Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân

Chia sẻ chuyên mục Đề tài Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân hay nhất năm 2024 cho các bạn học viên ngành đang làm Khóa luận tốt nghiệp tham khảo nhé. Với những bạn chuẩn bị làm bài khóa luận tốt nghiệp thì rất khó để có thể tìm hiểu được một đề tài hay, đặc biệt là các bạn học viên đang chuẩn bị bước vào thời gian lựa chọn đề tài làm Khóa Luận thì với đề tài Khóa luận: Biện pháp nhằm triển khai hiệu quả Luật Thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam dưới đây chắc hẳn sẽ cho các bạn cái nhìn tổng quát hơn về đề tài này. 

1. THỰC TẾ TRIỂN KHAI LUẬT THUẾ thu nhập cá nhân Ở MỸ

Thuế thu nhập cá nhân là nguồn thu chủ yếu và quan trọng bảo đảm nguồn tài chính của nước Mỹ. Từ tổng thống cho đến người bình thường đều phải đóng thuế. Để điều chỉnh mức thu nhập tăng trưởng quá nhanh của tầng lớp giàu có, Mỹ tăng tỷ lệ thu thuế người giàu và giảm thu thuế người nghèo. Nguyên tắc cơ bản để thu thuế là thu nhập càng cao đóng thuế càng nhiều.

Quy định về thu nhập của Mỹ tương đối phức tạp, không những chú trọng thu nhập cá nhân mà còn chú trọng đến các thành viên trong gia đình. Cùng một mức thu nhập nhưng khoản nộp thuế của một đôi vợ chồng có con nhỏ và một đôi vợ chồng không có con chênh lệch khá nhiều.

Người có thu nhập cao là đối tượng chủ yếu nộp thuế, ước tính 60% tổng nguồn thuế thu nhập cá nhân ở Mỹ thu từ người có thu nhập 100.000 USD (1,58 tỷ đồng Việt Nam) mỗi năm trở lên.

Thuế thu nhập cá nhân để chống tham nhũng.

Những lợi tức dễ dàng từ các hoạt động phi pháp, phạm pháp là nguyên do của tham nhũng và phần lớn các loại tội phạm, tệ nạn xã hội ở Mỹ. Vì vậy luật thuế thu nhập cá nhân của Mỹ không giới hạn các loại nguồn thu nhập chịu thuế như ở điều 3 Luật Thuế thu nhập cá nhân Việt Nam đã làm. Nói cách khác, luật thuế Mỹ chẳng những không giới hạn mà còn quy định công dân phải kê khai tất cả các nguồn thu nhập, hợp pháp lẫn phi pháp. Trong mẫu khai thuế có một dòng ghi “Các khoản thu nhập khác:” dành cho mục đích này.

Các thông tư hướng dẫn kê khai thuế Mỹ đều yêu cầu rõ phải kê khai luôn các khoản thu nhập phi pháp (other illegal income) như hối lộ, biển thủ, cờ bạc, bảo kê, ma túy, trộm cướp, buôn lậu, tiền giả, lừa đảo… Để tăng cường phòng chống tham nhũng và tội phạm, điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam có lẽ cũng nên bổ sung một điều khoản kỹ thuật, đó là loại thu nhập thứ 15: “Các loại thu nhập bất chính hoặc phi pháp”. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Nghe thật buồn cười, vì đã là thu nguồn phi pháp thì ai dám kê khai. Tuy nhiên, đây là điều khoản mang tính kỹ thuật tinh vi của Quốc hội Mỹ. Luật thuế ghi như vậy để tránh công dân “né thuế” kiện ngược rằng luật không quy định. Hơn thế nữa, luật thuế bắt buộc phải khai báo luôn cả các thu nhập phi pháp nhằm mục đích “kèm thêm” tội trốn thuế vào các tội hình sự, bởi vì những tội phạm hình sự thường không khai báo các loại thu nhập phi pháp này và kẻ tham nhũng cũng thế.

Một ví dụ rất nổi tiếng là vụ trùm mafia Al Capone ở Chicago, Mỹ. Tuy các luật sư đã biện hộ cho Al Capone thoát tội danh cướp của giết người nhưng các nhân viên sở thuế vẫn tìm ra cách nhốt Al Capone 11 năm tù với tội danh trốn thuế, sau khi chứng minh tài sản của Al Capone đã tăng lên đều đặn hàng năm mà không hề đóng thuế. Việc quy định phải khai báo các khoản thu nhập phi pháp cũng nhằm tạo cơ sở pháp lý để cơ quan điều tra mở rộng phạm vi điều tra, phân tích mức sống xa hoa và tài sản thuộc quyền khống chế và sở hữu của nghi can, nhằm làm sáng tỏ các nghi án hối lộ và tham nhũng vốn thường đi kèm với các nghi án trốn thuế.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Viết Thuê Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Luật

1.1. Triển khai kê khai và thu nộp thuế thu nhập cá nhân tại Mỹ.

Phương pháp quản lý người nộp thuế: 

Mỹ quản lý người nộp thuế thông qua Số An sinh xã hội (SSN – Social Security Number) hoặc Số xác định người nộp thuế thu nhập cá nhân dành cho người nước ngoài (ITINs – Individual Taxpayer Identification Numbers).

Để đăng ký SSN, cá nhân phải điền vào đơn đăng ký và gửi đơn này cùng với những chứng từ phù hợp tới Cơ quan quản lý An sinh xã hội (SSA). Ngay khi SSA có đầy đủ bằng chứng và thông tin cần thiết, cơ quan này sẽ cấp SSN trong 2 tuần sau đó. Đối với những cá nhân phi cư trú hoặc người nước ngoài cư trú tại Mỹ, họ không thể đăng ký SSN mà phải đăng ký ITIN. Mã số này chỉ dùng cho công tác quản lý thuế.  

1.1.1. Kê khai 

Các đối tượng cần kê khai và nộp thuế trước ngày 15 tháng 4 năm tiếp theo. Nếu nộp chậm hơn, có thể phải nộp tiền lãi và tiền phạt. Đối với những người đang phục vụ trong quân đội tại những khu vực đang giao chiến hoặc thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm thì có thể kê khai muộn hơn. Đối với các cá nhân khác cũng có thể xin gia hạn thêm 6 tháng nếu trước ngày hết hạn họ đăng ký xin gia hạn vào Form 4868 và gửi về IRS (Internal Revenue Service – Cục Thuế nội địa Mỹ). Công dân Mỹ hoặc người nước ngoài cư trú tại Mỹ có thể tự động gia hạn thêm 6 tháng mà không cần đăng ký nếu như tại thời điểm hết hạn nộp kê khai, họ thoả mãn một trong những điều kiện sau: Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Điều kiện 1. Đang sống tại ngoài nước Mỹ và Puerto Rico và địa điểm chính của việc kinh doanh hay công việc của cá nhân đó nằm ngoài nước Mỹ và Puerto Rico.

Điều kiện 2. Đối tượng đang phục vụ tại quân đội hay hải quân tại ngoài nước Mỹ và Puerto Rico.

Việc gia hạn này tăng thêm 2 tháng để nộp tờ khai và đóng thuế, tuy nhiên sẽ phải trả lãi trên khoản tiền thuế chưa đóng tính từ ngày lẽ ra phải nộp tờ kê khai. Đồng thời phải nộp kèm những chứng từ cho thấy cá nhân thoả mãn điều kiện trên.

1.1.2. Hoàn thuế

Người nộp thuế được quyền nhần hoàn thuế nếu trả quá số thuế thu nhập cá nhân mà mình cần phải nộp. Khoản hoàn thuế thường nảy sinh khi chính phủ đã thu nhiều thuế hơn mức cần thiết từ tiền lương của người nộp thuế hoặc thếu tạm tính bị sai. Trong trường hợp người nộp thuế phát hiện thuế tính sai thì có thể nộp yêu cầu hoàn thuế cho IRS trong vòng 3 năm kể từ ngày nộp tờ khai hay 2 năm kể từ ngày chi trả tiền thuế.

Ví dụ: Chị Phương Ca, ở Garland, độc thân, mới tốt nghiệp ra trường kể: “Năm 2006, tôi chỉ đi làm có 4 tháng, nộp thuế chưa đầy 350USD nhưng sau khi khai thuế tôi được trả lại hơn 200USD. Rồi Sở thuế xét thấy thu nhập (income) của tôi quá thấp nên tiếp tục gửi thêm cho tôi 350USD nữa. Thế là tôi có lãi”. Có nhiều trường hợp khác, bạn có tổng thu nhập cao hơn so với mức sàn quy định thuế thì bạn sẽ được yêu cầu đóng thêm (Thí dụ: luật thuế quy định người có thu nhập 60.000USD/năm phải đóng 5.000USD nhưng bạn có thu nhập năm nay là 70.000USD thì phải đóng thuế thêm của phần 10.000USD; hoặc bạn khai chưa đủ tổng thu nhập vì lý do muốn trốn thuế hoặc vì một lý do nào đó đã bị Sở thuế vụ truy ra).

Những người có gia đình hoặc phải nuôi người khác sẽ được trừ thuế thấp hơn người sống độc thân và cơ hội hoàn thuế của họ cũng cao hơn nếu những người họ trực tiếp nuôi dưỡng hoàn toàn không có thu nhập.

Thật ra, người dân cũng rất mù mờ về việc tính thuế vì mỗi người phải chịu một mức thuế khác nhau do tình trạng cá nhân và các thành viên quan hệ trong gia đình có liên quan hoặc có thu nhập thấp hay cao so với quy định và Sở thuế có công thức tính thuế nên họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng, việc thực hiện nghĩa vụ công dân của họ đối với nhà nước cho thấy những mặt tích cực thể hiện cụ thể: Ai thiếu cho thêm, ai dư thì lấy bớt, đồng thời thể hiện mối tương quan tương tác giữa chính phủ và người dân được thể hiện tích cực qua các chương trình an sinh xã hội.

Dù có mức lương cao hay thấp người dân Mỹ thường tham gia đóng thuế lợi tức an sinh xã hội để Chính phủ Mỹ có thể kiểm soát và điều chỉnh mức sống của người dân phù hợp với mức sống của xã hội. Hơn nữa, việc đóng thuế an sinh xã hội không chỉ tạo sự an toàn về phúc lợi hưu trí trong tương lai cho công nhân viên và gia đình của họ mà còn đảm bảo phúc lợi an sinh xã hội vì tàn tật và phúc lợi sinh tồn cho những người thân trong gia đình khi xảy ra trường hợp không may về thương tích hoặc tử vong. Năm 2006, phúc lợi tàn phế cho công nhân viên, người hôn phối hay con cái của họ trung bình 1.571USD/tháng/người.

1.1.3. Kiểm toán  Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Kiểm toán Thuế Thu nhập cá nhân là một cuộc điều tra chính thức của IRS để xác minh xem người khai thuế có khai đúng các khoản thu nhập, giảm trừ, khấu trừ… trên tờ khai thuế hay không. Phần lớn những tờ khai được chọn để kiểm toán thông qua một chương trình máy tính để xác định xem những tờ khai nào có khả năng mắc lỗi lớn nhất. Những tờ khai này thường phải nộp thêm thuế. Một khi được chọn, tờ khai sẽ được một cơ quan xem xét để xác định nó có khả năng mắc lỗi đến mức nào, trước khi bắt đầu quá trình kiểm toán. Một số tờ khai lại được chọn một cách ngẫu nhiên theo một chương trình nghiên cứu và đánh giá tính cách của người nộp thuế. Một số tờ khai khác lại được chọn vì người nộp thuế đã bị điều tra về việc trốn thuế hay đang nằm trong vùng nghi vấn của IRS. Chi phí cho việc kiểm toán thuế không tự động làm tăng nghĩa vụ thuế phải nộp, tuy nhiên cũng rất ít những vụ kiểm toán dẫn đến kết quả là hoàn thuế cho người nộp.

Người nộp thuế sẽ được thông báo qua thư rằng tớ khai của mình sẽ được kiểm toán. Việc điều tra kiểm toán sẽ được tiến hành bởi văn phòng IRS tại địa phương nơi nộp tờ khai. Tuy nhiên, nó cũng có thể tiến hành tại nhà hoặc nưoi kinh doanh của người nộp thuế, trong văn phòng của luật sư, kế toán của người nộp hoặc thông qua thư từ. Nếu các chứng từ sổ sách dùng cho mục đích xác định thuế được lưu giữ ở một nơi khác, cuộc điều tra sẽ được chuyển sang nơi đó.

Người nộp thuế có thể tự biện hộ hoặc nhờ sự trợ giúp của một luật sư, một kế toán được cấp chứng chỉ hoặc một người đã kê khai và ký vào tờ khai với tư cách là người khai. Trong trường hợp người nộp thuế đã kết hôn và khai chung thu nhập thì một trong hai người hoặc cả người đều có thể tham gia. Người nộp thuế sẽ được thông báo về những chứng từ cần mang theo để làm rõ vấn đề nghi vấn.

Đôi khi tờ khai thuế của một người có thể bị kiểm toán hàng năm với những vấn đề giống nhau. Nếu như tờ khai của người đó đã được kiểm toán trong một hoặc 2 năm trước mà không phát hiện ra sai sót gì thì người đó có quyền thông báo lên IRS để đình chỉ người kiểm toán và tạm ngừng việc kiểm toán hồ sơ. Tuy nhiên, nếu như việc chọn lựa kiểm toán tờ khai đó được chọn lựa và giao cho người kiểm toán một cách ngẫu nhiên thì người kiểm toán không phải chịu trách nhiệm gì cả.

Một khi quá trình kiểm toán đã hoàn tất, người kiểm toán sẽ đưa ra những kiến nghị thay đổi trong nghĩa vụ nộp thuế và lý giải cho những thay đổi đó. Hầu hết quá trình kiểm toán đều kết thúc ở giai đoạn này. Tuy nhiên, nếu người nộp thuế không đồng ý với kiến nghị đó thì có thể yêu cầu gặp ngay một chuyên viên cao cấp để trình bày về vấn đề của mình. Nếu chuyên viên và người nộp thuế có thể thống nhất với nhau, sự việc được hoàn tất. Nếu như 2 người không đạt được thoả thuận hoặc việc kiểm toán không phải do IRS thực hiện thì người nộp thuế sẽ nhận được một công văn trong đó ghi rõ họ có quyền kiện trước cơ quan thuế trong vòng 30 ngày, và một bản copy báo cáo giải thích nguyên nhân của sự điều chỉnh nghĩa vụ thuế. Người nộp thuế nên đưa vụ việc tới cấp cao hơn của IRS trước khi đưa vụ việc ra toà, mặc dù học hoàn toàn có quyền đến thẳng toà án.

Có 2 cấp để kiện tại IRS: với nhân viên hội đồng quận và phòng phúc thẩm. Hội đồng quận là cấp đầu tiên để kiện những vấn đề liên quan đến phát hiện của người kiểm tra, mặc dù người nộp thuế có thể bỏ qua bước này và nộp trực tiếp lên phòng phúc thẩm. Nếu người nộp thuế vẫn cảm thấy bất mãn sau khi gặp hội đồng quận thì có thể đưa vụ việc lên phòng phúc thẩm. Nếu sau cả 2 cấp này mà vẫn không đạt được sự đồng thuận thì người này có thể đem vụ việc ra toà.

Để đưa vụ việc lên cấp phúc thẩm, người nộp thuế buộc phải nộp bản kháng nghị cho phòng phúc thẩm (Bản kháng nghị này là bắt buộc và phải được nộp trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được công văn và phải thể hiện rõ vấn đề người nộp thuế muốn kiện, những năm tính thuế liên quan, danh sách những đề xuất mà người đó không đồng ý, những thông tin liên quan đến tình trạng của người nộp thuế, chỉ rõ điều luật hay căn cứ pháp lý nào khác mà người nộp thuế lấy làm cơ sở. Bản kháng nghị phải được ký tên rõ ràng, kèm với lời khẳng định rằng đó hoàn toàn là sự thật, nếu có bất kỳ điều gì sai trái thì sẽ phải chịu hình phạt); trừ khi đề xuất thay đổi mức thuế không quá 2.500$ cho bất kỳ kỳ tính thuế nào và người nộp thuế đã kiện trước hội đồng quận. Một khi bản kháng nghị đã được nộp cho hội đồng quận, người nộp thuế không cần phải nộp bất kỳ giấy tờ nào cho phòng phúc thẩm nữa. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Nếu như sau khi kiện tại hội đồng quận hoặc phòng phúc thẩm mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết; hoặc nếu người nộp thuế đã bỏ qua 2 cấp này thì người nộp thuế có thể đưa vụ việc lên Toà án Thuế của Mỹ (the U.S. Tax Court), Toà án đòi tiền của Mỹ (the U.S. Claims Court) hoặc Toà án Địa phương (the U.S. District Court). Các vụ kiện có thể đưa lên cấp cao nhất là Toà án Tối cao (Supreme Court).

Phần lớn tranh chấp với IRS được giải quyết bằng thủ tục hành chính. Tranh chấp có thể phát sinh do người nộp thuế tin rằng anh ta có sai sót trong bảng kê và yêu cầu hoàn thuế, và một trường hợp rất hay gặp là khi Cục thuế kiểm toán bản kê và phát hiện thuế nộp thiếu. Hầu hết các tranh chấp đều được giải quyết trước khi ra toà, đặc biệt là những tranh chấp của những đối tượng nộp thuế có số tiền thuế lớn. Nếu ra toà, các vụ này được xét xử bởi một trong toà án liên bang như sau: toà án hạt liên bang (toà có thẩm quyền tài phán chung), hay Toà khiếu nại (toà chuyên ngành), cả hai toà này đều yêu cầu người nộp thuế phải trả phí đánh giá và kiện tụng để được hoàn thuế; và toà thứ ba là Toà án Thuế, đây là một toà chuyên ngành, chỉ xử những vụ trong đó chính quyền nộp thuế thiếu, còn người nộp thuế muốn xét xử trước khi nộp. Nếu toà ra lệnh người nộp thuế phải nộp thêm, hay chính quyền phải hoàn thuế, thì được tự động tính thêm lãi suất để làm giảm tác động của chênh lệch thời gian thanh toán. Kháng cáo kháng nghị từ các toà án này được xét xử tại các toà phúc thẩm lưu động và cuối cùng là tại Toà tối cao. (Toà tối cao rất ít khi xét xử các vụ về thuế).

Toà án thuế: Người nộp thuế có thể kiện lên Toà án Thuế nếu như tranh chấp có liên quan đến những vấn đề về xác định thu nhập chịu thuế, thuế bất động sản hoặc thuế quà tặng. Người nộp thuế phải yêu cầu IRS phát hành một công văn chính thức gọi là thông báo thiếu thuế chính thức (về số tiền thuế phải đóng và phải nộp); một đơn kiến nghị cho Toà án trong vòng 90 ngày, kể từ thời điểm thông báo được gửi đi hoặc 150 ngày nếu phải gửi đến một địa chỉ ở nước ngoài. Nếu người nộp thuế nộp đơn muộn thì nghĩa vụ thuế sẽ được tự động áp dụng cho người đó, một khi thuế đã được xác định và thông báo đã được gửi đi. Người nộp thuế buộc phải thanh toán số tiền thuế này trong vòng 10 ngày, nếu không trả xong trong thời gian quy định, thì số tiền đó sẽ ngay lập tức trở thành khoản bắt buộc phải nộp và có thể nộp tăng thêm nếu như nộp trễ. Điều này là bắt buộc, cho dù người nộp thuế cho rằng số tiền đó là không hợp lý. Ngoài ra, ngày hầu toà của người nộp thuế cũng sẽ được ấn định. Trường hợp mà số tiền nộp thuế nhỏ hơn 5.000$ thì thủ tục có thể đơn giản hơn. Thay vì đưa ra toà án Thuế, có thể đưa ra một toà án nhỏ hơn dành cho các vụ kiện thuế có giá trị nhỏ.

Toà án địa phương và toà án đòi tiền: người nộp thuế có thể yêu cầu được hoàn thuế nếu như sau khi nộp thuế, người đó cho rằng mình đã nộp thừa so với mức cần thiết. Người nộp thuế có thể nộp đơn xin hoàn thuế tại Toà án địa phương hoặc toà án đòi tiền nếu như IRS không xử lý yêu cầu đó trong vòng 6 tháng. Những toà án này chỉ xử những vụ kiện thuế khi người yêu cầu đã nộp thuế và đã nộp đơn yêu cầu hoàn thuế. Đơn yêu cầu hoàn thuế phải được nộp trong vòng 2 năm kể từ ngày IRS từ chối yêu cầu hoàn thuế của người nộp thuế. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Quá trình khai thuế, tính thuế thu nhập cá nhân:

Quá trình tính thuế bắt đầu từ khi một người bắt đầu công việc mới của mình. Anh ta và người thuê lao động đã nhất trí về lương bổng của anh, và khoản tiền này sẽ được tính vào tổng thu nhập của anh vào thời điểm cuối năm. Một trong những điều đầu tiên mà anh ta phải làm khi được tuyển dụng là phải điền vào tất cả những biểu mẫu thuế, bao gồm W-4 form. Trên W-4 form sẽ liệt kêt tất cả những khoản giảm trừ mà anh ta được nhận, như số người phụ thuộc và chi phí chăm sóc con cái… thông tin này sẽ giúp người thuê lao động biết cần phải lấy bao nhiêu tiền trong số tiền lương để nộp thuế thu nhập liên bang đồng thời người lao động khi được tuyển dụng và nhận lương cũng sẽ tự tính được mình phải trả bao nhiêu thuế. Bạn nên kiểm tra lại biểu mẫu này hàng năm, vì tình trạng nộp thuế của bạn có thể thay đổi từ năm này qua năm khác.

Nếu bạn lĩnh lương bằng tiền mặt còn có thể trốn thuế nhưng nếu người chủ thuê bạn làm việc có khai tên bạn vào danh sách nhân viên làm thuê cho cơ sở của họ thì bạn hãy nhanh chân thực hiện nghĩa vụ thuế ngay, nếu không thì lý lịch cá nhân của bạn do liên bang quản lý sẽ bị ghi chú: “Đã từng trốn thuế”. Và, mãi nhiều năm sau bạn vẫn bị nhận giấy đòi nợ về khoản trốn thuế. Như vậy, cơ hội được hưởng các nguồn phúc lợi an sinh xã hội của bạn khi thất nghiệp hay khi hoàn cảnh sống khó khăn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều.

Nghiêm trọng hơn nữa, người trốn thuế có thể bị phạt tù đến 5 năm, đồng thời bị phạt tiền đến 100.000USD cho một năm họ trốn thuế và theo cấp số nhân nếu trốn thuế nhiều năm. Mỗi năm, Sở thuế của Mỹ chỉ truy tố khoảng 3.000 trường hợp trốn thuế trong khoảng 174 triệu hồ sơ khai thuế, tuy nhiên, vẫn có khoảng 7,4 triệu cá nhân bị phạt vì những lý do như đóng thuế trễ hạn, khai gian, đóng thuế bằng séc “lủng” (ký ngân phiếu nhưng không còn tiền trong tài khoản ở ngân hàng)… Năm 2005, có khoảng 27.000 người ra hầu tòa vì những tội liên quan đến thuế. Trường hợp nghiêm trọng, đối tượng trốn thuế có thể bị tịch thu nhà, xe, tài sản cá nhân, niêm phong tài khoản trong ngân hàng, cắt tiền lương tại nơi đang làm việc… Tuy nhiên sở thuế cũng rất khoan dung và sẵn sàng “mở lối thoát” cho người trả thuế nào cộng tác tốt bằng cách trình bày, thảo luận thẳng thắn, rõ ràng về nguyên nhân nợ thuế.

Trình tự xác định thuế thu nhập cá nhân: 

Tại thời điểm kết thúc mỗi kỳ trả lương, công ty của anh ta sẽ giữ lại số tiền thếu phải nộp, cùng với số tiền phải nộp của các nhân viên khác, và gửi số tiền này vào Federal Reserve Bank ngân hàng dữ trự liên bang. Đây là cách chính phủ có được luồng thu nhập đều đặn trong khi thu lãi suất từ khoản tiền thuế.

Trước khi kết thúc năm tính thuế, công ty của người lao động sẽ gửi cho anh ta biểu mẫu W-2 form – việc này phải hoàn thành trước ngày 31/1. Trong biểu mẫu người này sẽ phải kê khai chi tiết số tiền mình kiếm được trong suốt năm ngoái và số tiền mà thuế liên bang đã thu từ thu nhập của anh ta. Những thông tin này cũng có thể tìm thấy trong ngân phiếu của người này nhưng anh ta sẽ phải gửi biểu mẫu W-2 form tới IRS.

Trong khoảng thời gian anh ta nhận được W-2 form cho đến ngày 15 tháng 4, anh ta sẽ phải khai báo và gửi khoản thuế của mình đến một trong những trung tâm dịch vụ của IRS. Ngay khi IRS nhận được khoản tiền nộp thuế của anh ta, một nhân viên của IRS sẽ nhập mọi thông tin của anh ta vào biểu thuế của anh ta và lưu trữ lại. Nếu anh ta được nhận một khoản hoàn thuế, anh ta sẽ được nhận được séc hoàn thuế trong vài tuần tiếp theo. Nếu anh ta sử dụng e-File (bộ phần mềm quản lý lưu trữ) or TeleFile (phần mềm quản lý thuế) thì khoản hoàn thuế sẽ được gửi thẳng vào tài khoản ngân hàng của anh ta.

1.2. Những ưu điểm và nhược điểm của quá trình triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân Mĩ. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Ưu điểm

Các phần mềm hỗ trợ: Chương trình AMT Assistant nhằm giúp những người nộp thuế xác định xem họ có phải nộp thuế này hay không. Sử dụng phần mềm này rất dễ dàng, người nộp thuế chỉ cần trả lời một số câu hỏi đơn giản liên quan đến những thông tin mà họ đã khai trong tờ khai thuế thu nhập cá nhân Form 1040 và chương trình sẽ làm tất cả những công việc còn lại. Kết quả này đã được hiện lên ngay lập tức trên màn hình vi tính. Dựa trên những thông tin mà người nộp thuế nhập vào, kết quả này sẽ chỉ rõ nếu như người đó không phải nộp AMT hoặc phải điền Form 6251 và nộp thuế AMT. Những thông tin mà người này nhập vào chương trình sẽ hoàn toàn vô danh và chỉ được dùng để xác định trách nhiệm nộp thuế của người này. Tất cả những thông tin này sẽ tự động được xoá đi ngay khi người này thoát ra hoặc khởi động lại chương trình. Chương trình này có thể được sử dụng cho đối tượng là cá nhân hoặc tổ chức. Hầu hết những người đã sử dụng phần mềm này đều có thể hoàn thành trong vòng 5 đến 10 phút.

Nhược điểm

Việc diễn giải từng nội dung tính thuế hay miễn thuế thu nhập cá nhân của Mỹ rất tỉ mỉ. Chẳng hạn, chỉ riêng mục giải thích các khoản khấu trừ về chi phí y tế, răng, v.v.. nằm trong Đề mục 26, Tiểu mục A, Chương 1, Phụ chương B, Phần VII, Tiết 213, đã dài gần 1.500 từ ! Chính vì thế, nếu không thể tự tính thuế, phải thuê người giúp khai thuế (tax preparers); phải mua sách, phần mềm hoạt động tính thuế thu nhập cá nhân, các khoản phí ấy được khấu trừ theo luật, nhưng không vượt quá 2% AGI (adjusted gross income: tổng thu nhập đã điều chỉnh) của người đóng thuế.  

Hệ thống thuế quá phức tạp khiến cho nền kinh tế Mỹ, bao gồm các hộ gia đình, các tổ chức kinh doanh và chính phủ liên bang tiêu tốn khoảng 150 tỷ USD để đảm bảo rằng thuế được thu một cách đầy đủ. Số tiền này còn lớn hơn toàn bộ chi phí dành cho việc mua sắm ti vi, đồ điện gia dụng hay ngũ cốc. Có lẽ không có bằng chứng nào về sự phức tạp của thuế Thu nhập cá nhân Mỹ rõ ràng hơn sự lo lắng của người dân Mỹ vào tháng 4, khi những hạn cuối của việc khai nộp thuế Thu nhập cận kề. Họ phải đi tìm lại vô số những giấy tờ liên quan đến các khoản thu nhập, hoạt động kinh doanh, chi phí… mà hiện đã không còn giá trị gì nữa. Sau đó người nộp thuế phải đọc những trang hướng dẫn khai nộp thuế dài dằng dặc mà ngay cả những giáo sư tại trường đại học cũng phải đọc đi đọc lại nhiều lần. Những hướng dẫn này bao gồm rất nhiều bảng kê khai và các biểu thức tính toán phức tạp. Cuối cùng thì quá trình này có thể kết thúc khi người nộp thuế từ bỏ và tìm đến một người khai thuế chuyên nghiệp để nhờ hộ xử lý tất cả những công đoạn phức tạp này, và tất nhiên, phải trả khoản tiền nhất định.

Dù thu nhập của người nộp thuế là bao nhiêu thì việc hoàn tất các thủ tục về thuế thu nhập đối với họ cũng là quá phức tạp. Theo một cuộc điều tra gần đây đối với những đối tượng có thu nhập thấp hơn 20.000$ (thường là những hộ gia đình có mức khai thuế đơn giản nhất), có đến 80% số người được hỏi cho rằng luật thuế là phức tạp hoặc qúa phức tạp. Con số này còn lên đến gần 100% đối với những người có mức thu nhập trên 150.000$. Thậm chí có đến gần 1/3 số người được hỏi cho rằng việc hoàn thành bản khai thuế hàng năm còn vất vả hơn là phải trả các khoản tiền thuế ấy.

Chỉ với một mục rất cơ bản là tính ra tác động của thuế đối với việc có một đứa con, người nộp thuế cũng phải xem rất nhiều quy tắc và hoàn thành nhiều phép tính khác nhau. Ví dụ như để xem xét xem liệu mình có được hưởng tín dụng thuế đối với một đứa trẻ hay không, người nộp thuế phải điền vào 8 dòng trong tờ khai thuế, thực hiện 5 phép tính và hoàn tất 3 tờ khai nữa. Việc xác định các khoản mục khác cũng không kém phần phức tạp, như tính xem liệu người nộp thuế có được coi là chủ hộ gia đình hay không, chi phí giảm trừ cho người phụ thuộc, tín dụng chăm sóc trẻ em và người phụ thuộc, tín dụng liên quan đến học tập của con cái… Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Năm 2007, người Mỹ đã tiêu tốn hơn 3.5 tỷ giờ để hoàn tất các thủ tục kê khai, nộp thuế, tương đương với việc tuyển dụng thêm 2 triệu nhân viên IRS mới, tức là gấp 20 lần nhân lực hiện tại của cơ quan này. Nếu như số tiền dùng cho việc khai thuế, khoảng 140 tỷ $ hàng năm hay hơn 1.000$/ hộ gia đình được tích trữ lại, nó có thể cung cấp phần lớn chi phí cho bộ máy chính phủ, bao gồm Bộ Nhà ở và Phát triển đô thị, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ quốc gian (NASA), Bộ Giao thông vận tải, Quốc hội Mỹ, các toà án của liên bang, và tất cả viện trợ nước ngoài của Hoa Kỳ. Tính trung bình, mỗi người dân Mỹ phải mất gần một tuần, tương đương 26 giờ để kê khai và nộp thuế.

Năm 2005, hơn 60% hộ gia đình đã từ bỏ việc khai thuế để thuê một người khai thuế chuyên nghiệp. Khoảng 1/4 số người khai thuế phải dựa vào máy tính và phần mềm được mua để tính ra khoản thuế của mình. Chỉ có khoảng 13% số người khai thuế có thể hoàn thành việc khai thuế theo cách cổ điển, chỉ bằng bút và giấy.

Việc hoàn thành khai nộp thuế cũng đang trở thành gánh nặng cho những người ít có khả năng nộp thuế nhất. Ví dụ như khoản tín dụng thu nhập kiếm được (EITC) là một sáng kiến quan trọng, được đưa ra nhằm giúp đỡ các hộ gia đình có thu nhập thấp có thể thoát khỏi nghèo đói. Chỉ những người lao động có thu nhập thấp mới được phép hưởng EITC. Thoạt đầu, EITC sẽ tăng khi thu nhập của người đó tăng lên, tuy nhiên, tại mức thu nhập nhất định thì người đó không được hưởng EITC nữa. Những quy định này quá phức tạp đến mức # số hộ gia đình hưởng EITC đều phải thuê người khai thuế. Điều này khiến cho EITC không còn phát huy được tác dụng nữa, vì hầu hết những gia đình này chỉ kiếm được ít hơn 35.000$/năm và những chi phí thuê người khai thuế có thể sẽ khoản hỗ trợ mà họ nhận được từ EITC. Các nhà chính sách thường ca ngợi tác dụng của EITC, tuy nhiên, xét về mặt quản lý thu thuế thì nó lại khá tốn kém và không hiệu quả.

2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG LUẬT THUẾ thu nhập cá nhân TẠI VIỆT NAM. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Từ những khó khăn trong quá trình triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân đã nêu ở trên, căn cứ vào thực tế triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân ở nước ta cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, một số giải pháp nhằm triển khai áp dụng có hiệu quả Luật Thuế thu nhập cá nhân vào thực tiễn được kiến nghị như sau

2.1. Tăng cường quản lý thu nhập.

Trong giai đoạn hiện nay, khi cơ sở nền tảng cho việc quản lý thu nhập còn chưa đầy đủ thì trong nỗ lực của riêng mình, ngành thuế cần chủ động đề ra những giải pháp để hạn chế thấp nhất những rủi ro, thất thoát có thể xảy ra. Đương nhiên công tác quản lý thuế thuộc về ngành thuế, nhưng để triển khai thành công luật thuế thu nhập cá nhân cũng như để làm tốt công tác quản lý thu nhập, rất cần có sự phối hợp quản lý, trao đổi cung cấp thông tin của các bộ, ngành, cơ quan chi trả thu nhập, sự tham gia giám sát của cơ quan pháp luật và đông đảo quần chúng nhân dân.

Về nguyên tắc, để kiểm soát được thu nhập dân cư, trước hết cơ quan thuế sẽ căn cứ vào những thông tin, dữ liệu được cung cấp bởi các cơ quan chi trả thu nhập. Trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan thuế của các đơn vị chi trả thu nhập đã được Luật Thuế thu nhập cá nhân và các văn bản hướng dẫn quy định rất rõ, nên ngành thuế hoàn toàn có thể yên tâm về các nguồn thông tin này.

Thứ hai, là ngành thuế sẽ căn cứ vào thông tin từ tổ chức, đơn vị có quan hệ kinh tế với các cá nhân để khai thác các nguồn thu nhập.

Thứ ba là, cơ quan thuế sẽ dựa vào hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm chính quyền và hội đồng tư vấn thuế phường, xã để có được những thông tin về thu nhập của cá nhân, nhất là các cá nhân kinh doanh.

Cũng để kiểm soát được thu nhập thì một trong những giải pháp mà ngành thuế cần làm đó chính là nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giải thích, động viên, hướng dẫn nhằm khuyến khích, khơi dậy tinh thần tự nguyện, tự giác của mọi công dân trong việc thực hiện tốt nghĩa vụ khai, nộp thuế thu nhập cá nhân.

Hơn thế nữa, cần thúc đẩy sự phát triển của ngành tài chính ngân hàng, mở rộng hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt (trả lương qua thẻ ATM, qua tài khoản…) nhưng phải đảm bảo sự thuận tiện, nhanh chóng và an toàn cho khách hàng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về sự thuận tiện của việc thanh toán không dùng tiền mặt trong các trường học, cơ quan, xí nghiệp… thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay tuyên truyển trực tiếp… Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về thuế thu nhập cá nhân; tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và các tổ chức chính phủ, tư nhân và cá nhân nước ngoài. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Với đối tượng là cá nhân kinh doanh thì các biện pháp nhằm quản lý thu nhập của đối tượng này rất quan trọng.

Biện pháp tối ưu hàng đầu của ngành thuế là tận dụng triệt để và phát huy những kinh nghiệm tốt mà quá trình quản lý hộ kinh doanh thời gian qua đã đúc kết; đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan thuế nói chung và cán bộ ở đội thuế phường xã trực tiếp quản lý hộ kinh doanh nói riêng. Để đảm bảo quản lý sát doanh số, chi phí và thu nhập của cá nhân kinh doanh, ngành thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp phối hợp chặt chẽ hơn với cơ quan quản nhà nước ở cấp TW và địa phương, các đơn vị kinh tế có quan hệ với các hộ kinh doanh, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ hơn nữa với hội đồng tư vấn thuế phường xã bởi đây là tổ chức gần dân nhất và sát dân nhất nên sẽ hỗ trợ tích cực cho ngành thuế trong việc quản lý đối tượng này. Thông qua hệ thống dịch vụ hỗ trợ, cơ quan thuế sẽ cung cấp đầy đủ thông tin, kịp thời hướng dẫn các thủ tục cũng như giải pháp nhanh gọn những khó khăn vướng mắc, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để người nộp thuế thu nhập cá nhân thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, cơ quan sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm soát, nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp cố tình vi phạm về khai thuế thu nhập cá nhân để xử lý nghiêm theo luật định.

Ngoài các giải pháp về mặt chế tài, cần có giải pháp để kích thích, khơi dậy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Kinh nghiệm của một số nước đã giải quyết thành công vấn đề này cho thấy, phải giành nhiều ưu đãi để khuyến khích các cá nhân minh bạch hóa hoạt động kinh doanh. Thậm chí ở nhiều nước, Chính phủ còn cấp không máy tính tiền cho các cá nhân kinh doanh; nếu cá nhân nào tự trang bị máy tính tiền thì cơ quan thuế sẽ cho phép tính giảm trừ chi phí mua máy theo một tỷ lệ nhất định ngay trên mỗi hóa đơn tính tiền trong suốt 1 đến 2 năm đầu, hoặc có thể áp dụng biện pháp giảm thuế từng phần để tạo điều kiện cho cá nhân thu hồi vốn và khuyến khích họ sử dụng máy tính tiền. Với biện pháp này, cơ quan thuế sẽ có điều kiện kiểm soát được doanh số, từ đó có cơ sở để quản lý thuế công bằng và hợp lý hơn. Đây cũng chính là một gợi ý hữu hiệu mà Việt Nam nên áp dụng.

2.2. Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, xử phạt vi phạt thuế.

Đối với những hành vi kê khai không đúng về thu nhập, khai giảm trừ người phụ thuộc, ngành thuế cần kết hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị của đơn vị chi trả thu nhập và hội đồng tư vấn thuế phường xã để nắm chắc thông tin thông tin về người phụ thuộc, trên cơ sở đó kiểm soát trở lại việc kê khai của người nộp thuế. Bên cạnh đó cơ quan thuế cần tăng cường kiểm tra, đối chiếu giữa bản kê khai và hồ sơ chứng minh người phụ thuộc để phát hiện các dấu hiệu khai gian, khai trùng để xử lý.

Về mặt công nghệ, ngay sau khi cá nhân nộp thuế nộp bản khai và hồ sơ chứng minh người phụ thuộc thì toàn bộ dữ liệu này phải được nhập vào hệ thống dữ liệu thông tin quản lý thuế, đồng thời với mỗi người phụ thuộc sẽ được phát một mã nhận diện (ví dụ một loại mã số tương tự mã số thuế). Trên cơ sở đó, bất cứ trường hợp nào khai trùng, mã nhận diện sẽ phát hiện và cho phép loại bỏ. Theo kinh nghiệm của nhiều chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực này thì việc sử dụng mã nhận diện sẽ cho phép loại bỏ gần như hoàn toàn những trường hợp khai trùng về người phụ thuộc, các dữ liệu về thu nhập cá nhân nộp thuế cũng sẽ được các đơn vị chi trả thu nhập khai và được nhập vào dữ liệu quản lý của cơ quan thuế. Cá nhân có thu nhập khai không đúng thu nhập dữ liệu máy tính báo để cơ quan thuế biết. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Trong giai đoạn đầu triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân, cơ quan Thuế nên dùng chủ yếu biện pháp kiểm tra, nhắc nhở để người nộp thuế khai đúng, đầy đủ, nhưng nếu nhắc nhở rồi mà cá nhân vẫn vi phạm thì cơ quan thuế phải áp dụng các hình thức xử lý nghiêm theo quy định tại Luật Quản lý thuế tức là vi phạm nhẹ thì phạt cảnh cáo, hành chính, vi phạm nặng có thể bị truy tố xử lý hình sự.

Theo quy định mới của Bộ Tài chính, các cá nhân trốn thuế, nợ đọng kéo dài ngoài việc bị cưỡng chế thu nhập, khấu trừ lương có thể sẽ phải kê biên tài sản cho cơ quan Nhà nước. Ví dụ: Đồ dùng sinh hoạt thông thường như quần áo, giường tủ, bàn ghế.. sẽ không bị kê biên. Tuy nhiên, đồ dùng sinh hoạt giá trị cao như tủ lạnh, TV, máy điều hòa, máy giặt, máy vi tính, đồ trang sức vàng bạc đá quý sẽ bị kê biên. Riêng nhẫn cưới, tuy là vàng quý nhưng sẽ không bị kê biên.

Cơ quan thuế sẽ yêu cầu cơ quan, công ty nơi cá nhân nợ thuế làm việc tiến hành khấu trừ thu nhập của cá nhân đó. Lương, thưởng, trợ cấp hàng tháng có thể bị khấu trừ từ 10% đến 30%. Các khoản thu nhập khác của người trốn thuế có thể bị khấu trừ đến 50%.

Trước khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế như thu hồi mã số thuế, đình chỉ sử dụng hóa đơn, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của người nợ thuế, cơ quan chức năng nên công bố danh tính trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2.3. Cải cách các thủ tục hành chính. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Ngành thuế phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính thuế trong đó chú trọng cải cách hành chính thuế thu nhập cá nhân, hướng đến các mục tiêu đơn giản và giảm thiểu các thủ tục hành chính cho các cá nhân và cơ quan chi trả thu nhập. Cũng cần nói rằng thậm chí, việc áp dụng một cách khoa học về chính sách thuế thu nhập cá nhân có thể liên quan đến mức độ thành công của công cuộc cải cách hành chính này.

2.3.1. Cải thiện lương của viên chức hành chính công thông qua chính sách thuế thu nhập cá nhân hợp lý.

Nếu như xã hội ta tạo mọi điều kiện một cách công bằng cho mỗi công dân phát triển nghề nghiệp và có được thu nhập thông qua công việc cá nhân thì sự bình đẳng này cũng phải thể hiện ở chỗ ai làm ít, làm nhiều thì đều phải đóng góp cho quốc gia tương ứng với thu nhập của người đó. Nói một cách khác: Mọi công dân đều phải được đối xử bình đẳng với thuế thu nhập.

 Để có thể làm tốt cải cách hành chính, việc đầu tiên mà các nước phát triển đã làm là tăng lương cho công chức để họ đảm bảo được đời sống cho bản thân rồi sau đó là hoàn thành tốt chức năng của mình với đất nước. Việt Nam ta chắc cũng không thể bỏ qua chính sách này. Vậy đâu là liên quan giữa khoản thất thu thuế do chính sách không thu thuế từ những người có thu nhập từ mức trung bình trở lên trong xã hội và số tiền cần thiết để tăng lương cho công chức? Giả thiết có 2 triệu công chức cần được tăng lương: Nếu bổ đầu 1 tỷ USD (tiền thuế thất thoát hàng năm) cho 2 triệu người thì mỗi viên chức hành chính công sẽ có thu nhập tăng thêm ít nhất 650.000đ/tháng so với mức lương của họ hiện nay.

2.3.2. Thay đổi tư tưởng, nhận thức của người làm công tác thuế cũng như người nộp thuế.

Đương nhiên là giảm thiểu cơ quan hành chính, giảm thiểu các công đoạn ra quyết định là một công đoạn quan trọng của cải cách hành chính, song đó là Tinh giảm hành chính chứ chưa phải là cải cách hành chính thực sự. Cái hồn” của công cuộc cải cách hành là thay đổi tư tưởng từ người dân đến người làm hành chính công là phải làm sao để chuyển Dịch vụ hành chính công từ Xin/cho thành Nghĩa vụ/Trách nhiệm một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất cho mọi công dân.

Mối quan hệ nhân quả này có thể được hiểu thế này: Để có cải cách hành chính thành công, phải có chế độ lương thích hợp cho những người trong biên chế, chính phần thuế thu nhập của mọi đối tượng có thu nhập (ít nhất là tạm trừ ra lương tối thiểu) sẽ đủ để tiếp sức cho đội ngũ công chức hành chính công. Và khi người làm hành chính công hiểu rằng, lương của họ là từ đóng góp của mọi lao động mà ra thì sự tôn trọng của họ trước thân dân sẽ phải tăng lên. Về phía người dân, dù chỉ đóng thuế thu nhập cá nhân ở mức tối thiểu, họ cũng cảm thấy “tự tin” hơn trước những nhân viên hành chính công.  Chẳng phải tự nhiên mà trên thế giới này, các nước phát triển như Mỹ, Anh hay Nhật luôn có được sự tôn trọng ở mặt bằng quốc tế. Bỏ đi những con ngáo ộp về vũ khí thì trong con mắt thế giới, họ là những người đóng thuế đặc biệt cao cho Liên Hiệp Quốc. Có thể suy ra rằng, trên bình diện quốc tế, dù là còn thu nhập thấp thì ta cũng nên “đóng thuế”, và việc đóng thuế sẽ làm cho ta bình đẳng hơn trong con mắt nhân loại và tự ta, chúng ta sẽ thấy mình “đàng hoàng hơn”, tự tin hơn trong thời WTO.

2.3.3. Chống tham nhũng trong bộ máy hành chính. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Trên tinh thần gắn liền thu nhập cá nhân và thuế với việc phòng chống tham nhũng, chính phủ Singapore đã quyết định tăng lương gấp đôi cho cán bộ công chức cấp cao nhà nước. Tiêu chí của họ là nếu không tăng xứng đáng thì chính quyền Singapore có thể trở thành một chính phủ có sự len lỏi của tham nhũng như các quốc gia khác (Báo Lao động 7/4/07). Trước khi nói về vấn đề này, xin kể thêm một câu chuyện về mua sắm đồ cá nhân tại Mỹ. Một anh bạn người Mỹ gốc Việt về Việt Nam làm ăn đầu tư từ hơn 15 năm nay. Cũng vì phần nhiều công việc của anh đang triển khai ở Việt Nam nên việc nộp thuế thu nhập cá nhân của anh này ở Mỹ chỉ ở mức bình bình. Thấy vợ chồng anh chỉ sử dụng xe ôtô cũ, có người thắc mắc tại sao anh chị đã có tuổi rồi, không mua lấy chiếc xe mới tinh kiểu như BMW hay Mercedes để đi cho an toàn. Câu trả lời của anh thật sự đã gây ra nhiều suy nghĩ: ở xứ Mỹ này, khi đi đăng kí xe ôtô người ta sẽ “xăm xoi” xem anh đóng thuế thu nhập bao nhiêu? Nếu trong mã số thuế cá nhân, mức anh đóng chỉ đủ để mua xe Kia Hàn Quốc thì việc anh tậu một chiếc Mercedes sẽ ngay lập tức chứng tỏ rằng anh đang có “vấn đề” về thuế thu nhập cá nhân – ít nhất, anh đã có những khoản thu nhập không chính đáng.

 Như vậy, việc kiểm soát thuế thu nhập cá nhân đối với mọi đối tượng có thu nhập sẽ là một công cụ đặc biệt hiệu quả để chống tham nhũng và Việt Nam cũng nên áp dụng một cách thích hợp cho mình. Ví như có một đội ngũ thanh tra các cán bộ ngành thuế, rồi có các đội kiểm tra chéo nhau giữa các đơn vị trong cùng ngành hoặc trái ngành…

2.4. Chuẩn bị thật tốt các điều kiện cơ sở vật chất cho triển khai Luật thuế thu nhập cá nhân.

2.4.1. Về công tác tuyên truyền, hỗ trợ.

Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cho các đối tượng nộp thuế: Không phải mọi công dân Việt Nam đều hiểu được Thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với ngân sách quốc gia; đơn giản vì những người cả đời không phải đóng lấy một xu nào cho công quĩ thì chắc chắn họ không thể có cái cảm giác thuế liên quan đến họ như thế nào, cả về quyền lợi cũng như trách nhiệm đối với thuế thu nhập.

Cơ quan thuế cần đẩy mạnh và phát triển các hình thức dịch vụ để phục vụ, hỗ trợ người nộp thuế. Những năm qua, ngành thuế đã triển khai cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, Tổng cục thuế cũng đã có hệ thống tổ chức chuyên trả lời giải đáp chính sách thuế và sẽ đầu tư xây dựng các trung tâm điện thoại giải đáp tự động về thuế thu nhập cá nhân; và cần thiết lập các đường dây nóng, bố trí thường trực giải đáp vướng mắc của người nộp thuế tại tất cả các cơ quan thuế trong cả nước, đồng thời ngành thuế cũng cần phát động phong trào xây dựng nếp văn hóa  mới cho cán bộ thuế với mục tiêu phục vụ nhanh nhất, tận tình nhất, hiệu quả nhất cho người nộp thuế. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Xây dựng và triển khai hình thức trao đổi thông tin trực tuyến và thư điện tử giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thông qua hệ thống mạng ngành thuế.

Nghiên cứu hệ thống hóa các hình thức tuyên truyền hỗ trợ được áp dụng trên thế giới: thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các hình thức tuyên truyền hỗ trợ từ đó đưa ra phương thức thích hợp nhất cho bối cảnh Việt Nam hiện nay. Xây dựng và triển khai chương trình, nội dung giáo dục về thuế thu nhập cá nhân bắt buộc ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Từ đó in ấn tài liệu, giáo trình chung về thuế thu nhập cá nhân cho các đối tượng này, và mở rộng dần ra là đối tượng cán bộ công chức, cá nhân kinh doanh…

Cần chuẩn hóa các nội dung tuyên truyển hỗ trợ và thống nhất triển khai trên toàn quốc. Trước hết cần rà soát toàn bộ nội dung của hệ thống tài liệu tuyên truyền, bổ trợ; cập nhật các văn bản pháp luật trên website ngành thuế… Có một yêu cầu đặt ra là tài liệu cũng như nội dung các chương trình tuyên truyền không được quá phức tạp, dài dòng mà phải ngắn gọn, xúc tích để các đối tượng nộp thuế dễ tiếp thu và áp dụng.

2.4.2. Hoàn thiện hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin.

Thuế thu nhập cá nhân là một sắc thuế phức tạp với số đối tượng nộp thuế lớn, đối tượng chịu thuế có nhiều nguồn và phát sinh ở nhiều nơi khác nhau, chỉ  có ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại mới có thể quản lý thuế thu nhập cá nhân hiệu quả. Do đó phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế.

Cần thiết kế lại tổng thể hệ thống tin học theo hướng đáp ứng các yêu cầu nghệp vụ cải cách: hệ thống mạng và hệ thống hạ tầng truyền thông, cơ sở dữ liệu, hệ thống phần mềm ứng dụng và trang thiết bị tin học. Nâng cấp website của ngành thuế hoặc xây dựng riêng một website về thuế thu nhập cá nhân, tạo thêm các kênh giao tiếp giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế như hệ thống quản lý trao đổi thư điện tử, hỏi đáp trực tuyến…

Một giải pháp quan trọng nữa là ngành thuế sẽ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin làm cơ sở để đối chiếu doanh số, chi phí và theo dõi kịp thời, chính xác việc nộp thuế của các hộ kinh doanh. Mặc dù thừa nhận thực tế là trước đây, các hộ kinh doanh hầu hết đều không thực hiện chế độ kế toán mà nộp thuế theo phương thức khoán nên cơ sở dữ liệu về số đối tượng này để phục vụ cho việc quản lý thuế thu nhập cá nhân sẽ phải thiết lập lại gần như từ đầu, nhưng ngành thuế vẫn phải làm tốt điều này, để giảm thiểu những rủi ro trong công tác quản lý thu nhập, thiết lập một môi trường quản lý thu nhập nói riêng cũng như quản lý thuế thu nhập cá nhân nói chung minh bạch và hiệu quả. Kinh nghiệm của các nước đi trước đó là bất cứ quốc gia nào, kể cả những có nền kinh tế – xã hội phát triển như Nhật Bản, Úc, Mỹ… khi bắt đầu quản lý thuế thu nhập cá nhân cũng phải trải qua thời kỳ xây dựng cơ sở dữ liệu ban đầu và tìm kiếm các phương thức quản lý phù hợp. Đây được xem là thời kỳ quá độ cần thiết để đưa Luật Thuế thu nhập cá nhân vào cuộc sống. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Để có thể gắn việc thu mọi loại thuế với cải cách hành chính thì không phải chỉ có thay đổi từ tư tưởng mà sự thay đổi đó chỉ có thể làm được khi có sự hỗ trợ của hệ thống công nghệ thông tin mang tính quốc gia: Mã số thuế thu nhập cá nhân gắn liền với thẻ thông tin về thuế. Thậm chí thẻ có thể thay thế chứng minh thư nhân dân (CMTND). Nếu mọi người dân đóng thuế đều có thẻ Thuế, đương nhiên, bảo hiểm y tế sẽ nằm ở trong thẻ này. Một cách tự nhiên, việc cần có một thẻ thuế điện tử sẽ kéo theo một cuộc cách mạng tin học trong cải cách hành chính, ít nhất là: CMTND – Thẻ thuế cá nhân và thẻ bảo hiểm y tế.  Như đã biết, có một vài công ty nhà nước đang sản xuất chíp điện tử cho các nhà khai thác viễn thông. Đối với họ, việc lập trình để biến các con chíp này thêm chức năng CMTND cũng như có thể gộp cả mã số thuế thu nhập, thậm chí cả bằng lái xe, thẻ bảo hiểm y tế  trong một tấm thẻ là điều không phải quá khó.

Hay một ứng dụng công nghệ thông tin khác cũng rất khả thi đó là hệt thống mã vạch điện tử: Mã vạch điện tử đã không còn xa lạ với người dân trong siêu thị, chỉ một tiếng “bíp” đơn giản là hàng đã được thanh toán, điều đó cũng có nghĩa rằng sau một tiếng “bíp” đó, thuế cũng đã được tính cho nhà nước. Suy rộng ra, mỗi một cá nhân cũng cần có một cơ chế “mã vạch” để theo dõi việc nộp thuế thu nhập.

2.4.3. Đào tạo đội ngũ cán bộ ngành thuế.

 Một biện pháp nữa là: cần chú trọng đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngành thuế nắm vững vai trò, nội dung chính sách trong cơ chế thị trường, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thuế. Cán bộ thuế cần có trình độ cao và đồng đều, am hiểu về tin học, có khả năng phân tích kiểm tra sổ sách kế toán, chứng từ để đối chiếu tờ khai thuế thu nhập của đối tượng nộp thuế. Tổ chức các cuộc bồi dưỡng cán bộ thường xuyên, định kỳ nhằm cập nhật thông tin về thuế thu nhập cá nhân và học hỏi kinh nghiệm quản lý kiểm tra thuế của các nước trên thế giới.

 Ngoài ra có thể xây dựng tiêu chuẩn cho từng loại công chức thực hiện từng chức năng quản lý của ngành. Đồng thời, đánh giá phân loại cán bộ thuế theo trình độ, thâm niên công tác. Lựa chọn cán bộ có quá trình công tác tốt, kinh nghiệm cũng trình độ tham gia các chương trình đào tạo chuyên sâu tại các nước tiên tiến trong khu vực; mời các chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam, tổ chức các khóa bồi dưỡng chuyên sâu các chức năng quản lý thuế nói chung và kỹ năng về thuế thu nhập cá nhân nói riêng.

2.5. Phát triển các dịch vụ thuế có liên quan. Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Người Việt Nam cần quen với tư vấn thuế cũng như các dịch vụ thuế liên quan khác liên quan. Từ trước đến nay, đa số cá nhân người Việt Nam đều không mấy khi phải nộp thuế. Thực tế, họ vẫn phải đóng thuế nhưng đa số sắc thuế của Việt Nam là thuế gián thu thông qua giá các hàng hóa, dịch vụ sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất đã đưa vào giá thành và thu hộ Nhà nước, người dân không cảm thấy mình bị thu thuế là vì thế.

Tuy nhiên, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu tức là mỗi cá nhân phải tự kê khai và nộp thuế với cơ quan thuế. Và xu hướng chung của các nước trên thế giới cũng như Việt Nam là các loại thuế trực thu này sẽ có xu hướng tăng lên. Vì thế người dân Việt Nam thay vì thờ ơ với các sắc thuế như trước đây nay sẽ phải đau đầu hơn để làm sao nộp thuế ở mức thấp nhất nhưng vẫn đúng pháp luật. Hay nói cách khác là “lách thuế” có hiệu quả nhất.

Thông thường, đối với thuế thu nhập cá nhân tính trên tiền lương, tiền công thì khá dễ tính nhưng nếu đó là thu nhập từ kinh doanh chung của cả gia đình, lợi nhuận từ kinh doanh bất động sản, chứng khoán thì việc tính toán vận dụng tối đa các ưu đãi, miễn trừ là không phải dễ dàng vì sẽ liên quan đến nhiều pháp luật chuyên ngành khác. Hơn thế nữa, có thể nói việc khó khăn nhất với tất cả các đối tượng nộp thuế đó là bản quyết toán thuế cuối năm phải nộp về Cục thuế. Không phải ai cũng có thể kiểm soát hết được mọi thu nhập của mình trong vòng 1 năm và lập được bảng quyết toán thuế cho riêng mình nhất là những đối tượng trước đây không chịu sự điều chỉnh của Luật Thuế thu nhập cá nhân và những cá nhân không hiểu biết về lĩnh vực tài chính – thuế, và cách tốt nhất là phải nhờ tới các dịch vụ tư vấn thuế.

Thực tế, để thu thuế thu nhập cá nhân một cách hiệu quả, Tổng cục thuế đã triển khai hệ thống các đại lý thu thuế, tức là các đơn vị làm dịch vụ thu thuế để thu ở mức cao nhất có thể. Và ngược lại, các cá nhân hoàn toàn có thể nghĩ đến việc sử dụng các tư vấn để có thể đóng thuế ở mức thấp nhất và vẫn không bị coi là phạm luật. Hay cuối năm các cá nhân có thể thuê các tư vấn viên, hay các tổ chức kế toán (không nhất thiết họ phải là đối tượng được phép kinh doanh dịch vụ tư vấn thuế) tổng hợp và hoàn thành bản quyết toán thuế cho mình – một việc mà không phải cá nhân nào cũng có thể tự làm được hoặc rất ngại làm quyết toán thuế.

Là người thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân, do yêu cầu công việc không thể trực tiếp kê khai, nộp thuế thì cá nhân có thể ủy quyền cho cá nhân khác là người được phép kinh doanh dịch vụ tư vấn thuế thay mặt họ làm các thủ tục như đăng ký, kê khai, quyết toán, hoàn thuế thu nhập cá nhân vì theo điểm 3.1 Mục III Thông tư số 81/2004/TT-BTC (13/8/2004) của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 147/2004/NĐ-CP (23/7/2004) của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế thu nhập cá nhân với người có thu nhập cao qui định đối tượng kê khai thuế như sau: “… Cá nhân đăng ký nộp thuế tại cơ quan thuế, kể cả trường hợp ủy quyền cho các tổ chức, cá nhân được phép kinh doanh dịch vụ tư vấn thuế theo quy định của pháp luật”.

KẾT LUẬN Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu có mối liên hệ mật thiết đến chính sách động viên và đời sống của mọi tầng lớp dân cư. Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã tồn tại 18 năm và được thay thế bởi Luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 là một bước đầy ý nghĩa trong việc áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam. Tuy nhiên việc thực hiện sao cho Luật thuế này phát huy được những điểm tiến bộ và áp dụng hiệu quả vào thực tế cuộc sống là vô cùng quan trọng. ý thức được điều này, Tổng cục thuế cũng như chính phủ đã có những nỗ lực rất lớn để thực thi nhiệm vụ quan trọng này. Tuy chưa giải quyết được triệt để toàn bộ những vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân nhưng đã góp phần đưa Luật thuế vào cuộc sống một cách thuận lợi và hiệu quả nhất.

Trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, người viết đã cố gắng giải quyết những vấn đề sau:

  • Tập hợp, phân tích các vấn đề lý luận về thuế thu nhập cá nhân.
  • Thực tế triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân ở nước ta, những vấn để còn tồn tại cũng như những công tác đã làm khá tốt.
  • Từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước cũng như từ thực tế tại Việt Nam đưa ra những biện pháp nhằm tiến hành triển khai áp dụng Luật thuế thu nhập cá nhân hiệu quả hơn.

Toàn bộ bài khóa luận thể hiện sự cố gắng của người viết trong thời gian qua, và chắc chắn còn nhiều thiếu sót cũng như những hạn chế nhất định. Kính mong các thầy cô và các bạn thông cảm và góp ý để hoàn thiện bài khóa luận này. Xin trân trọng cảm ơn! Khóa luận: Biện pháp triển khai Luật Thuế thu nhập cá nhân.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM ĐẾN DỊCH VỤ:

===>>> Khóa luận: Triển khai áp dụng Luật Thuế thu nhập cá nhân

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
0
Rất thích suy nghĩ của bạn, hãy bình luận.x