Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

I. Thực trạng về thị trường ngoại tệ và TTCK Việt Nam

1.Môi trường pháp lý cho hoạt động mua bán ngoại tệ và CK  

  • Ngoại tệ:

Trong năm 2004, cơ chế quản lý ngoại hối tiếp tục được hoàn thiện, tạo khung pháp lý cho các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Đối với quản lý các giao dịch vãng lai, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các qui chế thanh toán trong mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ thương mại giữa Việt Nam và các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, góp phần tăng cường quản lý ngoại hối khu vực biên giới, cửa khẩu và thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa Việt nam với các nước; đối với các giao dịch vốn, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh các giao dịch ngoại hối liên quan đến hoạt động góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài cũng như các hoạt động mua bán chứng khoán niêm yết tại trung tâm giao dịch chứng khoán tại Việt Nam của nhà đầu tư nước ngoài. Các văn bản này đã quy định rõ việc chuyển vốn vào Việt Nam, chuyển đổi ra đồng Việt nam để góp vốn, mua cổ phần, mua chứng khoán, quy định về việc mở và sử dụng tài khoản vốn chuyên dùng cho các hoạt động đầu tư này. Các quy định về quản lý ngoại hối trên thị trường chứng khoán đã được xây dựng và hoàn thiện theo hướng từng bước tự do hoá các giao dịch vốn. Liên quan đến quản lý vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành thông tư quy định rõ ràng và thống nhất việc thực hiện quản lý nợ nước ngoài tại Ngân hàng Nhà nước Trung ương và Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố, hướng dẫn cụ thể về điều kiện vay nước ngoài ngắn, trung và dài hạn, xác nhận đăng ký của Ngân hàng Nhà nước về việc vay trả nợ nước ngoài.

Đối với hoạt động của thị trường ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước đã có bước đổi mới cơ bản trong việc mở rộng qui mô, phạm vi và biện pháp quản lý đối với các loại hình kinh doanh ngoại tệ theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, tạo ra nhiều sự lựa chọn đối với các thành viên tham gia thị trường, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại, từng bước xây dựng một thị trường hối đoái cạnh tranh. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Để tiến tới thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố phối hợp với cơ quan chức năng trên địa bàn kiểm tra, xử lý các trường hợp quảng cáo, niêm yết giá cả hàng hoá, dịch vụ bằng ngoại tệ trái pháp luật. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng chỉ đạo triển khai việc xây dựng Đề án về lộ trình giảm dần tiến tới chấm dứt hiện tượng đô la hoá trong nền kinh tế, trước mắt tập trung nghiên cứu một số nội dung về hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý ngoại hối trong lộ trình hội nhập; cơ chế cho vay ngoại tệ; tỷ giá và phát triển thị trường ngoại hối; hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối đối với nhà đầu tư nước ngoài; tác động của đồng Nhân dân tệ với chính sách quản lý ngoại hối của Việt Nam; tạo khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam.

Những quyết định và thông tư về quản lý ngoại hối được ban hành trong thời gian qua đã và đang góp phần tích cực vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ ổn định tỷ giá hối đoái và giá vàng, kiềm chế lạm phát, khuyến khích các hoạt động đầu tư và thu hút các nguồn kiều hối lớn.

Quyết định 648/2004/QĐ-NHNN ngày 28-5-2004 liên quan đến giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng đưa ra mức chênh lệch lãi suất giữa USD và đồng Việt Nam đã tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thể đặt ra một tỷ giá của riêng mình trong biên độ cho phép. Đây là cơ sở cho việc hình thành thị trường ngoại hối tự do hóa.

Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng đã cho phép các tổ chức này có thể triển khai hoạt động và tiếp cận thị trường ngoại hối ở phạm vi rộng hơn.

Với quyết định này, mọi chế độ kiểm soát chứng từ được bãi bỏ và một nguyên tắc rất cơ bản của các đồng tiền được xác lập là ngoại tệ được tự do chuyển đổi. Chủ trương mới này nhằm tạo điều kiện cho thị trường xác lập một tỷ giá hối đoái cân bằng hơn và đúng với tác động của cung-cầu.

Thông tư 09 về quản lý vay và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp ra đời với mục đích quản lý nguồn nợ này chặt chẽ, song không hề cản trở và làm mất đi tính tự chủ của các doanh nghiệp cũng như của các tổ chức tín dụng.

Thông tư 03/2004/TT- NHNN ngày 25-5-2004, Chính phủ đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi loại hình kinh tế với tỉ lệ sở hữu khống chế là 30% và sắp tới tỷ lệ sở hữu này có thể được bãi bỏ. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Bảng Giá Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

  • Thị trường chứng khoán:

Môi trường pháp lý thuận lợi là yếu tố tối quan trọng để thị trường chứng khoán nói chung phát triển; hình thành và đẩy mạnh giao dịch quyền chọn chứng khoán nói riêng. Các văn bản pháp quy của nhà nước một mặt tạo khung pháp lý đầy đủ, điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia thị trường, hướng dẫn họ tiến hành giao dịch, mặt khác thể hiện chính sách ủng hộ, ưu tiên, khuyến khích đối với các chủ thể đó. Với ý nghĩa này, các quy định pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Việt Nam chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chưa thực sự tạo điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam trong đó có việc áp dụng quyền chọn chứng khoán – là đối tượng nghiên cứu của đề tài này

Trước khi Luật chứng khoán 2006 ra đời

Thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường chứng khoán non trẻ và nhỏ bé nhất thế giới. Kể từ khi ủy ban chứng khoán Việt Nam được thành lập theo Nghị định 75/Cp ngày 1/1/1996  đến nay mới được hơn 10 năm. Nếu tính từ khi có quyết định 127/1998/Qđ-TTg ngày 11/7/1998 về việc thành lập hai trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Hà Nội thì tuổi đời của thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ là 9 tuổi. Thực tế Trung tâm GDCK TP Hồ Chí Minh chỉ đi vào hoạt động từ ngày 20/7/2000 và phiên giao dịch đầu tiên diễn ra vào ngày 28/6/2000; còn trung tâm GDCK Hà Nội đến tháng 3/2005 mới chính thức hoạt động. Tính tới nay Chính phủ và các cơ quan chức năng chỉ có chưa tới 10 năm để ban hành, sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp lý về thị trường chứng khoán, cho nên những hạn chế và thiếu sót là không thể tránh khỏi.

Văn bản đầu tiên điều chỉnh có thể nói là Nghị định 48/1998/Nđ-Cp ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán quy định về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan. Lần đâu tiên khái niệm chứng khoán và giao dịch chứng khoán được luật hóa ở Việt Nam. Là văn bản đầu tiên, nên những gì mà nghị định trên đề cập chỉ ở mức độ cơ bản, mang đến cho đối tượng tiếp nhận những kiến thức hết sức hạn chế về chứng khoán. Nghị định cũng có những hướng dẫn đối với việc phát hành và kinh doanh chứng khoán, tuy nhiên vào thời điểm ra đời nghị định, hai trung tâm giao dịch chứng khoán phải 2 năm nữ mới hoạt động để kiểm chứng xem những quy định trong văn bản trên có phù hợp với thực tế hay không. Các quy định của Nghị định mang tính nguyên tắc cho vận hành thị trường được xây dựng chủ yếu dựa trên lý thuyết, dựa trên khung pháp luật Việt Nam thời kỳ 1998 và tham khảo pháp luật về thị trường chứng khoán của các nước trên thế giới, không có cơ sở thực tiễn. Đối với quyền chọn chứng khoán, nghị định trên hoàn toàn không đề cập. Chứng khoán theo định nghĩa của nghị định chỉ bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các loại chứng khoán khác. Như vậy tại thời điểm này, khái niệm chứng khoán phái sinh chưa hề được biết đến ở Việt Nam.

Những quy định trên dần dần được hoàn thiện, dẫn đến việc ra đời nghị định 144/2003/Nđ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán, có chứa đựng những sửa đổi bổ sung khá quan trọng nhất là việc nới lỏng tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, bắt đầu quy định cụ thể về chế độ công bố thông tin của các chủ thể trên thị trường. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Tuy nhiên, nghị định 144 mới chỉ điều chỉnh hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng của các công ty cổ phần, không điều chỉnh việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, việc phát hành chứng khoán của các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường sơ cấp, đồng thời tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng.

Nghị định 144 chỉ điều chỉnh hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung (các TTGDCK), không điều chỉnh hoạt động giao dịch chứng khoán phi tập trung. Điều này làm hạn chế việc phát triển thị trường thứ cấp.

Mặt khác, các hoạt động giao dịch chứng khoán đang diễn ra khá sôi động trên thị trường tự do mà không có sự quản lý của Nhà nước.

Hơn nữa nghị định này vẫn giữ nguyên nhược điểm của nghị định 48 đó là chưa thừa nhận các công cụ phái sinh là các loại hàng hóa có thể giao dịch trên thị trường; chứng khoán vẫn chỉ là cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ.

Các nghị định trên đã được ban hành tạo khung pháp lý ban đầu cho việc kinh doanh chứng khoán. Song chưa có một thông tư cụ thể hướng dẫn việc thi hành như thế nào (trừ thông tư hướng dẫn việc đầu thầu trái phiếu chính phủ trên TTCK). Điều này gây khó khăn cho các chủ thể trong việc hiểu và tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán nói chung, chứ chưa nói tới nghiệp vụ về quyền chọn chứng khoán.

Ngoài hai văn bản quan trọng trên, một số văn bản liên quan cũng được ban hành để điều chỉnh thị trường như nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, nghị định về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán…

Tại thời điểm này, các quy định về thị trường chứng khoán, và hướng dẫn thi hành còn thiếu, đòi hỏi phải cho ra đời một văn bản có giá trị pháp lý cao hơn và điều chỉnh thị trường là Luật Chứng khoán thay thế nghị định 144 để hoàn thiện môi trường pháp lý theo đòi hỏi của thị trường cũng như yêu cầu hội nhập của lĩnh vực tài chính. Để phát triển các nghiệp vụ liên quan đến quyền chọn chứng khoán, luật mới cần thừa nhận các công cụ tài chính phái sinh như là các loại hàng hóa trên TTCK

Sau khi Luật chứng khoán 2006 ra đời: Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Luật Chứng khoán 2006 – luật số 70/2006/QH11 được quốc hội khó 11 thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 sau 3 năm triển khai xây dựng, với 10 lần dự thảo với nhiều bước bổ sung, sửa đổi, lấy ý kiến đóng góp của mọi đối tượng tham gia và quan tâm đến thị trường chứng khoán cũng như trình xin ý kiến từ các cơ quan chức năng. Sự ra đời của luật được coi là bước đột phá tạo khung pháp lý đầy đủ thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển. Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho TTCK phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư, đồng thời giúp cho công chúng dễ dàng hiểu biết về chứng khoán, TTCK và tạo cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Theo đó, nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia đầu tư và hoạt động trên TTCK nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư phát triển. Luật Chứng khoán ra đời giúp phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu TTCK nói chung, cũng như thúc đẩy việc tự chủ của doanh nghiệp khi huy động vốn trên TTCK. Bên cạnh đó sẽ giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay. Đồng thời, Nhà nước có chính sách quản lý, giám sát bảo đảm TTCK hoạt động công bằng, công khai, minh bạch, an toàn và hiệu quả.

Luật chứng khoán ra đời trong bối cảnh thị trường chứng khoán tập trung đã ra đời hơn 5 năm nên những quy định trong luật được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu thị trường, mang tính thực tiễn cao; đồng thời vào thời đoạn cuối năm 2006, thị trường chứng khoán diễn ra hết sức sôi động, có thể gọi là nóng, chỉ số VnIndex tăng nhanh liên tục, nhà đầu tư đặt ra những đòi hỏi về tính minh bạch của thị trường, an toàn và hiệu quả đối với khoản đầu tư. Cho nên việc ban hành luật chứng khoán đã đáp ứng kỳ vọng của họ.

Nghiên cứu luật chứng khoán 2006 cho thấy nhà nước đã có tuyến bố khá rõ ràng về chính sách phát triển chứng khoán, nhấn mạnh các vấn đề công khai, minh bạch thông tin, các thủ tục và quy trình mà các chủ thể trên thị trường phải tuân theo, chú trọng tới công tác thanh tra, giám sát thị trường; xử lý, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.

Điểm đột phá trong luật này đó là việc đề cập tới các công cụ tài chính phái sinh đó là quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Điều này thể hiện sự thừa nhận đối với các loại chứng khoán trên, tạo cơ sở ban đầu để hình thành thị trường và tiến hành các giao dịch.

Theo sau luật Chứng khoán 2006, nghị định 14/2007/NĐ-CP cũng được ban hành quy định chi tiết thi hành một số điều của luật chứng khoán. Cùng với đó bộ tài chính có một số thông tư hướng dẫn cụ thể các hoạt động trên TTCK như thông tư hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK, thông tư hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng…Điều này thể hiện nỗ lực của chính phủ trong việc đồng bộ hóa và hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật của mình.

2. Diễn biến trên thị trường ngoại tệ và TTCK thời gian qua

2.1.Thị trường ngoại tệ

Những năm qua, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã rất thành công trong việc điều hành chính sách tỉ giá hối đoái. Trong khi giá trị các đồng tiền so với Đôla Mỹ thay đổi thất thường thì tỉ giá USD/VND vẫn luôn ổn định. Điều này không những góp phần vào sự ổn định hệ thống tài chính trong nước mà còn tạo ra sự ổn định môi trường kinh tế nhất là xuất khẩu.

NHNN đang áp dụng chính sách tỉ giá thả nổi nhưng có sự điều tiết củ Nhà nước. Kể từ năm 1999, NHNN đã duy trì một biên độ biến động hàng ngày là +/-0,25% so với đồng đôla. NHNN can thiệp vào thị trường chủ yếu thông qua các hoạt động trên thị trường mở. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Năm 2000 và 2001, với chính sách khuyến khích xuất khẩu, tiền Đồng (VND) đã bị đánh trượt giá khá mạnh so với đồng đôla, lần lượt là 3,46% và 3,9%. Tuy nhiên, kể từ đó đến nay, mức độ trượt giá hàng năm đã giảm dần.

Tính vào thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2006, một đôla đổi được 16.051 đồng, tăng 137 điểm, tương ứng 0,86% so với đầu năm (15914). Các năm trước đây, tỉ lệ trượt giá của tiền đồng so với đôla như sau: năm 2005, 0,86%; năm 2004, 0,84%; năm 2003, 1,56%; năm 2002, 1.98%.

Tính từ đầu năm 2006 đến 12 tháng 10 năm 2006, mức thấp nhất đạt được là 15901 vào ngày 14 tháng 3, mức cao nhất đạt được là 16.056 vào ngày 29 tháng 9. Mức 16.056 đạt được cũng cao hơn tới 60 điểm so với ngày xảy ra hiện tượng tỉ giá trên thị trường tự do đạt mức trao đổi 17.200 (ngày mùng 9 tháng 5 năm 2006).

Sang đến năm 2007, vào 9-2, giá USD xuống dưới mốc 16.000 đồng sau nhiều ngày tụt giảm, và duy trì như vậy cho đến hết tháng, do nguồn cung ngoại tệ tăng đột biến trong khi lượng tiền đồng từ hệ thống ngân hàng lại không đủ đáp ứng. Tuy nhiên, kể từ 2/3, tỷ giá USD/VND của các ngân hàng chạm mốc 16.001 và liên tiếp tăng từ đó đến nay.

Tuy nhiên, trong mấy tháng cuối năm lại diễn ra tình trạng thừa ngoại tệ ở các NHTM. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng (NH) thương mại liên tục đặt ở mức giá sàn, mức thấp nhất trong biên độ cho phép (+/- 0,5% so với tỷ giá bình quân liên NH) được lý giải bằng tình trạng dư thừa ngoại tệ.

Một lượng lớn vốn ngoại tệ đổ vào nước ta thông qua nhiều kênh như: TTCK, vốn FDI, kiều hối và được quy đổi sang VNĐ tại các NH thương mại. Hiện nay doanh số mua bán ngoại tệ của NH khoảng 100 triệu USD/ngày, trong đó khách hàng bán chủ yếu là DN xuất khẩu và các quỹ đầu tư nước ngoài, khách hàng mua là các DN nhập khẩu và các NH trong nước. Lượng ngoại tệ mua vào lớn hơn lượng ngoại tệ bán ra khoảng vài triệu USD/ngày. Điều này đã làm cho các NH dư thừa ngoại tệ trên thị trường. Bên cạnh đó, hiện nay tâm lý thích giữ USD của người dân đã giảm đi khi nhận thấy việc gửi tiền tiết kiệm dài hạn bằng USD không có lợi bằng tiền đồng.

Lực hút của USD ngày càng kém đi, trong khi các DN vẫn chuộng vay ngoại tệ. Cho dù lãi suất cho vay ngoại tệ có ở mức 6-7%/năm thì DN vay ngoại tệ vẫn có lợi 1-2% so với vay VNĐ. Hai xu hướng ngược chiều này cho thấy các NH đang rơi vào tình trạng thừa ngoại tệ trên kênh mua và bán nhưng lại thiếu ngoại tệ trên kênh huy động và cho vay. Điều này lý giải vì sao trong bối cảnh hiện nay có nhiều NH than thừa ngoại tệ nhưng vẫn có NH công bố tăng lãi suất huy động bằng ngoại tệ.

Để cân bằng trên 2 thị trường này, có ngân hàng lấy ngoại tệ trên thị trường mua bán để giải quyết nhu cầu ngoại tệ trên thị trường cho vay. Tuy nhiên giải pháp lấy tiền đồng mua USD rồi cho vay tiềm ẩn nguy cơ gặp rủi ro cho các NH khi tỷ giá USD/VND biến động. Chẳng hạn, lúc mua USD để cho vay giá USD ở mức 16.078 đồng/USD nhưng sau 3 tháng bán USD lấy tiền đồng thì giá USD rớt xuống 15.900-16.000 đồng/USD, khi đó NH sẽ bị lỗ. Thực tế khi thực hiện giải pháp này nếu NH không bị rủi ro về biến động tỷ giá thì lãi thu được cũng không cao. Do vậy, dù quy định trạng thái ngoại tệ là 30% nhưng thực tế không NH nào dám giữ một lượng ngoại tệ chiếm đến 30% vốn sở hữu của mình.

Trong hai tuần qua từ 7-10 đến 21-10 tỷ giá VND/USD bắt đầu giảm mạnh, việc nắm giữ một lượng lớn ngoại tệ đồng nghĩa với sự thua lỗ. Vì vậy, phần lớn các NH hiện nay không lấy tiền đồng mua ngoại tệ rồi cho vay, mà chủ yếu chọn giải pháp tăng lãi suất huy động USD. Giải pháp lấy tiền đồng mua ngoại tệ rồi cho vay chỉ được thực hiện khi phải đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cấp thiết của bạn hàng. Như vậy, giải quyết bài toán thừa và thiếu ngoại tệ vẫn đang là bài toán khó cho các NH.

Do các doanh nghiệp Việt Nam chỉ yếu dùng đồng USD trong thanh toán nên mỗi khi tỉ giá biến động đều ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Nên việc có những công cụ tài chính giúp doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro về tỉ giá là hết sức cần thiết. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

2.2.Thị trường chứng khoán

Các nhà hoạch định, chuyên gia kinh tế và những người chơi chứng khoán nghiệp dư hoặc đơn giản là một người dân cũng đều thấy rằng “ Thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua (cuối năm 2006 đầu năm 2007) phát triển quá nhanh và đầy biến động, đánh dấu một năm quan trọng trong sự trở mình đầy biến động của kinh tế nước nhà.

Bắt đầu ra mắt và hoạt động trên thị trường Việt Nam, cho đến nay TTCK đã trải qua 7 năm hoạt động, tuy nhiên chỉ thực sự rầm rộ và đáng kể, sôi động nhất thì phải kể đến năm vừa qua, đặc biệt là những tháng cuối của năm 2006. Chỉ số của thị trường chứng khoán Việt Nam tăng 85% trong hai năm 2004- 2005 và tăng vọt 145% vào năm 2006. Nhưng trong 6 tháng đầu của năm 2007 chỉ số này chỉ tăng được 35%. Phân tích kỹ hơn, có thể thấy rằng vào cuối tháng 1 và đầu tháng 2- 2007, chỉ số của thị trường chứng khoán Việt Nam trong vòng một tuần lễ đã tăng gần 100 điểm từ 974.76 vào ngày 26-01-2007 nhẩy vọt lên đến 1,074.55 vào ngày 02-02-2007. Trong 2 phiên giao dịch cuối năm Bính Tuất (14-15.2.2006), chỉ số Hastc-Index tăng gần 25 điểm – mức tăng kỷ lục tại Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội và VNIndex tăng 10,06 điểm sau phiên ngày 15.2.2006.

Bước sang một giai đoạn mới, chứng khoán Việt Nam được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh rất đa dạng, những phiên giao dịch tiếp theo của năm 2007, các chỉ số Index liên tiếp không ngừng tăng đột biến, biểu hiện rõ nét ở 2 sàn CK của Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Khép lại năm 2006 với phiên giao dịch cuối cùng ngày 29/12, VNIndex đã tăng 166,39%. Mức tăng này của năm 2006 được cho là khá cao nhưng cũng ở thời điểm đó các chuyên gia chứng khoán đã nhận định sẽ còn tiếp tục nóng trong các tháng đầu năm 2007 trước khi thị trường có thể ổn định hơn. Và đúng như dự báo, trong gần ba tháng qua, ở sàn TPHCM, VNIndex đã tăng thêm hơn 45%; ở sàn Hà Nội, HASTC-Index đã tăng thêm đến 77%. Trong ba tháng qua, thị trường cũng chứng kiến VN-Index đã có lúc vọt lên mức 1.170,67 điểm (phiên ngày 12/3) – mức cao nhất của thị trường tính đến nay. Khối lượng và giá trị giao dịch khớp lệnh của thị trường tăng khá nhanh. Nếu như trong các phiên giao dịch cuối năm 2006, khối lượng mỗi phiên thường xuyên vào khoảng 5-6 triệu chứng khoán với giá trị khoảng 500 tỉ đồng thì hiện tại khối lượng giao dịch khớp lệnh bình quân 10 -11 triệu chứng khoán với giá trị trên dưới 1.000 tỉ đồng. Sự chênh lệch về cung cầu vẫn là yếu tố được nhắc đến đầu tiên trong những lời bình luận về sức nóng của thị trường vào các tháng đầu năm nay.

Tính từ tháng 1/2007 cho đến nay, số lượng nhà đầu tư mới gia nhập thị trường ngày càng nhiều hơn. Theo Trung tâm Giao dịch chứng khoán TPHCM, hiện tại đã có hơn 150.000 tài khoản giao dịch chứng khoán, tăng thêm gần 50% so với cuối năm 2006. Số lượng nhà đầu tư đông thêm đã kéo theo lượng cầu tăng mạnh, hơn nữa phần lớn lại chỉ tập trung vào các chứng khoán được đánh giá cao khiến càng tạo thêm căng thẳng về cung cầu dù rằng vào cuối năm 2006 hàng hóa trên thị trường đã gia tăng đáng kể với hàng loạt các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Theo nhận định giới quan sát, tính trong ba tuần đầu tiên của tháng 32007, thị trường có vẻ đang được duy trì ở trạng thái cân bằng. Giá chứng khoán có sự tăng giảm (đường biểu diễn VN-Index đang đi theo hình răng cưa) nhưng các phiên giao dịch trên thị trường có xu hướng giảm. Một vài chuyên gia nhận định, thị trường đang có dấu hiệu chuyển qua một chu kỳ giảm giá sâu với mức giảm dự báo có thể 15-30%. Tuy nhiên, chu kỳ này có thể không kéo dài vì nhu cầu của nhà đầu tư vẫn lớn, mặt khác nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển khá ổn định. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Tuy nhiên phiên ngày 13/4, só lượng và khối lượng cổ phiếu giao dịch trên toàn bộ thị trường chứng khoán tụt giảm mạnh. Một số nhà đầu tư có kinh nghiệm cho rằng chính những quỹ đầu tư nước ngoài đang mong muốn thị trường đi xuống để họ có thể mua được cổ phiếu với giá chấp nhận được, khi đầu tư dài hạn vào cổ phiếu của những ngân hàng thương mại, các tập đoàn, tổng công ty lớn đang chuẩn bị đấu giá cổ phiếu lần đầu, với số lượng cổ phiếu lớn nhất từ trước đến nay, tổng trị giá có thể lên tới 50.000 tỷ đồng (tương đương hơn 3 tỷ USD).

Tại sàn Tp.HCM, chỉ số VN-Index giảm mạnh so phiên trước, xuống mức 1.012,98 điểm, giảm 14,60 điểm. Báo giá trên bảng điện tử phần lớn các cổ phiếu giảm giá trong đợt khớp lệnh thứ 3, kết thúc phiên giao dịch có 87 cổ phiếu giảm giá, trong đó có đến 44 cổ phiếu giảm giá sàn, chỉ có 11 cổ phiếu tăng giá, không có cổ phiếu nào tăng giá trần, 2 chứng chỉ quỹ cũng giảm giá.

Điều đó thể hiện thị trường chứng khoán Việt Nam đã và đang diễn biến hết sức bất thường.

Trong năm 2006 và quý 1/2007, thị trường tăng trưởng mạnh, nhưng từ tháng 4/2007 đến nay biến động liên tục.

Chỉ số VN-Index đã tăng hơn 200% từ đầu năm 2006 đến cuối tháng 3/2007. Chỉ số VN-Index tháng 11/2006 đạt 660 điểm, thì lên tới đỉnh cao là ngày 12/3/2007 đã đạt 1.170 điểm và đến cuối tháng 3/2007 vẫn đạt trên 1.100 điểm. Đây là khoảng thời gian VN-Index cao nhất trong gần 7 năm hoạt động của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM.

Song từ đầu tháng 4/2007, VN-Index bắt đầu giảm mạnh. Thời điểm giảm xuống đáy là ngày 24/4/2007: giảm xuống còn 904 điểm. Sau những diễn biến bất thường, VN-Index xoay quanh mức 1.000 điểm. Trong tháng 7/2007 liên tục nhiều phiên giảm xuống dưới 1.000 điểm.

Tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội, chỉ số HASTC-Index cuối tháng 12/2006 còn dừng ở mức 242,89 điểm, thời điểm đỉnh cao là ngày 9/3/2007 đã tăng lên trên 450 điểm, tăng gấp gần 2 lần chỉ trong có 3 tháng, nhưng đến ngày 2/7/2007 giảm còn 256,3 điểm. Trong tháng 7/2007, có một số ngày chỉ số HASTC-Index lên tới mức 300 điểm, sau đó chủ yếu là ở mức dưới 300 điểm.

Từ đầu tháng 4/2007 đến nay, thị trường OTC gần như đóng băng, giá cổ phiếu giảm mạnh. Giá cổ phiếu bình quân trên thị trường OTC giảm tới 40%. Thậm chí giá cổ phiếu một số ngân hàng thương mại cổ phần giảm tới 50%. Mặc dù từ trung tuần tháng 7/2007 thị trường OTC có dấu hiệu được giao dịch trở lại, nhưng giá vẫn ở mức thấp.

Có nhiều khuyến cáo cho rằng cổ phiếu Việt Nam đang phát triển không thường.

Ví dụ: Theo gia chuyên kinh tế về lĩnh vực tài chính của Ngân hàng

Thế giới tại Hà Nội, ông Noritaka Akematsu: “Hiện đang có sự phấn khích quá mức mà theo đó vượt quá khuôn khổ của thị trường, vượt quá sự kiểm soát của cơ quan điều tiết vào thời điểm này”.

Đại đa số những tư nhân mua chứng khoán lại không hiểu biết về thị trường và chỉ nhắm vào lợi nhuận trong ngắn hạn. Phần lớn kinh doanh theo tin đồn hày tâm lý đám đông. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giá cổ phiếu tăng giảm thất thường. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Mặt khác, những báo cáo tài chính của các công ty cổ phiếu chưa đủ độ tin cậy và đơn giản để cung cấp  thông tin cho các nhà đầu tư Việt Nam.

Ngoài ra, những công ty ghi danh bán chứng khoán chỉ đệ nap phúc trình tài chính cho UBCKNN. Phải mất vài ngày những phúc trình này mới được công bố ra ngoài. Trong thời gian chờ đợi những nhân viên phụ trách môi giới chứng khoán này có thể sử dụng tin tức trong các bản phúc trình để mua bán chứng khoán cho chính mình. Trên thực tế đây chính là một hình thức mua bán nhờ thông tin nội bộ.

Trầm trọng hơn là hiện tượng lũng đoạn thị trường chứng khoán bởi những “đại gia” từ cuối năm 2005. Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước chỉ ghi nhận sự kiện này mà không đưa ra biện pháp nào cả.

Một yếu điểm khác của thị trường chứng khoán Việt Nam là các công ty Việt Nam thường phát hành quá nhiều cổ phiếu làm cho tỉ lệ EPS thấp xuống đến 10% mà không cân nhắc lợi hại. (Nguyên tắc là các công ty chỉ nên phát hành thêm cổ phiếu khi việc kinh doanh phát triển ổn định.)

Hiện nay tại Việt Nam không một công ty nào ghi danh với thị trường chứng khoán được kiểm toán bởi một công ty quốc tế, chỉ có 11 công ty kiểm  toán địa phương được phép hoạt động. Phần lớn các công ty kiểm toán Việt Nam còn chưa phát triển, mức độ tin cậy thấp và kém minh bạch. Những báo cáo tài chính do những công ty này soạn thảo cần được kiểm định chi tiết và đầy đủ trước khi được công bố.

Có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam là một thị trường non trẻ, đang trong giai đoạn phát triển, chưa ổn định, là một thị trường có nhiều biến động thất thường và nhiều rủi ro. Trong khi đó, TTCK Việt Nam còn thiếu nhiều các công cụ tài chính và vai trò của môi giới chứng khoán cũng chưa thực sự được phát huy. Vì vậy, khi thị trường tụt dốc, hàng loạt cổ phiếu giảm giá thì các nhà đầu tư phải gánh chịu mọi rủi ro. Nói một cách khác, việc đầu tư của họ chịu tác động rất lớn từ sự biến động của thị trường nhưng họ lại không thể chủ động hạn chế rủi ro. Vì vậy việc sử dụng các công cụ tài chính như hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai để giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư là một tất yếu.

II. Tình hình áp dụng HĐ tương lai và HĐ quyền chọn trên thị trường ngoại tệ và TTCK tại Việt Nam Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

1. Môi trường pháp lý cho việc áp dụng hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn trên thị trường ngoại tệ và chứng khoán tại Việt Nam

Trong xu thế chung về tự do hoá thương mại và đầu tư quốc tế đang diễn ra ngày một mạnh mẽ, Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác đều coi việc tham gia vào tiến trình hội nhập là vấn đề có tính chiến lược. Trong đó phát triển thị trường ngoại hối giữ vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời đây cũng là nhân tố thúc đẩy sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia.

Nhận thức được vai trò quan trọng của việc phát triển thị trường ngoại hối, ngay từ năm 1998, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định 17/1998/QĐNHNN7 ngày 10/01/1998 ban hành Quy chế giao dịch hối đoái (Quyết định 17). Quy chế này đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian qua. Nhờ Quy chế này mà các giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tín dụng (TCTD) đã được thực hiện trôi chảy, đảm bảo các nguồn ngoại tệ được luân chuyển linh hoạt, phục vụ kịp thời các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Tuy nhiên, sau gần 7 năm đi vào hoạt động, Quyết định 17 đã bộc lộ một số tồn tại chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường ngoại hối. Cụ thể như vấn đề cấp giấy phép giao dịch kỳ hạn, hoán đổi phần nhiều còn mang tính hình thức; các loại hình giao dịch còn đơn giản; vấn đề thu phí trong mua bán ngoại tệ chưa hợp lý; các điều khoản trong hợp đồng quá chi tiết và không còn phù hợp với cơ chế lãi suất thoả thuận, hạn chế quyền tự chủ của TCTD và khách hàng; các vấn đề về chứng từ trong giao dịch chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong quá trình thực hiện…

Chính vì vậy, ngày 10/11/2004, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối (Quyết định 1452) thay thế Quyết định 17 khắc phục những hạn chế nói trên và nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam. Nhìn chung, Quyết định 1452 đã thể hiện một sự đổi mới trong tư duy quản lý của Ngân hàng Nhà nước thông qua việc đề cao tính tuân thủ thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các công cụ thị trường phát triển và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh của các TCTD và khách hàng. Điều này thể hiện ở một số điểm mới nổi bật trong Quyết định.

Thứ nhất là cho phép bổ sung thêm loại hình giao dịch quyền lựa chọn tiền tệ, giúp khách hàng có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh. Sau 1 năm thí điểm, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tính hiệu quả của giao dịch quyền lựa chọn trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Do vậy, quyền lựa chọn sẽ là một giao dịch tiềm năng tại thị trường Việt Nam trong thời gian tới, đặc biệt khi đã được chính thức đưa vào thực hiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, quyền lựa chọn mới được thực hiện giữa các ngoại tệ để đảm bảo tính an toàn trong giao dịch (do có khả năng thực hiện giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro với nước ngoài). Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Thứ hai là không quy định chi tiết kỹ thuật tác nghiệp từng giao dịch mà chỉ nêu định nghĩa của giao dịch. Kỹ thuật giao dịch sẽ được các TCTD hướng dẫn khách hàng và thực hiện theo thông lệ quốc tế.

Thứ ba là chỉ đặt ra nguyên tắc chung cho phương thức giao dịch, thoả thuận hợp đồng, xử lý vi phạm… nhằm đề cao tính tự chủ của TCTD và khách hàng trong quá trình giao dịch.

Thứ tư là quy định rõ trường hợp cần chứng từ khi thực hiện giao dịch hối đoái, song không quy định chi tiết từng chứng từ cần thiết mà chỉ nêu nguyên tắc của chứng từ hợp pháp để đề cao trách nhiệm của các TCTD. Đặc biệt trong phần chứng từ, Quyết định 1452 đã tháo gỡ các vướng mắc cho giao dịch hoán đổi, chuyển đổi ngoại tệ (cho phép thực hiện không cần chứng từ) để tăng khả năng chu chuyển ngoại tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế.

Thứ năm là mở rộng phạm vi giao dịch (cho phép làm kỳ hạn và quyền lựa chọn) cho đối tượng khách hàng là tổ chức khác và cá nhân nhằm tạo thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các đối tượng này, đồng thời khuyến khích khách hàng bán ngoại tệ cho ngân hàng với mức tỷ giá kỳ hạn linh hoạt hơn. Bỏ giấy phép kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn tiền tệ đối với các TCTD được phép hoạt động ngoại hối cũng được xem là một điểm mới thứ sáu trong Quyết định này phù hợp với xu thế chung xoá bỏ bớt các loại giấy phép con trong quản lý kinh tế.

Vì đây là một nghiệp vụ còn rất mới nên để đảm bảo tính thận trọng và đáp ứng yêu cầu quản lý, NHNN quy định tỷ giá thực hiện (Exercise Price) trong hợp đồng quyền chọn USD/VND không vượt quá tỷ giá kỳ hạn cùng thời hạn, trong khi tỷ giá thực hiện trong hợp đồng quyền chọn giữa các ngoại tệ chuyển đổi khác USD với VND do tổ chức tín dụng và khách hàng tự thoả thuận. Mức phí Option trong hợp đồng Option giữa ngoại tệ và VND được tính bằng đồng Việt Nam (đồng/1 đơn vị ngoại tệ), do ngân hàng và khách hàng tự quyết cho mỗi hợp đồng cụ thể. Tuỳ theo dự đoán của ngân hàng về biến động tỷ giá trong tương lai và với từng mức tỷ giá mua/bán cam kết trong hợp đồng Option, mỗi ngân hàng sẽ định ra những mức phí Option cạnh tranh khác nhau. Thời hạn giao dịch của mỗi hợp đồng Option là từ 3 đến tối đa là 365 ngày, kiểu Option được thực hiện theo thông lệ quốc tế, tức là cả kiểu châu Âu và kiểu Mỹ.

Đối tượng được phép thực hiện các giao dịch Option tiền đồng hiện nay là các tổ chức tín dụng ở Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ Option tiền đồng và các cá nhân, tổ chức kinh tế hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, để đảm bảo tính quản lý và phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành, các cá nhân và tổ chức kinh tế chỉ được phép tham gia nghiệp vụ Option với tư cách là bên mua trong Hợp đồng Quyền chọn, tức là được phép mua Hợp đồng Quyền chọn mua (Call Option) và mua Hợp đồng Quyền chọn bán (Put Option), chứ không được bán các Hợp đồng Quyền chọn mua hay Quyền chọn bán. Đặc biệt, để ngăn ngừa hành động đầu cơ và tích trữ ngoại tệ trái phép không có lợi cho nền kinh tế, NHNN cũng quy định rõ, khách hàng là cá nhân và tổ chức kinh tế khi ký hợp đồng mua Quyền chọn mua ngoại tệ và khi thực hiện quyền mua này phải xuất trình chứng từ chứng minh nhu cầu thanh toán ngoại tệ theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối. Còn các TCTD nếu được NHNN cho phép thí điểm nghiệp vụ này thì có thể thực hiện cả hai nghiệp vụ mua và bán với khách hàng và với các TCTD đã được NHNN cho phép thực hiện thí điểm. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Tuy nhiên, nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình các thành viên thị trường bước đầu thí điểm làm quen với nghiệp vụ này, NHNN giới hạn trạng thái mở của những hợp đồng Option tiền đồng chưa thực hiện trong phạm vi (quy USD) là +/- 8 triệu USD; tổng giám đốc các ngân hàng được phép thực hiện thí điểm xem xét để quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình khi thực hiện nghiệp vụ Option tiền đồng. Trong quá trình thực hiện, nếu phát sinh những khó khăn, vướng mắc vượt quá thẩm quyền giải quyết của các ngân hàng, cần báo về NHNN để phối hợp xử lý.

Với những đổi mới trên, Quyết định 1452 đã mang lại không khí mới cho thị trường ngoại hối Việt Nam, hỗ trợ từng bước cho sự phát triển và hội nhập với thông lệ quốc tế của thị trường ngoại hối Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Ngoài ra, hiện nay chính phủ cũng chưa có những qui định cụ thể rõ ràng nào về 2 loại hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Hai thuật ngữ này cũng chỉ được nhắc đến trong mục 7, 8- Điều 6- Luật chứng khoán 2006. Với mục tiêu đến năm 2020 thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương với các nước trong khu vực, tại Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Theo đề án, một trong những giải pháp trước mắt là đẩy mạnh chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp, tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước; gắn việc cổ phần hóa với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị trường; đồng thời phát triển các loại chứng khoán phái sinh như quyền chọn mua, quyền chọn bán chứng khoán, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, các sản phẩm liên kết…

Đây là định hướng và tầm nhìn hoàn toàn đúng đắn để phát triển thị trường vốn Việt Nam trong những năm tới, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các công cụ phái sinh trên thị trường này.

2. Thực trạng triển khai hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn tại Việt Nam 

Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được thực hiện. Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN (Quyết định số 1133/2003/QĐ – NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Đồng thời số lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện    (trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số tổ chức tín dụng đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện:

  • Ngân hàng Citibank thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006.
  • Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa 2 đồng tiền (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ;thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng- lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa nào đó…
  • Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc Euro. Đối tác thực hiện giao dịch quyền chọn lãi suất là các doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam, các NHTM hoạt động tại Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất và các ngân hàng nước ngoài. Số gốc của hợp đồng quyền chọn lãi suất tối đa bằng 15% vốn tự có của NHĐT&PT. Tổng số là hợp đồng trong thời gian thí điểm không vượt quá 50% mức vốn tự có của ngân hàng. Thời hạn hợp đồng không quá 5 năm; thực hiện nghiệp vụ tiền gửi kết hợp quyền chọn tiền tệ – Dual currency Deposit; thực hiện hoán đổi tiền tệ chéo. Đó là việc trao đổi các dòng tiền trong tương lai bằng các đồng tiền khác nhau. Trong các giao dịch hoán đổi chéo thường có việc hoán đổi thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền sang thanh toán lãi (cố định hoặc thả nổi) bằng một đồng tiền khác. Số tiền gốc trong giao dịch có thể được hoán đổi vào kỳ đầu (nếu có) và kỳ cuối, hoặc nhiều kỳ trong thời gian hiệu lực của giao dịch. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.
  • Ngân hàng ngoại thương thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất kèm theo điều kiện quyền chọn với các đối tác là tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và các pháp nhân khác hoạt động ở trong nước và nước ngoài, phù hợp với các qui định của pháp luật. Quyền chọn thuộc về Ngân hàng ngoại thương là quyền kết thúc trước hạn hợp đồng Swap đối với các khoản vay của Bộ tài chính.
  • Ngân hàng HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn – Daily range accrual, thời hạn của hợp đồng tối đa 5 năm. Theo thoả thuận hoán đổi này, khách hàng vay của HSBC sẽ trả Sibor (Singapore Interbank Offered Rate) cộng với phần chênh lệch và tổng lãi suất phải trả này không vượt quá mức lãi suất cao nhất đã được định trước. Đổi lại HSBC sẽ trả Sibor cộng với phần chênh lệch cho những ngày lãi suất Sibor giao động trong một khoảng được định trước. Cụ thể, hợp đồng này thoả thuận giữa khách hàng vay vốn với thời hạn 6 năm lãi suất thả nổi. Nếu đến ngày đáo hạn lãi suất Sibor không vượt quá mức lãi suất xác định trước (4,5%/năm ) thì HSBC sẽ trả lãi suất cho khách hàng với mức lãi suất (Sibor + 1,1% ). Trường hợp vượt mức lãi suất định trước, thì HSBC không phải trả mức lãi suất này. Đổi lại, khách hàng sẽ trả cho HSBC mức lãi suất (Sibor + 0,6%), nhưng tối đa không vượt quá 5,1%/ năm; thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền.
  • Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện thí điểm NHTMCP Quốc tế), ngân hàng Ngoại Thương (8/2005); NHTM cổ phần Á Châu, ngân hàng Đầu tư và Phát triển, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội (12/2005).
  • Ngân hàng Calyon, Citibank, ABN-AMRO thực hiện nghiệp vụ hoán đổi lãi suất bắt đầu thực hiện trong tương lai (Forward Start Swap)- là thoả thuận để tham gia giao dịch hoán đổi lãi suất vào một ngày cụ thể trong tương lai theo một mức lãi suất đã được định trước.
  • Cho phép ngân hàng TMCP kỹ thương thực hiện giao dịch hợp đồng tương lai trên thị trương hàng hoá (9/2004);Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ…

Như vậy mới chỉ có hợp đồng quyền chọn được phép áp dụng trên thị trường ngoại tệ. Hợp đồng tương lai hiện nay mới chỉ được triển khai trên thị trường hàng hoá còn trên thị trường ngoại tệ vẫn chưa được thực hiện.

Hiện nay các ngân hàng Vietcombank, Techcombank, Eximbank, ACB,… là những ngân hàng đang được phép hoạt động kinh doanh quyền chọn ngoại tệ. Tuỳ thuộc vào từng ngân hàng mà có những điều khoản hấp dẫn khách hàng khác nhau tuy nhiên đều có những điểm chung sau đây:

  • Đối tượng tham gia: Cá nhân hoặc tổ chức kinh tế hoạt động tại Việt Nam
  • Đồng tiền giao dịch: chủ yếu là các ngoại tệ mạnh chủ chốt như USD, EUR, JPY, CHF, GBP, AUD, CAD, SGD và
  • Tỷ giá: tỷ giá thực hiện (Exercise Price) trong hợp đồng quyền chọn USD/VND không vượt quá tỷ giá kỳ hạn cùng thời hạn, trong khi tỷ giá thực hiện trong hợp đồng quyền chọn giữa các ngoại tệ chuyển đổi khác USD với VND do tổ chức tín dụng và khách hàng tự thoả thuận. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.
  • Thời hạn giao dịch: tối thiểu là 3 ngày và tối đa là 365 ngày
  • Khối lượng giao dịch: Đối với nghiệp vụ quyền chọn USD/VND thì tối thiểu là 10,000USD (mười nghìn USD) . Đối với nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ khác với VND số lượng tối thiểu tương đương 100,000USD
  • Xuất trình chứng từ: Khách hàng mua ngoại tệ bằng VND thông qua việc thực hiện hợp đồng Option với quyền chọn mua vào ngày đáo hạn hợp đồng phải xuất trình chứng từ thanh toán cho Ngân hàng theo các quy định quản lý ngoại hối hiện hành. Đối với các hợp đồng Option giữa ngoại tệ với ngoại tệ, không yêu cầu xuất trình chứng từ thanh toán.

Thực hiện hợp đồng:

Ghi có tài khoản:Trường hợp khách hàng yêu cầu Ngân hàng thực hiện hợp đồng Option, Ngân hàng sẽ chuyển tiền vào tài khoản của khách hàng sau khi khách hàng đã thanh toán đầy đủ cho Ngân hàng.

Thanh toán bù trừ:

Trường hợp khách hàng muốn hưởng chênh lệch giá, Ngân hàng sẽ thực hiện chi trả khoản tiền chênh lệch giá dựa trên tỷ giá thời điểm do ngân hàng niêm yết hai chiều (gồm giá mua và giá bán) để bù trừ giao dịch Option ngoại tệ cho khách hàng.

Trên thị trường chứng khoán, một số các công ty chứng khoán như công ty Chứng khoán Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCBS), công ty Cổ phần Chứng khoán Quốc tế Việt Nam (VIS) đã đưa ra các dịch vụ về hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn trên website của công ty, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có vẫn chưa có văn bản pháp qui hướng dẫn hai loại hợp đồng này trên thị trường chứng khoán nên những thông tin về hai loại dịch vụ này trên website cũng chỉ mang tính chất quảng cáo.

Qua thống kê trên cho thấy, thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường còn thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. Bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi còn quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các nghiệp vụ phái sinh được xem như lá chắn quan trọng để hạn chế rủi ro cuả thị trường đối với những nhà đầu tư. Vì vậy phát triển thị trường phái sinh là rất cần thiết hiện nay.

3. Hạn chế Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

3.1.Đối với thị trường ngoại tệ

  • Về mặt pháp lý

Hiện nay chưa có những qui định cụ thể rõ ràng cho việc thực hiện hai loại hợp đồng này. Nghiệp vụ option chỉ được chính thức đưa vào vận hành trên thị trường ngoại hối Việt Nam kể từ khi Thống đốc NHNN ban hành Quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN ngày 10/11/2004 về các giao dịch hối đoái nhằm tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các giao dịch ngoại tệ, trong đó đặc biệt bổ sung thêm loại hình giao dịch mới là giao dịch Quyền lựa chọn tiền tệ giữa các loại ngoại tệ với nhau. Nhưng đây cũng chỉ là những chỉ thị chung chung mang tính chất định hướng. Từ đó cho tới nay vẫn chưa có một quyết định cụ thể hơn hướng dẫn nào khác.

Đối tượng được phép thực hiện các giao dịch Option tiền đồng hiện nay là các tổ chức tín dụng ở Việt Nam được NHNN cho phép thực hiện thí điểm nghiệp vụ Option tiền đồng và các cá nhân, tổ chức kinh tế hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, để đảm bảo tính quản lý và phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối hiện hành, các cá nhân và tổ chức kinh tế chỉ được phép tham gia nghiệp vụ Option với tư cách là bên mua trong Hợp đồng Quyền chọn, tức là được phép mua Hợp đồng Quyền chọn mua (Call Option) và mua Hợp đồng Quyền chọn bán (Put Option), chứ không được bán các Hợp đồng Quyền chọn mua hay Quyền chọn bán. Đặc biệt, để ngăn ngừa hành động đầu cơ và tích trữ ngoại tệ trái phép không có lợi cho nền kinh tế, NHNN cũng quy định rõ, khách hàng là cá nhân và tổ chức kinh tế khi ký hợp đồng mua Quyền chọn mua ngoại tệ và khi thực hiện quyền mua này phải xuất trình chứng từ chứng minh nhu cầu thanh toán ngoại tệ theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối. Còn các TCTD nếu được NHNN cho phép thí điểm nghiệp vụ này thì có thể thực hiện cả hai nghiệp vụ mua và bán với khách hàng và với các TCTD đã được NHNN cho phép thực hiện thí điểm.

Hợp đồng tương lai trên thị trường ngoại tệ thì hiện nay vẫn chưa có một cơ sở pháp lý nào hướng dẫn thực hiện nên vẫn chỉ trong ý tưởng và dậm chân tại chỗ.

  • Về phía doanh nghiệp

Vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa có kiến thức, cũng như hiểu rõ về hai loại hợp đồng này để có thể sử dụng chúng như một công cụ giảm thiểu rủi ro hay đầu tư sinh lợi. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Mặc dù vậy, nghiệp vụ Option ngoại tệ chủ yếu đáp ứng nhu cầu phòng ngừa rủi ro tỷ giá và bảo toàn nguồn vốn trong trường hợp chủ thể giao dịch có hoặc sẽ có các hợp đồng kinh doanh thực hiện bằng nhiều loại ngoại tệ khác nhau, tức là có nhu cầu chuyển đổi giữa các loại ngoại tệ hoặc các đối tượng có phương tiện, nghiệp vụ và được phép kinh doanh kiếm lời từ chênh lệch tỷ giá thông qua việc chuyển đổi ngoại tệ. Thế nhưng, trên thực tế, phần lớn doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu chỉ hoạt động trên một mảng thị trường và thường là một chiều, chứ không phải nhiều chiều (chỉ chuyên nhập khẩu hoặc xuất khẩu, ít doanh nghiệp vừa nhập vừa xuất). Nói cách khác, nhu cầu thanh toán, chi trả, hay sử dụng nguồn thu của họ chủ yếu dựa trên các giao dịch giữa một cặp đồng tiền, bao gồm một đồng ngoại tệ tự do chuyển đổi như USD, Euro hay Yên Nhật và VND.

Chẳng hạn, các doanh nghiệp Việt Nam thường dùng VND để mua ngoại tệ theo hình thức giao ngay, kỳ hạn… đáp ứng cho các nhu cầu thanh toán cho nước ngoài đối với việc nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ hoặc thuê tư vấn, hoặc các doanh nghiệp xuất khẩu thường sẽ bán nguồn thu từ ngoại tệ để lấy tiền Việt mua nguyên liệu sản xuất, kinh doanh trong nước rồi lại xuất sản phẩm ra nước ngoài. Nếu một doanh nghiệp biết trước họ sẽ phải chi trả một khoản ngoại tệ hay sẽ thu được một lượng ngoại tệ vào một ngày nào đó trong tương lai, thì họ sẽ rất lo lắng, không biết tỷ giá đến lúc đó có biến động đến mức gây thiệt hại cho mình hay không. Chính vì vậy, doanh nghiệp rất cần một công cụ giúp phòng chống rủi ro trong lĩnh vực này. Do đó, việc tiến tới cho phép thực hiện nghiệp vụ Option và Future giữa ngoại tệ và VND là hết sức cần thiết.

  • Về phía các nhà cung cấp dịch vụ

Các nhà cung cấp dịch vụ hợp đồng quyền chọn và tương lai hiện nay chỉ là các NHTM. Tuy nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ của các ngân hàng thương mại còn thiếu và quá lạc hậu. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam đều chưa có thiết bị giao dịch trực tuyến phục vụ hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Điều này làm cho thị trường mất đi tính linh hoạt và nhạy bén vốn có của nó.

Hiện nay, nguồn nhân lực đáp ứng được nhu cầu của các nhà cung cấp dịch vụ (cụ thể là các ngân hàng thương mại) có thể thực hiện nhanh chóng, chính xác các giao dịch trong hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tương lai còn rất yếu và thiếu. Hầu hết các nhân viên ngân hàng cũng chỉ mới biết đến hai loại hình giao dịch này tại Việt Nam  trong 3 đến 5 năm trở lại đây. Hơn nữa điều kiện tiếp xúc với hai loại hình giao dịch này tại Việt Nam hiện nay cón  rất hạn chế.

  • Các trở ngại trong quá trình thực hiện Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Trong thời gian trước mắt, thị trường giao dịch Option tiền đồng ở Việt Nam còn rất hẹp do mới chỉ có một số ngân hàng có đề nghị và được NHNN chấp thuận cho thực hiện thí điểm nghiệp vụ Option tiền đồng. Điều này phần nào gây khó khăn cho các ngân hàng thí điểm trong việc hạn chế rủi ro bằng cách thực hiện các giao dịch đối ứng với các ngân hàng khác. Do tiền Việt Nam chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi nên các ngân hàng thí điểm này không thể tìm kiếm được đối tác là các ngân hàng nước ngoài để thực hiện giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro cho các hợp đồng Option giữa ngoại tệ với VND ở trong nước như với các hợp đồng Option giữa các loại ngoại tệ. Vì vậy, việc mở rộng các thành viên được quyền tham gia giao dịch trên thị trường Option tiền đồng, cụ thể là các ngân hàng được thực hiện thí điểm nghiệp vụ này, là hết sức cần thiết.

Mặt khác, đối với việc thực hiện nghiệp vụ quyền chọn USD/VND thì các NHTM phải đăng ký xin phép Ngân hàng Nhà nước. NHNN sẽ cho phép các NHTM được kinh doanh các hợp đồng quyền chọn trong một khoảng thời gian nhất định và hết thời hạn này nếu vẫn muốn tiếp tục cung cấp dịch vụ quyền chọn ngày thì phải xin phép tiếp.

3.2.Đối với thị trường chứng khoán 

  • Thị trường vẫn ở giai đoạn đầu, chưa hoàn chỉnh

Xét về tuổi đời, thị trường chứng khoán Việt Nam có thể nói là thị trường non trẻ nhất thế giới. Xét về quy mô, thị trường này là thị trường chứng khoán nhỏ bé nhất thế giới. Phiên giao dịch đầu tiên trên thị trường chính thức diễn ra vào ngày 28/6/2000. Kể từ đó, thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua khoảng thời gian 5 năm hoạt động hết sức trì trệ, chỉ số VnIndex tăng chậm chạp, các nhà đầu tư chưa chú trọng tới thị trường chứng khoán như một kênh đầu tư hiệu quả. Từ giữa 2006 thị trường đạt được mức tăng trưởng rất ấn tượng đưa chỉ số VnIndex nhanh chóng vượt ngưỡng 1000 điểm vào đầu năm 2007. Hiện tại thị trường đang trong thời kỳ điều chỉnh sau một giai đoạn tăng trưởng khá nóng. Nhìn chung thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá có tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên, những điều kiện thị trường cho việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh nói chung và thị trường quyền chọn nói riêng còn rất hạn chế.

  • a.1)  Cung hàng hóa

Từ ngày giao dịch đầu tiên với 2 cổ phiếu REE và SAM, qua 7 năm đến nay tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh mới chỉ có 121 cổ phiếu, 2 chứng chỉ quỹ và gần 407 trái phiếu niêm yết; con số trên ở sàn Hà Nội chỉ là 92 cổ phiếu và 195 trái phiếu (tính đến ngày 29-10-2007). Sự lựa chọn cho danh mục đầu tư của các nhà đầu tư tương đối hạn chế. Càng nhiều chứng khoán được niêm yết thì nhà đầu tư càng có thể dễ dàng đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân tán rủi ro rộng hơn. Mặt khác, càng có nhiều chứng khoán, thì các bên càng được tự do thỏa thuận ký với nhau các hợp đồng mua bán quyền chọn. Các chứng khoán phái sinh bắt nguồn từ cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ, cho nên việc có ít chứng khoán niêm yết đã hạn chế tới khả năng phát hành các công cụ tài chính này. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Các chứng khoán phái sinh trong đó có quyền chọn mua, bán thường được ký kết trên cơ sở chứng khoán gốc là các chứng khoán lớn, trong khi trên thị trường chứng khoán Việt Nam đa số cổ phiếu là của các công ty nhỏ. Trong số 121 công ty niêm yết trên sàn TPHCM, trừ cổ phiếu của các ngân hàng, chỉ có 1 vài công ty có vốn điều lệ trên 500 tỷ đồng Việt Nam như FPT, Vinamilk, Nhiệt điện Phả Lại.

Số lượng cổ phiếu do đó không phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng tới việc phát hành quyền chọn. Bởi vì cộng cả 3000 cổ phiếu trên thị trường phi tập trung (theo thống kê không chính thức) thì số lượng cổ phiếu cơ sở đã là tương đối lớn. Tuy nhiên các nhà đầu tư các cổ phiếu nhỏ thường không dùng quyền chọn là một công cụ phòng ngừa rủi ro.

Thêm vào đó, người bán quyền chọn có vùng lỗ rất lớn khi họ bắt buộc phải thực hiện hợp đồng khi đến hạn dù tình hình thị trường lúc đó có thuận lợi hay không, còn người nắm quyền có thể tùy tình hình thị trường mà quyết định thực hiện hay không thực hiện hợp đồng. Hơn thế giao dịch quyền chọn là một giao dịch rất khó thực hiện, để có lợi nhuận cần có các công cụ tính toán, công cụ giao dịch đòi hỏi đầu tư lớn. Vì vậy, về bản chất hợp đồng quyền chọn có thể được ký kết giữa bất kỳ 2 bên nào thỏa thuận, nhưng cho tới nay chưa có một nhà phát hành quyền chọn có tổ chức nào đứng ra chào mời các hợp đồng quyền chọn. Như vậy là đã thiếu một yếu tố cơ bản đó là nhà tạo lập thị trường. Công ty chứng khoán của ngân hàng Vietcombank (VBCS) là một trong những người tiên phong rất tích cực chuẩn bị để cho ra đời các hàng hóa và dịch vụ về quyền chọn chứng khoán.Tuy nhiên do khó khăn chồng chất nên để định rõ thời gian công ty này đưa ra các sản phẩm trên là không thể.

Tiềm lực của các công ty chứng khoán chưa đủ điều kiện để cung cấp sản phẩm  giao dịch tương lai và quyền chọn chứng khoán.

Hiện nay Việt Nam có 55 công ty chứng khoán thành viên của cả 2 sàn Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong đó, SSI – Công ty chứng khoán Sài Gòn giữ vị trí dẫn đầu với vốn điều lệ 500 tỷ. SSI là công ty môi giới dẫn đầu thị trường với số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong và ngoài nước. SSI hiện quản lý 68% số tài khoản nhà đầu tư nước ngoài. SSI giữ thị phần giao dịch hơn 27%. Tiếp sau đó là các công ty chứng khoán của một số ngân hàng : SBS của Sacombank (vốn điều lệ 300 tỷ), ABS của AnBinh Bank (vốn điều lệ 330), ACBS của ACB (vốn điều lệ 250 tỷ), VCBS của VCB, BSC của BIDV (vốn điều lệ 200 tỷ). Các công ty này cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn tài chính doanh nghiệp, trong đó tư vấn đầu tư chứng khoán chiếm vai trò chủ đạo. Mặc dù vậy, vẫn chưa có công ty chứng khoán nào cung cấp dịch vụ chứng khoán phái sinh (kỳ hạn, future, option).

Xét về  tiềm lực, các công ty chứng khoán Việt Nam rất có tiềm năng cung cấp dịch vụ Future và Option cho nhà đầu tư.  Ngoại trừ SSI ở vị trí dẫn đầu, hầu hết các công ty chứng khoán có vị trí đều là công ty con của các Ngân hàng lớn của Việt Nam. Đằng sau các Ngân hàng này lại là các đối tác nước ngoài hùng mạnh: Sacombank với ANZ, ACB với Standard Charted Bank, hay Techcombank với HSBC (mua 10% cổ phần Techcombank năm 2005 và 10% nữa năm 2007) Các thể chế tài chính này hoàn toàn có đủ tiềm lực tài chính cũng như các hệ thống quản trị rủi ro để tung ra nghiệp vụ Future và Option. Lý do các công ty chứng khoán chưa khởi động là vì muốn chờ hướng mở chính sách cũng như động thái pháp lý hóa quá trình giao dịch từ phía nhà nước. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Lý do thứ 2 mà các công ty chứng khoán còn chần chừ là do họ sợ rằng thị trường chưa đủ sôi động, chưa đủ hứng thú với Future và Option. Một thị trường chứng khoán có chất lượng là thị trường có tỷ lệ 7/3 nhà đầu tư tổ chức/nhà đầu tư cá nhân, nhưng ở Việt Nam tỉ lệ này là 3/7. Trong tình hình hiện nay khi mà nhà đầu tư cá nhân – chiếm đa số trên thị trường – còn rất ít hiểu biết về các công cụ chứng khoán phái sinh, sự e ngại của các công ty chứng khoán là hoàn toàn có lý.

  • a.2) Cầu hàng hóa

Theo ủy ban chứng khoán nhà nước, hiện có khoảng 240000 tài khoản chứng khoán trong đó khoảng 4400 tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên trong đó chủ yếu là tài khoản của các nhà đầu tư cá nhân chiếm tới trên 70%, nhà đầu tư tổ chức chỉ chiếm 30 %, trong khi ở một thị trường lý tưởng, con số trên phải ngược lại.

Do đặc điểm của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng, nhà đầu tư cá nhân Việt Nam đa số là nhà đầu tư nhỏ lẻ, đầu tư mang tính chất đầu cơ ngắn hạn. Đa số họ thiếu cả những hiểu biết cơ bản về tài chính – chứng khoán, cho nên họ chỉ biết tới chứng khoán là cổ phiếu, chưa biết tới ngoài cổ phiếu còn có nhiều loại chứng khoán phái sinh khác, nhất là chưa nhận thức được các công cụ tài chính này có thể giúp họ phòng ngừa rủi ro biến động giá chứng khoán, bảo vệ và thậm chí tăng lợi nhuận. Kể cả khi những người này có biết về quyền chọn hay hợp đồng tương lai chứng khoán, thì để ký hợp động hiệu quả, đòi hỏi họ phải dự đoán chính xác xu hướng biến động trên thị trường, mà để làm được điều này cần có kiến thức thị trường, khả năng phân tích và sử dụng các mô hình định giá quyền chọn khá phức tạp.

Vì thế người mua quyền chọn thường là các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp, người có hiểu biết và khả năng phân tích đánh giá tốt. Đó là các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại, các quỹ đầu tư. Ở Việt Nam hiện có 59 công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động, 18 công ty quản lý quỹ, một hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, ngoài quốc doanh là những nhà đầu tư tổ chức. Tuy nhiên nhu cầu mua hợp đồng quyền chọn của họ rất ít. Những nhà đầu tư này dường như vẫn còn thiếu quan tâm tới các công cụ chứng khoán phái sinh.

  • a.3) Thông tin thị trường và  tâm lý đầu tư

Luật chứng khoán 2006 đã được quốc hội thông qua nhằm giúp thị trường trở nên công khai,minh bạch,an toàn và hiệu quả hơn. Luật nhấn mạnh các chủ thể tham gia thị trường phải trung thực tuân thủ chế độ công bố thông tin định kỳ. Tuy nhiên rất khó để làm được điều này. Trên thực tế, ở thị trường OTC, thậm chí ở thị trường tập trung, đang có sự bất bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong việc tiếp cận thông tin tài chính của các công ty niêm yết. Các công ty chưa nghiêm túc thậm chí có gian lận trong việc công bố báo cáo tài chính. Một số đối tượng được tiếp cận thông tin nội bộ, từ đó thực hiện giao dịch nội gián. Trên thị trường OTC việc có trong tay báo cáo tài chính chính xác của các công ty là rất khó khăn. Cổ phiếu được mua bán trao tay, thị trường tồn tại quá nhiều tin đồn làm thông tin bị nhiễu; nhiều kẻ lợi dụng để trục lợi, còn những nhà đầu tư không thận trọng sẽ phải lĩnh hậu quả. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Đa số các nhà đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ, thiếu kiến thức lẫn thông tin. Vì thế mà có xu hướng là quyết định của các nhà đầu tư này phụ thuộc động thái của các nhà đầu tư có tổ chức, nhà đầu tư nước ngoài. Do đó mỗi khi nhà đầu tư lớn,nước ngoài mua hay bán số lượng lớn một cổ phiếu nào đó là sẽ gây ra tác động tâm lý, khiến nhà đầu tư nhỏ trong nước mua bán theo.

Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại chưa hoàn thiện nên còn tồn tại các hiện tượng tiêu cực như làm giá chứng khoán, tung tin đồn, đặt các lệnh nhằm thao túng thị trường để thu lợi bất chính, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác.

Tất cả các hiện tượng trên khiến giá cả trên thị trường biến động khôn lường và rất khó dự đoán. Thế nên việc áp dụng các mô hình kỹ thuật định giá ở thị trường Việt Nam chưa thật sự phát huy tác dụng. Hợp đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai chỉ phát huy tác dụng khi có biến động giá cả, nhưng sự biến động đó phải dự đoán được thì nhà đầu tư mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Thị trường càng thay đổi không theo quy luật, thì càng khó để nhà đầu tư mua bán quyền chọn có hiệu quả giảm thiểu rủi ro và tạo lợi nhuận.

Đợt tăng giá vừa qua khiến các nhà đầu tư không ý thức được mức độ rủi ro và sự cần thiết của các công cụ hạn chế rủi ro trong chứng khoán. Từ tháng 8/2006 thị trường chứng khoán Việt Nam trải qua một giai đoạn tăng trưởng khá nóng. Chỉ số VnIndex tăng từ mức đáy 400 điểm lên mức cao kỷ lục 1071 điểm. Giá liên tục tăng nhanh trong một thời gian dài khiến hầu như các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán đều thu được lợi nhuận. Một cơn sốt chứng khoán được tạo ra, tiền liên tục được rót vào thị trường. Nếu cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hóa thị trường khoảng 14 tỷ USD, bằng 22,7% GDP thì đến nay, đã đạt 304 nghìn tỷ đồng (tương đương 20 tỷ USD) bằng 31% GDP. Điều này tạo ra tâm lý giữa các nhà đầu tư trong giai đoạn đó là cứ đầu tư là không thể lỗ, hay nói cách khác, thị trường chứng khoán có ít rủi ro,và vì thế không cần làm bất cứ biện pháp nào để  phòng tránh rủi ro cả.

  • a.4) Chưa có nhiều bước đi chuẩn áp dụng giao dịch tương lai và quyền chọn chứng khoán 

Giao dịch quyền chọn chứng khoán là giao dịch phức tạp đòi hỏi áp dụng các loại giao dịch đơn giản hơn như một bước thử nghiệm làm dần từ dễ đến khó. Thông thường trước khi áp dụng giao dịch quyền chọn, các nước đều áp dụng trước giao dịch tương lai. Hợp đồng tương lai là loại hợp đồng kỳ hạn đã được tiêu chuẩn hóa và mua bán ở sở giao dịch-  trung gian giữa người bán và người mua. Giao dịch tương lai giúp hai bên mua bán tìm ra nhau dễ hơn, các mức giá được công khai nên dễ dàng lựa chọn. Hợp đồng tương lai có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng kỳ hạn, chi phí giao dịch tiết kiệm hơn, là một công cụ hạn chế rủi ro hiệu quả. Đối với hợp đồng tương lai việc thực hiện khi đến hạn là bắt buộc. Đây là điểm hạn chế so với hợp đồng quyền chọn. Về điểm này cho thấy giao dịch quyền chọn có ưu điểm ở chỗ cho phép nhà đầu tư thực hiện các giao dịch khống. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

Trên thực tế ở Việt Nam ngoài giao dịch giao ngay (spot), chưa có giao dịch kỳ hạn, hay tương lai với chứng khoán (đối với các hàng hóa khác thì đã có), thậm chí loại chứng khoán phái sinh dễ phát hành nhất đối với một công ty như quyền mua cổ phần, chứng quyền cũng chưa được giao dịch trên thị trường chứng khoán, cho nên nếu áp dụng ngay quyền chọn chứng khoán tại thời điểm hiện tại là chưa hợp lý, và khả năng thành công không cao. Do vậy, giao dịch quyền chọn chứng khoán chưa có ở Việt Nam một phần được lý giải  là do thời điểm chưa thích hợp, các điều kiện chưa chín muồi.

  • b) Hạn chế về hệ thống giao dịch

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội vẫn đang thực hiện phương pháp ô giao dịch có sàn. Điều đó nghĩa là mỗi công ty chứng khoán phải có đại diện tại sàn (nhân viên đọc lệnh & nhân viên nhập lệnh) và lệnh của khách hàng sẽ được nhập một cách thủ công vào hệ thống giao dịch. Thực tế này dẫn tới tình trạng rớt lệnh trong những thời điểm quá tải. Mặc dù vậy, để cạnh tranh, một số công ty chứng khoán đã áp dụng công nghệ tung ra các dịch vụ giá trị gia tăng nhằm loại bỏ tối đa các trung gian, đưa lệnh của khách hàng tới thẳng danh sách chờ của sàn. Khách hàng có thể đặt lệnh từ xa qua điện thoại, fax, và đặc biệt là sử dụng tài khoản online của mình tại trang web của công ty chứng khoán để đặt lệnh trực tiếp. Tiêu biểu cho gói dịch vụ này là VNDirect online của Công ty chứng khoán VNDirect, iTrade của Công ty chứng khoán Tân Việt bao gồm các tính năng: đặt lệnh trực tiếp, quản lý tài khoản, tích hợp thông tin giao dịch. Sự đầu tư của các công ty chứng khoán vào lĩnh vực này là một thuận lợi đáng kể khi Sàn giao dịch Hà Nội và Hồ Chí Minh triển khai xây dựng hệ thống giao dịch từ xa vào năm 2008.

Hệ thống giao dịch từ xa này áp dụng mạng diện rộng WAN kết nối trực tiếp với các công ty chứng khoán. Sàn HN đang hướng tới điều chỉnh phần mềm hiện có theo hướng giảm nhẹ băng thông, sử dụng công nghệ web- server. Đồng thời, xây dựng mạng WAN hoàn chỉnh kết nối với các CTCK thành viên theo mô hình điểm- đa điểm. Đặc biệt, tính bảo mật, an ninh mạng cũng được lãnh đạo HaSTC tính đến như một trong những điểm mấu chốt trong việc tạo sức mạnh của sàn.

Bên cạnh đó, hệ thống phần mềm chuyên biệt xử lý giao dịch Option cũng đã được nhà cung cấp DST International chào bán. DST đã có thâm niên 5 năm trong việc cung cấp phần mềm cũng như triển khai hệ thống giao dịch. Quy mô giao dịch cùng với hiểu biết về các đặc điểm chi tiết của hệ thống là lợi thế của DST trong lĩnh vực này.

Như vậy thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ chuyển sang giai đoạn giao dịch  không sàn trong một tương lai rất gần. Theo Dự án hiện đại hóa Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội do Cơ quan thương mại và phát triển Mỹ và Công ty Link Development LLC tài trợ (giai đoạn Phân tích quy chế và chức năng hoạt động đã kết thúc vào ngày 8/1/2007), HASTC sẽ có mô hình chuẩn sau một năm và sau hai năm sẽ triển khai xong dự án này. Thời gian cần thiết để chuyển giao hoàn toàn một hệ thống là 18 tháng nhưng có thể sẽ chậm hơn từ 3 tới 4 tháng do một số vướng mắc về pháp lý. Trong thời gian chờ đợi một hệ thống giao dịch hiện đại, đáp ứng tốt nhu cầu của giao dịch tương lai và quyền chọn, chúng ta có thời gian để xây dựng các quy định pháp lý cũng như đào tạo nhân lực kịp thời và có hiệu quả.

  • c) Thiếu nhân lực đặc biệt là nhân lực hiểu biết về giao dịch quyền chọn và tương lai chứng khoán và các kỹ thuật, chiến lược liên quan.

Giao dịch tương lai và quyền chọn là các giao dịch khó về mặt kỹ thuật tiến hành, nhưng đồng thời cũng khó về việc định giá và dự đoán đòi hỏi nguồn nhân lực có chất lượng cao, nắm rõ kiến thức tài chính – chứng khoán, thị trường nói chung, kiến thức về chứng khoán phái sinh nói riêng. Kiến thức đó bao gồm nhưng không chỉ có khả năng phân tích, đánh giá môi trường kinh tế, tình hình doanh nghiệp, phân tích rủi ro, giá chứng khoán, xu hướng biến động giá, để ký các loại hợp đồng quyền chọn. Đặc biệt là đối với các công ty tư vấn tài chính, đầu tư ủy thác kiến thức trên là rất quan trọng khi cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư cho khách hàng. Để đưa ra các quyết định chính xác, yêu cầu cơ bản là biết sử dụng các công cụ và mô hình định giá mà thế giới đã sử dụng. Khóa luận: Hợp đồng tương lai và quyền chọn tại Việt Nam.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Phát triển hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x