cập, thực tiễn không đi liền với lý luận. Như qua một số tài liệu sau cũng có đề cập đến:

Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Nguyễn Hoàng Vững với nghiên cứu “Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính”, Đồng Thị Tuyết Nhi với nghiên cứu “ Hòa giải tranh chấp đất đai tại ủy ban nhân dân cấp xã theo pháp luật đất đai từ thực tiễn Tp.HCM”, Th.S Phạm Thị Lan Hương với luận án tiến sĩ “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay”,

Ở cấp độ nghiên cứu trên các tạp chí chuyên môn gồm: Tác giả Văn Cương – “Tranh chấp đất 3000 mét vuông – báo pháp luật TP.HCM – tranh chấp đất khu phố 4 ( phường Thống Nhất). TP.HCM”, “Thủ tục giải quyết tranh chấp đất mua bằng giấy viết tay” tại trang luatvietnam, Luật sư Đặng Văn Cường tác giả “ Tranh chấp đất đã có nhà ở lâu năm (trên 30 năm)”,  Báo Sức Khỏe và pháp luật vói bài báo “ Nghiên cứu giải quyết triệt để thực trạng tranh chấp đất đai, bảo đảm phát triển bền vững vùng Tây Nguyên”, Báo Nhân Dân với bài viết “Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến hiện nay”

Khái quát những tài liệu trên, cho thấy vẫn còn nhiều kẽ hở, hạn chế và bất cập trong thực tiễn quá trình giải quyết tranh chấp đất đai . Chính vì lẽ đó, nhóm nghiên cứu muốn mang đến đề tài “Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp ” để làm rõ hơn về các quy định của pháp luật về xác định đất đang tranh chấp để tìm các bất cập, hạn chế đưa đến tranh chấp cũng như tìm hướng giải quyết hay hạn chế về vấn đề xác định đất đang tranh chấp đất ở Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

2. Lý do chọn đề tài

Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Có ý nghĩa trong việc xác định chính xác các yếu tố liên quan đến diện tích đất đang bị tranh chấp thông qua đó cơ quan có thẩm quyền có thể biết được tình trạng đất đai hiện tại, có cách giải quyết phù hợp với quy định của pháp luật đất đai. Từ đó, giải quyết được việc tranh chấp đất đai giữa các chủ thể. Thấy được những vướng mắc, bất cập trong chính sách đất đai hiện hành, dẫn đến tranh các tranh chấp trên thực tế. Nhà nước có chính sách điều chỉnh quy định pháp luật đất đai phù hợp với thực tế, nhằm hạn chế các tranh chấp về đất đai. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Tuy nhiên, Pháp luật đất đai lại không quy định cụ thế như thế nào là đất không có tranh chấp hay những loại tranh chấp nào diễn ra thì không được thực hiện giao dịch nên đã tạo ra các bất cập có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như: tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất; tranh chấp ranh giới, mốc giới, quyền địa dịch; tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất.

Trong đó, các tranh chấp phổ biến trong trường hợp xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai là tranh chấp về ranh giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng.

Thực tế đã cho thấy có nhiều trường hợp chỉ vì không muốn cho người sử dụng đất chuyển nhượng quyền sử dụng đất đó nên có người đã tạo ra lý do tranh chấp. Khi đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai, các tổ chức có liên quan đến việc thực hiện thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều tạm dừng việc thực hiện thủ tục chuyển nhượng đó cho đến khi tranh chấp được giải quyết. Điều này ảnh hướng trực tiếp đến quyền của người muốn thực hiện giao dịch và đối tác của họ.

Do quy định về xác định đất đang tranh chấp còn thiếu sót, dẫn đến nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng vào thực tiễn

Tranh chấp đất đai phát sinh gây ra hậu quả về nhiều mặt như gây mất ổn định về chính trị và phá vỡ mối quan hệ xã hội, trật tự quản lý đất đai, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cá nhân, tổ chức, Nhà nước. Vì vậy, pháp luật về xác định đất đang tranh chấp là vấn đề cấp thiết để hoàn thiện và giảm thiểu các tranh chấp về đất đai .

3. Mục tiêu chọn đề tài Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Trên cơ sở những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về xác định đất đang tranh chấp, nhóm sẽ tìm hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật về vấn đề trên từ đó tìm ra các điểm còn hạn chế và bất cập để đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề xác định đất đang tranh chấp đất ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu

  • Phương pháp phân tích – tổng hợp
  • Phương pháp này dùng để phân tích các tài liệu, số liệu để phân tích điểm mạnh và hạn chế để xuất ra được phương hướng xác định đất tranh chấp một cách cụ thể và hiệu quả hơn khả năng áp dụng vào thực tế cao.
  • Phương pháp mô tả, thống kê: Dùng để tổng hợp các số liệu, hồ sơ tăng tính thực tế và hiệu quả cao hơn
  • Nghiên cứu đối chiếu: Phương pháp này dùng để so sánh đối chiếu giữa các cách xác định đất tranh chấp nước ta với các nước phát triển trên thế giới, từ đó lấy ra được những dữ liệu cần thiết cho đề tài

5. Phạm vi nghiên cứu – Về nội dung:

  • Những quy định về pháp luật đất đai hiện hành.
  • Nghiên cứu và phân tích sơ lược khái quát lịch sử luật đất đai và sự tiến bộ của luật đất đai về cách xác định đất tranh chấp qua các thời kỳ.
  • Nghiên cứu các quy định hiện hành xác định đất tranh chấp trong Luật đất đai của Việt Nam. Từ đó nhận xét về hiệu quả áp dụng luật vào thực tiễn.
  • Về thời gian: nhóm khảo sát thực trạng áp dụng luật trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành.

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÁC ĐỊNH ĐẤT ĐANG TRANH CHẤP

1.1. Khái quát chung về xác định đất đang tranh chấp

1.1.1. Khái niệm về xác định đất đang tranh chấp Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Trong thời kỳ hiện nay tranh chấp đất đai là vấn đề phức tạp. Các tranh chấp đất đai diễn ra ở hầu hết các địa phương. Tính bình quân trong cả nước, tranh chấp đất đai chiếm từ 55 – 60%, thậm chí nhiều tỉnh ở Tây Nguyên và Tây Nam Bộ chiếm từ 70 – 80% các tranh chấp dân sự phát sinh. Bạn có thể tham khảo các số liệu thống kê sau:

  •  Mức độ và xu hướng của các tranh chấp đất đai ở tỉnh ĐăkLăk ( Bảng 1)
  •  Mức độ và xu hướng của các tranh chấp đất đai ở tỉnh Sóc Trăng ( Bảng 2)

Trong nhưng năm vừa qua tranh chấp đất diễn ra hầu hết ở các địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, mức độ tính chất và phạm vi khác nhau nhưng nhìn chung tranh chấp đất đai đã gây ra hiệu quả nặng nề, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy nên Nhà nước đã có các đường lối, chính sách vào luật để ngăn ngừa hạn chế những tranh chấp.

Như theo luật Đất đai “Tranh chấp đất đai là tranh chấp quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đai giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Tranh chấp đất đai được nêu trong Luật đất đai là một khái niệm bao hàm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về địa giới hành chính. Đất đang có tranh chấp được hiểu là loại đất mà giữa người sử dụng hợp pháp đất đó với cá nhân khác, với Nhà nước (về vấn đề bồi thường đất) hoặc giữa những người sử dụng chung mảnh đất đó với nhau đang có tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất, về ranh giới, về mục đích sử dụng đất hoặc về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất. Đất đang có tranh chấp cũng có thể hiểu là đất tranh chấp giữa hai cá nhân chưa xác định được ai là người sử dụng đất hợp pháp. Đã có quan niệm cho rằng,tranh chấp đất đai “là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất” hoặc “tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai”.  

Ts Lưu Quốc Thái – Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh bàn về khái niệm “Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong mọi đời sống xã hội, không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Đối với Việt Nam, trong suốt thời gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập từ năm 1980 cho đến nay, tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế – xã hội nói chung”. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

TS Tô Văn Hòa – Trưởng Khoa Pháp luật Hành chính – Nhà nước, Đại học Luật Hà Nội, cũng là chủ nhiệm đề tài cho biết: “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai là vấn đề nóng của các tỉnh Tây Nguyên trong suốt 2 thập kỷ qua. Các loại hình tranh chấp đất đai ở 5 tỉnh Tây Nguyên diễn ra phức tạp, bao gồm: Tranh chấp giữa người dân với người dân, giữa người dân với cộng đồng; Tranh chấp đất đai giữa người dân với các công ty nông nghiệp… Nguyên nhân gây ra tranh chấp, ngoài những nguyên nhân chung còn có sự đặc thù như văn hóa, phong tục tập quán, sự bất cập trong cơ chế chính sách, cơ chế quản lý pháp luật hiện hành”.

Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân để tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai.

Tranh chấp đất đai bao gồm tất cả các tranh chấp phát sinh từ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Trong đó, có cả các tranh chấp tài sản gắn liền với đất, tranh chấp hợp đồng giao dịch quyền sử dụng đất. Tranh chấp đất đai nảy sinh khi có những bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể. Tóm lại, khái niệm tranh chấp có nhiều ý nghĩa thực tiễn; về nội dung nhằm giúp xác định chính xác đối tượng tranh chấp trong tranh chấp đất đai, giúp việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất hơn. Nó sẽ giúp tránh được trường hợp quy định của luật này chồng lấn lên luật kia, giúp hoàn thiện pháp luật đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tính phức tạp, gay gắt của tranh chấp đất đai không chỉ dừng lại ở khía cạnh tranh chấp dân sự mà còn có thể dẫn đến các vụ án hình sự, thậm chí còn mang tính chính trị, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội. Vì vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là một nội dung rất quan trọng và không thể thiếu của pháp luật đất đai.

Như vậy tranh chấp đất đai hiểu theo nghĩa rộng, là biểu hiện sự mâu thuẫn, bất đồng trong việc xác định quyền quản lý, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng đối với đất đai, phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai. Theo nghĩa hẹp, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Cũng vì thế mà Nhà nước ta đã cho ra đời cũng như không ngừng hoàn thiện bộ luật đất đai để đảm bảo bảo vệ quyền lợi cũng như các trách nhiệm, nghĩa vụ mà người dân cần tuân theo. Vì nó ảnh hưởng đến quyền là lợi ích của nhân dân.

1.1.2. Đặc điểm của hoạt động giải quyết tranh chấp đất Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Để giải quyết một tranh chấp, các chủ thể có thể sử dụng nhiều biện pháp như tự thương lượng, thỏa thuận với nhau. Pháp luật đất đai không quan tâm cách thức họ thỏa thuận thế nào, thương lượng ra sao mà chỉ đưa ra các quy định điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp khi có sự tham gia của cơ quan nhà nước vào việc giải quyết đó mà thôi. Điều này nhằm thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt của các chủ thể và Nhà nước sẽ cung cấp một công cụ giải quyết tranh chấp cho họ nếu như họ không có được sự thống nhất. Một khi đã có sự tham gia của cơ quan nhà nước thì các quy phạm pháp luật về giải quyết tranh chấp là cần thiết, bởi lẽ có những quy phạm pháp luật này thì người dân cũng như chính cơ quan nhà nước mới biết chủ thể nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và giải quyết theo trình tự, thủ tục gì.

  • Đối tượng của hoạt động giải quyết tranh chấp là tranh chấp đất đai, trong đó các đương sự yêu cầu cơ quan nhà nước xác định rõ những quyền và nghĩa vụ của các bên đối với khu đất đang bị tranh chấp.
  • Hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
  • Đề cao hòa giải, huy động đoàn thể địa phương tham gia.
  • Liên quan đến nhiều lĩnh vực khác, như: nhà, xây dựng…
  • Cần phải hiểu phong tục, tập quán địa phương để có cách giải quyết thỏa đáng

Chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai là chủ thể của quá trình quản lý và sử dụng đất đai. Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai có thể là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý và người sử dụng đất. Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng đất đai. Tranh chấp đất đai không chỉ ảnh hưởng đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia tranh chấp mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước. Tranh chấp đất đai làm cho những quy định của pháp luật đất đai và chính sách của Nhà nước không được thực hiện một cách triệt để.

Theo PGS.TS Tô Văn Hòa thì nguyên nhân tranh chấp đất đai ở Tây nguyên ngoài những nguyên nhân chung còn có những nguyên nhân đặc thù, đa diện, đa chiều, từ góc độ lịch sử, tới văn hóa, phong tục, tập quán, những nguyên nhân từ sự bất cập trong cơ chế chính sách, pháp luật hiện hành về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai cho tới những nguyên nhân liên quan tới tổ chức thực hiện chính sách. “ Chính vì thế, chúng tôi nhận thấy để giải quyết được tình trạng tranh chấp đất đai, cần đề ra các biện pháp vừa bảo đảm được quyền tiếp cận đất đai của một số đối tượng chủ thể đặc thù của Tây Nguyên ví dụ đồng bào dân tộc tại chỗ, người di cư lên Tây Nguyên theo kế hoạch, những người nông dân đã sinh sống và canh tác ổn định…, kết hợp với những biện pháp quản lý rõ ràng và chặt chẽ trên cơ sở áp dụng pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng. Cần kết hợp các biện pháp mang tính chất pháp lý với các biện pháp kinh tế, xã hội, văn hóa trên cơ sở tôn trọng yếu tố lịch sử, phong tụng tập quán. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong việc chủ thể nào có quyền sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp thì theo khái niệm trên, tranh chấp đất đai có một số đặc điểm sau:

  • Đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất
  • Chủ thể tranh chấp là người sử dụng đất, chủ thể này không có quyền sử dụng đất đai
  • Mục đích của việc giải quyết tranh chấp là xác định chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với đối tượng tranh chấp.

Theo dự thảo 1.2, Thông tư liên tịch của tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tư pháp năm 2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của luật đất đai về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai: Để áp dụng đúng và thống nhất” quy định của Luật Đất đai năm 2013 “ về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai”. Chánh tóa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ tài nguyên và Môi trường cần sớm thông qua Thông tư liên tịch này để những nội dung hướng dẫn về thẩm quyền, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai được áp dụng hiệu quả trong thực tiễn”.

Quan hệ đất đai là quan hệ dân sự nhưng vì phạm vi và tính đặc thù của nó nên trở nên rất đặc biệt. Và là một giao dịch dân sự nên mang các đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự thì tranh chấp đất đai còn mang những đặc điểm đặc trưng riêng như sau:

Chủ thể của tranh chấp đất đai là chủ thể có quyền quản lý và quyền sử dụng đất bao gồm: cá nhân, hộ gia đình, tổ chức. Quyền sử dụng đất của các chủ thể nêu trên được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc sự công nhận, cho phép chuyển nhượng của Nhà nước đối với diện tích đất đang sử dụng.

Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Chủ thể tranh chấp đất đai là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất; hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức với nhà nước khi bị thu hồi đất. Nội dung của tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất (thông qua các hành vi kinh doanh quyền sử dụng đất). Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn. Tranh chấp đất đai phát sinh gây hậu quả xấu về nhiều mặt như: Có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý và quyền sử dụng đất. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý được quy định tại Điều 53 Hiến pháp 2013, Điều 4 Luật đất đai 2013. Thực tế, tranh chấp đất đai không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp.

1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Dựa vào tính chất quan hệ pháp luật:

Tranh chấp có liên quan đến tranh chấp về địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa người ở hai tỉnh, hai huyện, hai xã với nhau, tập trung ở những nơi có vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, những vị trí dọc theo triền sông lớn, những vùng có địa giới không rõ ràng, không có mốc giới nhưng là vị trí quan trọng, ở những nơi có nguồn lâm, thổ sản quý. Cùng với việc chia tách các đơn vị hành chính tỉnh, huyện, xã thì tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính tương đối nhiều.

Tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: Thực chất đây là dạng tranh chấp đòi lại đất, đòi lại tài sản gắn liền với đất có nguồn gốc trước đây thuộc quyền sở hữu của họ hoặc người thân của họ mà do nhiều nguyên nhân khác nhau họ không còn quản lý, sử dụng nữa. Bây giờ những người này đòi lại người đang quản lý, sử dụng dẫn đến tranh chấp. Trong dạng tranh chấp này có các loại sau:

Đòi lại đất, tài sản của họ, của người thân trong các giai đoạn khác nhau trước đây qua các cuộc điều chỉnh đã chia, cấp cho người khác: Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những người này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh tác. Một số hộ thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” của Nhà nước trong những năm 1981 – 1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại… ở miền Nam, Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà cửa, đất đai cho người khác sử dụng, đến nay, do có sự hiểu lầm về chính sách họ cũng đòi lại những người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi khác hoặc ra nước ngoài sinh sống, nay trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây đã được giao cho người khác quản lý, sử dụng.

Tranh chấp giữa những người làm nghề thủ công, nay thất nghiệp trở về đòi lại ruộng của những người làm nông nghiệp: Những người làm nghề thủ công trước đây đã được phân ruộng để sản xuất, để ở, sau đó họ không sản xuất nông nghiệp nữa hoặc chuyển đi nơi khác để làm nghề, đến nay họ trở về đòi lại đất để sản xuất, để ở.

Tranh chấp đòi lại đất, tài sản của nhà thờ, các dòng tu, chùa chiền, miếu mạo, nhà thờ họ. Dạng tranh chấp này thường xảy ra như sau: Trước đây do hoàn cảnh lịch sử, chính quyền địa phương đã mượn đất của các cơ sở nói trên để sử dụng hoặc tịch thu một số cơ sở để làm trụ sở cơ quan, trường học…, đến nay, các cơ sở đó đòi lại nhưng Nhà nước không trả lại được nên dẫn đến khiếu kiện của các cơ sở đó. Ngoài ra, trong những trường hợp nói trên, một số người được các nhà thờ, dòng tu, chùa chiền, nhà thờ họ cho đất để ở họ đã xây dựng nhà kiên cố hoặc lấn chiếm thêm đất của các cơ sở nói trên dẫn đến việc các cơ sở nói trên đòi lại đất, nhà. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Tranh chấp đòi lại nhà, đất cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ: Dạng tranh chấp này phát sinh do việc một bên cho bên kia mượn đất, thuê đất, cho ở nhờ. Có vụ cho mượn, thuê gần đây, có vụ cho mượn, thuê cách đây vài chục năm (nhất là ở miền Nam). Nhiều trường hợp không làm hợp đồng, chỉ giao kết bằng miệng dẫn đến khi bên cho mượn, cho thuê, cho ở nhờ hoặc là hết hạn hợp đồng hoặc đòi lại, bên mượn, thuê, ở nhờ đã xây dựng nhà kiên cố, một số có tên trong sổ địa chính hoặc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì việc tranh chấp càng trở nên phức tạp, dẫn đến việc công dân khiếu kiện các cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tranh chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn: Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia đình vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì cha mẹ đòi lại…

Tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: Đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại di chúc hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp

Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất.

Tranh chấp do người khác gây thiệt hại hoặc hạn chế quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất.

Tranh chấp về mục đích sử dụng, đặc biệt là tranh chấp về đất nông nghiệp với đất lâm nghiệp, giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm, giữa đất trồng cao su với đất trồng cà phê, giữa đất nông nghiệp với đất thổ cư trong quá trình phân bố và quy hoạch sử dụng. Trong thực tế trường hợp tranh chấp này xảy ra như sau: Do mục đích sử dụng đất nên Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng để giao cho người khác sử dụng với mục đích khác, dẫn đến người đang sử dụng đất khiếu kiện việc chuyển mục đích sử dụng đất hay khiếu kiện việc thu hồi hoặc khiếu kiện người được giao đất sử dụng với mục đích khác. Mặt khác, người được Nhà nước giao đất chuyển mục đích sử dụng khiếu kiện người đang sử dụng đất phải giao đất cho mình theo quyết định giao đất. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Tranh chấp về giải toả mặt bằng phục vụ các công trình công cộng, lợi ích quốc gia và mức đền bù khi thực hiện giải tỏa. Trong tranh chấp loại này chủ yếu là khiếu kiện về giá đất đền bù, diện tích đất được đền bù, giá cả đất tái định cư và đền bù không đúng người, giải tỏa quá mức quy định để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện nay, việc quy hoạch mở mang đường sá, đô thị quá lớn dẫn đến việc tranh chấp loại này rất gay gắt, phức tạp và có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.

  • Dựa vào chủ thể:

Trường hợp thứ nhất: Tranh chấp đất đai thuộc vào dạng tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất. Tranh chấp về quyền sử dụng đất là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai đó có quyền sử dụng đất hợp pháp với thửa đất, mảnh đất nào đó. Đây là các trường hợp liên quan đến việc công nhận người nào mới thật sự là người có quyền sử dụng đất trên một phần đất đang có tranh chấp. Ví dụ như tranh chấp diện tích đất do bị cấp trùng, lấn chiếm đất đai, tranh chấp ranh giới đất liền kề mà cơ quan nhà nước đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, lối đi, tranh chấp về một thửa đất hoặc một phần thửa đất, tài sản gắn liền với đất. Chủ yếu phân định quyền sử dụng đất thuộc về cá nhân, tổ chức nào.

Trường hợp thứ hai, là dạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất. Đây chính là các tranh chấp liên quan đến các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất. Các giao dịch dân sự liên quan quyền sử dụng đất như chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp quyền sử dụng đất, bảo lãnh quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Mặc dù đây là các tranh chấp về hợp đồng dân sự nhưng đều có liên quan đến vấn đề chủ đạo là đất đai. Tuy nhiên về bản chất đây vẫn là tranh chấp về hợp đồng dân sự.

Trường hợp thứ ba, là trường hợp tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất. Các tranh chấp về đất đai trong lĩnh vực thừa kế thường xảy ra khi có sự kiện phân chia thừa kế theo quy định của luật hoặc theo yêu cầu được phân chia di sản thừa kế của những người ở hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp thứ tư, là trường hợp tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Trường hợp này thường liên quan đến việc tranh chấp những tài sản được gắn liền với đất như: Cây cối, nhà ở, tường rào, các công trình trên đất được giao. Bản chất của trường hợp tranh chấp này là xác định ai có quyền sử dụng đất và những tài nguyên khác gắn liền với mảnh đất đó.

  • Dựa vào các giấy tờ về đất đai :

Trường hợp 1: Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Là việc phân loại đất sẽ dựa vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất đã được cấp trước ngày 10/12/2009; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi tắt là Giấy chứng nhận).

Trường hợp 2: Có các giấy tờ hợp lệ theo Điều 101 Luật Đất đai 2013

Trường hợp 3: Chưa được cấp Giấy chứng nhận. Là đối với trường hợp chưa được cấp Giấy chứng nhận, căn cứ để phân loại đất dựa vào các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại khoản 1, 2 và 3 Điều 100 Luật Đất đai 2013 hoặc theo một số quyết định về sử dụng đất.

1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc xác định đất đang tranh chấp Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

1.2.1. Vai trò

Là điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất.

Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có một trong các điều kiện là đất không có tranh chấp;

Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính. Là điều kiện góp quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quy định về việc góp quyền sử dụng đất và điều chỉnh lại quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư. Khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là căn cứ bồi thường khi nhà nước thu hồi đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là một đảm bảo quan trọng của Nhà nước cho người sử dụng đất. Thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đồng thời bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Đó cũng là điều kiện để người sử dụng đất được thực hiện các quyền định đoạt về quyền sử dụng đất như: Quyền chuyển đổi, quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn, để thừa kế. Từ đó góp phần hình thành, phát triển thị trường bất động sản. Đặt biệt cũng là điều kiện để người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường thiệt hại về đất và tài sản có trên đất khi nhà nước thu hồi đất. Và cũng là cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp về quyền sử dụng đất.  – Là căn cứ để tòa công nhận các giao dịch về quyền sử dụng đất

Đất đang tranh chấp thì Tòa sẽ tuyên hủy hợp đồng. Theo Thông tư số 33, ngày 29-9-2017, Bộ Tài nguyên – môi trường cũng quy định việc từ chối hồ sơ đề nghị đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thực hiện khi có một trong các căn cứ như: “…nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai về việc đã tiếp nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai, tài sản gắn liền với đất” (trích Điểm đ, Khoản 11, Điều 7). Mặt Khác “Một trong các điều kiện để cá nhân, tổ chức thực hiện các giao dịch là tài sản không có tranh chấp. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm tạm ngưng giải quyết thủ tục đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng, thay đổi hiện trạng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất khi cá nhân, tổ chức nộp đơn đề nghị tạm ngưng các thủ tục nêu trên, kèm theo giấy tờ, tài liệu chứng minh tài sản hiện đang có tranh chấp, ví dụ như: văn bản thụ lý việc giải quyết tranh chấp đất đai, hoặc văn bản thụ lý việc giải quyết tranh chấp quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, hoặc văn bản thụ lý việc giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết có đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (ví dụ: Tùy từng trường hợp cụ thể, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được xác định có thể là ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân có thẩm quyền hoặc Trọng tài Thương mại), hoặc văn bản thể hiện kết quả giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền, nhưng các bên vẫn không đồng ý với kết quả giải quyết tranh chấp đó và tiếp tục khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật”. Nhưng lại có một số vụ đất đang tranh chấp vẫn được cấp sổ đỏ ở Phú Thọ.

Đất không tranh chấp thì tòa sẽ công nhận quyền sử dụng đất, như theo khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013, người sử dụng đất được chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi có đủ các điều kiện sau:

Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai năm 2013 thì đất không có tranh chấp. Thông thường chỉ cần bên chuyển nhượng có đủ 04 điều kiện trên thì được phép chuyển nhượng. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Là căn cứ để thi hành án dân sự, đối với tài sản là đất đai thì việc thi hành án rất phức tạp, tuy nhiên, để đảm bảo đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của nhà nước, công dân thì trong một số trường hợp sẽ được hoãn thi hành án.

Căn cứ để xác định di sản thừa kế để tiến hành phân chia di sản thừa kế là đất đai, trước hết cần phải xác định di sản thừa kế bao gồm những gì, có giấy tờ như: chứng nhận quyền sử dụng đất làm căn cứ.bản án 06/2017/DS-PT Ngày 23/08/201 về tranh chấp chia tài sản chung là di sản thừa kế trong đó có đất đai.

Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn[2], người sử dụng đất được sở hữu phần giá trị quyền sử dụng đất, được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các phần diện tích được giao tương ứng với nghĩa vụ thực hiện với Nhà nước. Và khi quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó. Ví dụ về vụ tranh chấp ly hôn của vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo, trong đó có tranh chấp bất động sản.

1.2.2. Ý nghĩa hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai

  • Giải quyết bất đồng, bảo vệ quyền cho các chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp.
  • Giúp cho chủ thể lấy lại đất tranh chấp, từ đó có thể tạo ra một xã hội công bằng và phát triển hơn.
  • Thể hiện vai trò quản lý của nhà nước về đất đai. Nhà nước có vai trò rất to lớn trong việc quản lý, giám xác, và xác định chủ thể của đất đang tranh chấp một cách chính xác. Từ đó giảm thiểu các hệ quả đáng tiếc xảy ra trong quá trình tranh chấp đất. Ví dụ như trường hợp tranh chấp đất Đồng Tâm
  • Duy trì sự công bằng, ổn định trật tự xã hội. Công bằng về điều kiện, đối tượng để thực hiện nghĩ vụ tài chính đối với nhà nước. Xác định đất đang tranh chấp sẽ giúp cho đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất nhất là lợi ích kinh tế.

Giúp cho xác định đất đang tranh chấp sẽ đảm bảo cho đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thực hiện vai trò là người đại diện cho chủ sở hữu đây là nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp đất đai đòi hỏi khi xem xét giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ pháp luật đất đai. Là xác định đất đang tranh chấp đều phải thực hiện trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân bảo vệ quyền lợi cho người đại diện chủ sở hữu, bảo vệ thành quả cho cuộc cách mạng về đất nó còn giúp cho xác định đường lối chính sách của Đảng pháp luật Nhà nước không thừa nhận đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

1.3. Vai trò của việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai

Cũng như các quyền con người khác, quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền quan trọng trong xã hội hiện nay. Quyền tiếp cận thông tin đã được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý về quyền con người của Liên hợp quốc và tiếp tục được khẳng định trong bản Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (năm 1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966) và các Công ước quốc tế khác.

Ở Việt Nam, quyền tiếp cận thông tin của công dân đã được thừa nhận trong Điều 69 của Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục được ghi nhận trong điều 25 của Hiến pháp 2013. Luật Tiếp cận thông tin cũng đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 06 tháng 04 năm 2016, khẳng định ý nghĩa to lớn của quyền này đối với mọi công dân, tổ chức.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân chưa được bảo đảm ở một số lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đất đai. Vì vậy, việc tìm hiểu vai trò của quyền tiếp cận thông tin về đất đai có ý nghĩa hết sức quan trọng để có thể nỗ lực tìm kiếm các giải pháp trên thực tế.

1.3.1. Các yếu tố bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai

Đất đai được quy định là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện quản lý. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền quyết định các vấn đề như: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư… Vì vậy, các thông tin về đất đai có đặc điểm là gắn liền với sự đảm bảo từ phía cơ quan nhà nước.

Có thể hiểu, quyền tiếp cận thông tin về đất đai là quyền mà người sử dụng đất cần được tiếp cận các thông tin về đất đai do Nhà nước nắm giữ, nhằm thỏa mãn các nhu cầu hợp pháp về đất đai của mình cũng như để thực hiện các quyền cơ bản khác mà pháp luật ghi nhận. Vì vậy, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước liên quan nhằm bảo đảm cho công dân được tiếp cận các thông tin về đất đai thuộc quyền sở hữu của mình và các thông tin đất đai được công khai rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo thông tin sẽ được tiếp cận đúng, đủ và kịp thời. Để quyền này được thực hiện có hiệu quả cần đảm bảo các yếu tố sau:

Bảo đảm kinh tế: Sẽ đảm bảo được việc công bố các thông tin về đất đai trên các phương tiện thông tin đại chúng, có thể thuận tiện công bố cho người dân được biết về các vấn đề liên quan đến đất đai trong nước.

Bảo đảm về chính trị: Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất quan trọng của con người. Đảng và Nhà nước ta đã luôn cố gắng cải thiện công tác quản lý đất, đặc biệt là ở việc điều chỉnh các chế độ sở hữu đất. Thực tiễn cho thấy, chính sách về đất đai đã có nhiều đổi mới và đóng góp tích cực cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng nguồn lực đặc biệt quan trọng này. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Bảo đảm về văn hóa: Trên lãnh thổ Việt Nam, mỗi vùng miền, mỗi cá nhân có sự nhận thức và tư duy khác nhau nên tồn tại những quan điểm, nhu cầu khác nhau về quyền tiếp cận thông tin. Hơn nữa, những ảnh hưởng của văn hóa làng mạc, xóm giềng với tình hình thông tin được truyền đạt từ đời này sang đời khác cũng khiến cho việc kiểm soát thông tin trở nên khó khăn hơn. Mức độ tiếp cận thông tin trong lĩnh vực đất đai cũng phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, điều kiện lịch sử, địa lý, đặc điểm văn hóa, khả năng, ý chí của người sử dụng đất.

Bảo đảm về mặt pháp lý quyền tiếp cận thông tin về đất đai là tổng thể các quy định của pháp luật về công cụ, phương tiện pháp lý nhằm bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin trong quá trình Nhà nước thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về đất đai. Việc này bao gồm việc ghi nhận đầy đủ nội dung quyền, cách thức thực hiện quyền và những quy định pháp lý bảo vệ trước hành vi xâm phạm quyền.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mặc dù nền kinh tế đang phát triển nhưng việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin nói chung và quyền tiếp cận thông tin về đất đai của người dân còn nhiều bất cập. Hiện nay, tình trạng người dân chưa thực sự nắm được những thông tin cơ bản về đất đai của địa phương mình còn rất phổ biến, mặc dù Nhà nước đã dần minh bạch các thông tin về đất đai ngay tại các địa phương một số thông tin về đất đai còn chậm trễ hoặc thiếu dẫn đến nhiều tranh chấp về đất đai, hoặc tình trạng khiếu nại, khiếu kiện diễn ra phổ biến, gây nên sự mất niềm tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, cần tăng cường hơn trong việc chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để tạo được niềm tin cho người sử dụng đất.

1.3.2. Vai trò của việc minh bạch thông tin về đất đai Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Thứ nhất, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai của công dân là hoạt động góp phần bảo đảm quyền con người.

Như đã đề cập ở trên, đất đai là tài nguyên thiên vô cùng quý giá của con người, vì vậy việc nắm bắt các thông tin liên quan đến lĩnh vực đất đai hết sức cần thiết để đảm bảo cuộc sống. Việc bảo đảm thực hiện tiếp cận thông tin đối với đất đai cũng chính là bảo đảm thực hiện một trong các quyền hiến định quan trọng của công dân – quyền được thông tin. Thông qua công cụ pháp luật, mọi công dân được tiếp cận những thông tin về đất đai một cách bình đẳng, công bằng. Chính điều này góp phần tạo ra bình đẳng xã hội, bình đẳng giữa con người với con người. Hơn nữa, việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai của công dân sẽ là cơ sở quan trọng để bảo vệ các quyền con người khác, như: tham gia quản lý xã hội, quyền được chất vấn chính quyền trong quản lý nhà nước về đất đai, quyền giám sát các hoạt động của nhà nước, quyền tự do kinh doanh, quyền được tham gia thị trường bất động sản một cách công bằng, quyền được sống trong một môi trường trong lành, quyền được góp ý trong các quy hoạch liên quan đến văn hóa, cảnh quan của cộng đồng,…

Thứ hai, bảo đảm cho quyền tiếp cận thông tin về đất đai của công dân là đảm bảo công bằng xã hội, góp phần tăng cường tính minh bạch của pháp luật.

Luật Đất đai 2013 cũng đã có những quy định giúp mở rộng hơn về quyền tiếp cận đất đai đối với hộ gia đình, cá nhân và tổ chức, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức sản xuất, kinh doanh. Luật Đất đai năm 2013 cũng đã bổ sung thêm những điều khoản mới về vai trò giám sát của người dân trong khâu quy hoạch. Kế hoạch sử dụng đất các cấp phải lấy ý kiến của người dân và sau khi thu nhận được ý kiến thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm báo cáo tiếp thu và giải trình. Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân về đất đai mở ra khả năng tiếp cận sâu rộng các thông tin về đất đai cho người dân. Khi người dân được biết những thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước, họ trở nên chủ động hơn trong các quyết định khai thác, sử dụng đất phù hợp với quy định của pháp luật.

Thứ ba, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai góp phần hạn chế tình trạng tham nhũng.

Tham nhũng đất đai chính là phương thức nhằm đạt được những mục tiêu về lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội. Kinh tế càng phát triển, nhu cầu sử dụng đất ngày càng tăng thì việc lợi dụng những thông tin về đất đai để tham nhũng cũng theo đó ngày càng phát triển. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Qua thực tế, trong một số báo báo nghiên cứu về thông tin đất đai trong đó có báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố cho thấy, thái độ, năng lực và công tác chỉ đạo việc bảo đảm cung cấp thông tin còn hạn chế. Một số cán bộ từ chối yêu cầu cung cấp thông tin hoặc yêu cầu có giấy giới thiệu. Ở cấp xã, nhiều cán bộ không có mặt trong giờ làm việc hoặc trả lời là họ không có các thông tin được yêu cầu. Một số cán bộ cho rằng các thông tin về thu hồi đất, bồi thường, tái định cư là tài liệu mật hay cần sự phê duyệt của lãnh đạo địa phương mới được tiếp cận, nhiều trường hợp cấp dưới chỉ lên cấp trên và ngược lại. Các trường hợp cán bộ, công chức có thái độ quan liêu, bưng bít thông tin, gây khó dễ cho người dân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện quyền của người dân khi tìm hiểu thông tin về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Nhiều cơ quan tổ chức lấy lý do “bí mật” đã không công khai hoặc không cho phép tiếp cận các thông tin mà người dân cần, từ đó, dẫn đến tình trạng bưng bít hoặc thông tin sai lệch dẫn đến nhận thức sai lệch về thông tin họ có được.

Quy định trên cho thấy việc công khai, minh bạch thông tin hoạt động của đơn vị nói chung và việc công khai, minh bạch thông tin đất đai thuộc phạm vi quản lý của từng cơ quan nói riêng là rất cần thiết để xác định mức độ tin cậy của cơ quan nhà nước, là một cách thức quan trọng để hạn chế sự tham nhũng của một bộ phận cán bộ, công chức.

Thứ tư, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin về đất đai là sự thể hiện của việc nhân dân giám sát hoạt động quản lý của Nhà nước, thúc đẩy mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, đồng thời tạo niềm tin của công dân đối với Nhà nước.

Khi quyền tiếp cận thông tin về đất đai được bảo đảm sẽ hình thành cơ chế giám sát hiệu quả từ người dân đến hoạt động của cơ quan công quyền, giúp cho việc quản lý nhà nước có hiệu quả hơn, trách nhiệm cao hơn, thúc đẩy cải cách hành chính nhất là trong thời điểm hiện tại – khi mà kinh tế ngày càng phát triển, dân số ngày càng gia tăng thì đất đai càng trở nên có giá trị, quỹ đất mỗi lúc một thêm hạn hẹp thì việc sử dụng đất đai hợp lý cũng trở thành mối quan tâm của toàn xã hội.

Để đảm bảo được sự minh bạch trong việc quản lý đất đai của Nhà nước, hạn chế được tình trạng lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi từ đất đai thì cần thiết phải có được sự tham gia giám sát của người dân đối với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước. Việc đảm bảo quyền tiếp cận thông tin cho người dân càng cao đồng nghĩa với việc hiệu quả của hoạt động giám sát sẽ càng được nâng cao.

Bởi lẽ, thông tin là nguồn sống cơ bản của nền dân chủ – về bản chất dân chủ là khả năng của cá nhân tham gia một cách hiệu quả vào quá trình ra quyết định có ảnh hưởng đến cá nhân đó. Cơ hội tiếp cận thông tin của nhân dân càng cao thì việc xem xét tính hợp lý trong các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước càng cao, sự hợp lý và hợp pháp trong các quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai càng đúng đắn và hiệu quả.

1.4. Xác định đất đang tranh chấp theo thủ tục tố tụng dân sự Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Luật Đất đai năm 2013, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 được ban hành đã tạo hành lang pháp lý để đảm bảo quyền tự do định đoạt, quyền khởi kiện cho các được sự trong việc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai; tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai có hiệu quả hơn.

Trong đó, giải quyết tranh chấp đất đai theo trình tự tố tụng dân sự là việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án được thực hiện theo quy định chung của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền. Đối với tranh chấp về tài sản gắn liền với đất đai và tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 hoặc không có một trong các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 nhưng có yêu cầu Tòa án giải quyết thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Đây là phương thức giải quyết tranh chấp phổ biến và lâu đời nhất. Hình thức giải quyết này thông qua cơ quan quyền lực công có chức năng xét xử để đưa ra một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bắt buộc đối với các bên tham gia tranh chấp, là cơ sở để các cơ quan hành chính nhà nước về đất đai có những điều chỉnh phù hợp theo nội dung quyết định, bản án đã nên.

Ngoài ra, theo tổ chức bộ máy nhà nước thì Tòa án được tổ chức và có cơ chế hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên các phán quyết của Tòa án đảm bảo sự công bằng, khách quan.

Theo khoản 2 điều 26 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án cũng sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản ở đây chúng ta sẽ phân tích tài sản là bất động sản theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự năm 2015

Không chỉ thế tại khoản 3 của điều 26 Bộ Luật tố tụng dân sự thì các tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự, ở đây là hợp đồng mua bán bất động sản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất,… đều thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết tranh chấp

Tòa án cũng sẽ có thẩm quyền giải quyết đối với Tranh chấp về thừa kế tài sản được quy định tại khoản 5 điều 26 Bộ Luật tố tụng dân sự, ở trong đề tài này chúng ta sẽ tập trung chủ yếu vài tranh chấp các tài sản là bất động sản

Căn cứ theo khoản 9 điều 26 Bộ Luật tố tụng dân sự thì “ Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai;…” sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Và kể cả ở khoản 13 điều 26 thì Tòa án còn có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Như vậy, Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai cụ thể: Cá nhân, cơ quan , tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi kiện vụ án tại Tòa án. Theo các quy định hiện nay thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về đất đai

Theo điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Do đó, tranh chấp đất sẽ do Tòa án nơi có đất có thẩm quyền giải quyết. Nếu đất đai có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các diện tích đất giải quyết). Người khởi kiện vụ án gửi đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền, thực hiện việc tạm ứng án phí và hoàn chỉnh hồ sơ, đơn khởi kiện theo yêu cầu của Tòa án. Khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án, sẽ tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Nếu hòa giải thành thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành, hết 07 ngày mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì tranh chấp chính thức kết thúc. Nếu hòa giải không thành thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngay trong quá trình xét xử, các đương sự vẫn có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Nếu không đồng ý thì các bên vẫn có quyền kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử đối với bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị (Điều 17 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015)

Theo đó, xét xử phúc thẩm là việc Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị (Điều 270 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015)

Ngoài ra, bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án cũng như mọi hoạt động giải quyết tranh chấp khác của Tòa án đối với một vụ án có thể có thủ tục xét xử sơ thẩm, thủ tục xét xử phúc thẩm, thậm chí là giám đốc thẩm và tái thẩm.

Quy định pháp luật về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức.

Trong các cấp Tòa án chỉ có Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh là có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các vụ việc dân sự. Do vậy, việc phân định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm giữa Tòa án các cấp được thực hiện đối với Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh dựa trên tính chất phức tạp của từng loại việc, hệ thống tổ chức Tòa án, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thực tế của đội ngũ cán bộ Tòa án, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật cũng như hiệu quả kinh tế của việc giải quyết vụ việc Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh được quy định tại Điều 35 và Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo đó, Tòa án cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với hầu hết các vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án. Tuy nhiên, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp đòi hỏi điều kiện cao hơn về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ Tòa án, về phương tiện kỹ thuật, cần ủy thác tư pháp cho cơ quan ở nước ngoài hoặc những vụ việc nhằm đảm bảo sự vô tư, khách quan của Tòa án cấp huyện thì thẩm quyền sẽ thuộc về Tòa án cấp tỉnh. Song song với điểm mới của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh, Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng có kế thừa và bổ sung phù hợp về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự có xem xét đến việc hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức.

Thẩm quyền theo cấp Tòa án trong trường hợp này được xác định theo quy định tương ứng của Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và cấp tỉnh trong việc xem xét hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức có liên quan.

Vụ án: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị C khởi kiện bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Trương Thị B về việc tranh chấp quyền sử dụng đất.

Tòa án thị xã T nhận định do người khởi kiện là bà C có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân thị xã T cấp cho ông C và bà B, nên căn cứ vào khoản 4 Điều 34, Điều 37, điểm c khoản 3 Điều 191 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015, cho rằng đơn khởi kiện của bà C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tỉnh B. Ngày 13/10/2016, Tòa án thị xã T ra Thông báo số 06/TB-TA chuyển đơn khởi kiện của bà C đến Tòa án tỉnh B để giải quyết. Sau khi nhận được hồ sơ chuyển đơn khởi kiện, ngày 03/11/2016, Tòa án tỉnh B đã thụ lý vụ án nêu trên. Tuy nhiên, đến ngày 23/12/2016 Tòa án tỉnh B ban hành Quyết định số 147/2016/QĐST-DS chuyển hồ sơ vụ án nêu trên về cho Tòa án thị xã T giải quyết vì cho rằng chưa có đầy đủ chứng cứ để chứng minh việc ủy ban nhân dân thị xã T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông C và bà B là không đúng pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà C nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thị xã T. Sau khi đã thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng minh Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp không đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và cần thiết phải xem xét tính hợp pháp của giấy chứng nhận này, ngày 21/9/2017, Tòa án thị xã T ra Quyết định số 08/2017/QĐSTDS chuyển hồ sơ vụ án lên Tòa án tỉnh B để giải quyết. Ngày 21/12/2017, Tòa án tỉnh B ra Quyết định số 47/2017/QĐST-DS tiếp tục chuyển hồ sơ vụ án về lại cho Tòa án thị xã T vì nhận định Tòa án thị xã T cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông C và bà B là không đúng trình tự, thủ tục là không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hiện nay, vụ án vẫn đang được Tòa án thị xã T thụ lý giải quyết và chưa có kết quả.

Không biết rằng nếu Tòa án thị xã T vẫn giữ nguyên quan điểm cần phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ủy ban nhân dân thị xã T cấp cho ông C và bà B thì sẽ phải xử lý như thế nào trong khi thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định tại Điều 34 của Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 31 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

Như vậy, trong toàn bộ quá trình của vụ việc trên, các thông tin về tranh chấp về thửa đất giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị C khởi kiện bị đơn ông Nguyễn Văn C, bà Trương Thị B sẽ được công khai ở đâu?

1.5. Xác định đất đang tranh chấp thông qua ủy ban nhân dân các cấp Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

1.5.1 Xác định đất đang tranh chấp thông qua ủy ban nhân dân cấp xã

  • Căn cứ Điều 202 Luật Đất đai 2013 thì :

Nhà nước đã tạo điều kiện khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở nhằm giúp cho các bên có thể chủ động xem xét, giải quyết tran chấp trước khi đưa lên ủy ban nhân dân cấp xã tiến hành hòa giải.

Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình.

Trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác.

Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.

Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp. Tuy nhiên, hiện nay, khi Ủy ban nhân dân triệu tập các bên để hòa giải trong nhiều trường hợp phía bị đơn không đến (mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ), do vậy, phát sinh trường hợp: Khi bị đơn không đến thì Ủy ban nhân dân không thể tiến hành hòa giải được, trong biên bản hòa giải cũng không thể có chữ ký của bị đơn. Nếu Ủy ban nhân dân có lập biên bản không hòa giải vì bị đơn không đến thì biên bản này có được coi là biên bản hòa giải không thành không?

Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác

Như vậy, người có tranh chấp đất đai nộp đơn yêu cầu ủy ban nhân dân xã nơi có đất tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai.Trong thời gian không quá 45 ngày kể từ thời điểm ủy ban nhân dân xã khi nhận được đơn yêu cầu thì phải tiến hành hòa giải.Nếu trong trường hợp hòa giải không thành thì khi đó mới có đủ điều kiện để tiến hành giải quyết vụ án tranh chấp đất đai.

Thủ tục thực hiện hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã (cấp cơ sở) Việc hòa giải về tranh chấp đất đai do Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tranh chấp thực hiện theo Khoản 3 Điều 202 Luật Đất đai 2013 UBMTTQ cấp xã, các tổ chức thành viên và các tổ chức khác có trách nhiệm phối hợp thực hiện hòa giải tranh chấp.

Trình tự, thủ tục thực hiện hòa giải như sau: Một bên trong tranh chấp đất đai gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến ủy ban nhân dân cấp xã nơi xảy ra tranh chấp. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Các công việc mà ủy ban nhân dân cấp xã phải thực hiện sau khi nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ- CP và bổ sung bởi Khoản 57 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ- CP như sau :

Thẩm tra, xác minh nguyên nhân phát sinh tranh chấp; Thu thập tài liệu, giấy tờ có liên quan đến hiện trạng sử dụng đất, nguồn gốc và quá trình sử dụng đất;

Thành lập Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai: gồm các thành viên được quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ- CP;

Tổ chức hòa giải: Sự tham gia của các bên đương sự, thành viên Hội đồng hòa giải là bắt buộc. Việc hòa giải được coi là không thành khi một trong các bên tranh chấp vắng mặt trong buổi hòa giải đến lần thứ hai.

Thời hạn thực hiện: không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp theo quy định tại Khoản 3 Điều 202 Luật Đất đai 2013

Biên bản hòa giải :Khoản 4 Điều 202 Luật Đất đai 2013 và Khoản 2 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ- CP điều chỉnh các nội dung liên quan đến biên bản hòa giải

Phát sinh sau hòa giải: Các trường hợp phát sinh sau hòa giải được điều chỉnh bởi Khoản 5 Điều 202 Luật Đất đai 2013 và Khoản 3, Khoản 4 Điều 88 Nghị định 43/2014/NĐ- CP

Khi việc hòa giải thành nhưng có thay đổi hiện trạng về chủ sử dụng đất, ranh giới sử dụng đất thì ủy ban nhân dân cấp xã bản hòa giải thành đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định tại Khoản 5 Điều 202 Luật Đất đai 2013

Như vậy, tại điều 202 và cũng như các quy định khác có liên quan về đất đang đất, và giải quyết tranh chấp ở ủy ban nhân dân cấp xã thì hoàn toàn không có quy định nào về việc cung cấp xác định đất đang tranh chấp và cũng không hề có quy định nào về việc ủy ban nhân dân cấp xã phải có nhiệm vụ công khai về quá trình hòa giải của một thửa đất đang trong quá trình hòa giải tranh chấp

  • Ta đặt ra một tình huống giả thiết như sau : Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Ông A mua một mảnh đất của ông B và đã đặt cọc 50 triệu. Chi phí làm chứng nhận quyền sử dụng đất của cả hai do ông A chi trả. Sau khi ông B ký hợp đồng mọi quyền sử dụng, chuyển nhượng, cho, tặng… cho ông A, ông A ra phường xin giấy xác nhận tình trạng bất động sản thì nhân viên địa chính phường nói miếng đất này đang xảy ra tranh chấp.

Ông B giải thích là trước đó đã ký hợp đồng đặt cọc với một người khác nhưng vì hai bên không thống nhất được việc mua bán nên ông B trả lại tiền đặt cọc và bên phía người mua đòi đền bù gấp 3 lần.

Vì việc giải quyết giữa hai bên vẫn chưa hoàn thành nên miếng đất vẫn đang trong tình trạng tranh chấp. Nhân viên địa chính nói chỉ khi hai bên giải quyết xong tranh chấp thì ông A mới được làm thủ tục sang tên và tiến hành

Từ tình huống này đã cho ta thấy tầm quan trọng của việc nên công khai minh bạch thông tin khi ủy ban nhân dân cấp xã đang tiếp nhận hay hòa giải một tranh chấp đất ở địa phương để giúp cho người dân không lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan như tình huống trên

1.5.2 Xác định đất đang tranh chấp thông qua ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền

Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, các tranh chấp đất đai thỏa mãn điều kiện sau thì thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện:

  • Tranh chấp đã được hòa giải tại ủy ban nhân dân cấp xã
  • Tranh chấp mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013.
  • Loại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân cấp huyện:
  • Tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với nhau
  • Loại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
  • Tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân dân cấp huyện nhưng các bên tranh chấp không đồng ý với quyết định giải quyết. – Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp

Bước 1. Nộp đơn yêu cầu

  • Người có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai nộp đơn tại ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

Bước 2. Giải quyết đơn yêu cầu

  • Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao trách nhiệm cơ quan tham mưu giải quyết. Thông thường, cơ quan tham mưu bao gồm cơ quan tư pháp và cơ quan tài nguyên và môi trường
  • Cơ quan tham mưu có các nhiệm vụ sau:
  • Thẩm tra, xác minh vụ việc;
  • Tổ chức hòa giải giữa các bên tranh chấp;
  • Tổ chức cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn giải quyết vụ việc (nếu cần thiết);
  • Hoàn chỉnh hồ sơ trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp ban hành quyết định giải quyết tranh chấp đất đai.

Hồ sơ giải quyết tranh chấp đất đai bao gồm:

  • Đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai;
  • Biên bản hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã;
  • Biên bản làm việc với các bên tranh chấp và người có liên quan;
  • Biên bản kiểm tra hiện trạng đất tranh chấp;
  • Biên bản cuộc họp các ban, ngành có liên quan để tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai đối với trường hợp hòa giải không thành; Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.
  • Biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết tranh chấp;
  • Trích lục bản đồ, hồ sơ địa chính qua các thời kỳ liên quan đến diện tích đất tranh chấp và các tài liệu làm chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết tranh chấp;
  • Báo cáo đề xuất và dự thảo quyết định giải quyết tranh chấp hoặc dự thảo quyết định công nhận hòa giải thành.

Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền ban hành quyết định giải quyết tranh chấp hoặc quyết định công nhận hòa giải thành, gửi cho các bên tranh chấp, các tổ chức, cá nhân có quyền và nghĩa vụ liên quan.

Thời gian thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp

  • Thời hạn giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện là không quá 45 ngày.
  • Thời hạn giải quyết vụ việc thuộc thẩm quyền của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh là không quá 60 ngày.
  • Thời hạn trên được tính kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn thì thời gian thực hiện được tăng thêm 15 ngày.

Xử lý trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp có thẩm quyền

Đối với trường hợp không đồng ý với quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện, các bên tranh chấp có quyền khiếu nại đến Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

Đối với trường hợp không đồng ý với quyết định của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các bên tranh chấp có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính.

1.6. Xác định tình trạng thửa đất thông qua các tổ chức dịch vụ công

1.6.1. Văn phòng công chứng

  • Văn phòng công chứng là nơi nắm rất nhiều thông tin nhà đất tại nơi tọa lạc dự án nhà đất mình quan tâm.
  • Văn phòng công chứng là nơi giải quyết rất nhiều các đơn từ và thủ tục nhà đất cần công chứng ngay tại cơ quan có thẩm quyền này.
  • Văn phòng công chứng công chứng từ giấy tờ nhà, sổ đỏ, thực hiện sang tên và sang thông tin khi mua bán nhà đất và văn phòng công chứng cũng là nơi giải quyết thắc mắc những vấn đề liên quan đến tranh chấp nhà đất,…
  • Văn phòng công chứng là một kho tàng thông tin về các vấn đề nhà đất của từng địa phương. Văn phòng công chứng là nơi tiếp nhận hồ sơ về những thủ tục liên quan đến bất động sản, trong quy trình chứng thực đều phải thông quan văn phòng công chứng để đúng quy trình thủ tục và xác minh các thông tin cần thiết cho một sự án nhà đất. Trong một số trường hợp được cho phép hay được người yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định khác thì mới có thể cung cấp thông tin ra ngoài ( điểm đ khoản 2 điều 17 Luật công chứng 2014)

1.6.2 Văn phòng đăng kí đất đai Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.

Văn phòng đăng ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc tổ chức lại trên cơ sở hợp nhất Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường và các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất trực thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường hiện có ở địa phương; có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp luật.

Văn phòng đăng ký đất đai có chức năng:

  • Thực hiện đăng ký đất đai và tài sản gắn liền với đất;
  • Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp được ủy quyền theo quy định;
  • Xây dựng, quản lý, cập nhật, đo đạc, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai;
  • Cung cấp thông tin đất đai theo quy định cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ khác trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ phù hợp với năng lực theo quy định của pháp luật – Nhiệm vụ, quyền hạn
  • Thực hiện việc đăng ký đất được Nhà nước giao quản lý, đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
  • Thực hiện việc cấp lần đầu, cấp đổi, cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi là Giấy chứng nhận).
  • Thực hiện việc đăng ký biến động đối với đất được Nhà nước giao quản lý, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
  • Lập, chỉnh lý, cập nhật, lưu trữ và quản lý hồ sơ địa chính; tiếp nhận, quản lý việc sử dụng phôi Giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật.
  • Cập nhật, chỉnh lý, đồng bộ hóa, khai thác dữ liệu đất đai; xây dựng, quản lý hệ thống thông tin đất đai theo quy định của pháp luật.
  • Thực hiện việc thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; chỉnh lý bản đồ địa chính; trích lục bản đồ địa chính.
  • Kiểm tra bản trích đo địa chính thửa đất; kiểm tra, xác nhận sơ đồ nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do tổ chức, cá nhân cung cấp phục vụ đăng ký, cấp Giấy chứng nhận.
  • Thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.
  • Cung cấp hồ sơ, bản đồ, thông tin, số liệu đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Khóa luận: Pháp luật về xác định đất đang tranh chấp.
  • Thực hiện việc thu phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.
  • Thực hiện các dịch vụ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ phù hợp với năng lực theo quy định của pháp luật.

Quản lý viên chức, người lao động, tài chính và tài sản thuộc Văn phòng đăng ký đất đai theo quy định của pháp luật; thực hiện chế độ báo cáo theo quy định hiện hành và tình hình thực hiện nhiệm vụ về các lĩnh vực công tác được giao.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Thực tiễn pháp luật xác định đất đang tranh chấp

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x